Đệ tử cuối cùng của đức phật là ai

  1. Du sĩ ngoại đạo Subhadda nói với tôn giả Ananda:

– Thật là lợi ích, thưa Tôn giả Ananda, thật là thiện lợi, thưa Tôn giả Ananda, được thọ lễ quán đảnh làm đệ tử trước mặt bậc Ðạo Sư!

Và du sĩ ngoại đạo Subhadda được xuất gia, được thọ đại giới với Thế Tôn. Thọ đại giới không bao lâu, đại đức Subhadda ở một mình, an tịnh, không phóng dật, tinh tấn, sống nhiệt tâm, cần mẫn. Và không bao lâu, vị này chứng được mục đích tối cao mà con cháu các lương gia đã xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình hướng đến. Ðó là vô thượng phạm hạnh ngay trong hiện tại, tự giác chứng và an trú. Sanh đã tận, phạm hạnh đã thành, những gì nên làm đã làm, sau đời này sẽ không có đời sống khác nữa.

Và đại đức Subhadda trở thành một A-la-hán nữa. Ðại đức là vị đệ tử cuối cùng được Thế Tôn tế độ.

Xem chi tiết: Tụng phẩm V kinh Đại bát niết bàn

Kinh Trường Bộ – Tập I – 16. Kinh Ðại Bát-Niết-Bàn [Mahàparinibbàna sutta]

Khi giác hạnh đã viên mãn thì Phật đã 80 tuổi. Ðến đây, sắc thân tứ đại của Ngài cũng theo luật vô thường mà biến đổi, yếu già. Năm ấy Ngài vào hạ ở rừng Sa La trong xứ Câu Ly, cách thành Ba La Nại chừng 120 dặm. Một hôm, Ngài gọi ông A Nan, người đệ tử luôn luôn ở bên cạnh Ngài đến và phán bảo:  

-"A Nan! Ðạo ta nay đã viên mãn. Như lời nguyện xưa, nay ta đã có đủ bốn hạng đệ tử: Tỳ kheo, Tỳ kheo Ni, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di. Nhiều đệ tử có thể thay ta chuyển xe pháp, và đạo ta cũng đã truyền bá khắp nơi. Bây giờ ta có thể rời các ngươi mà ra đi. Thân hình ta, theo luật vô thường, bây giờ như một cổ xe đã mòn rã. Ta đã mượn nó để chở pháp, nay xe đã vừa mòn mà pháp cũng đã lan khắp nơi, vậy ta còn mến tiếc làm gì cái thân tiều tụy này nữa? A Nan! Trong ba tháng nữa ta sẽ nhập Niết bàn".  

Tin đức Phật sắp vào Niết bàn, lan ra như một tiếng sét. Các đệ tử của Ngài đi truyền giáo ở các nơi xa, lục tục trở về để cùng đấng Giác Ngộ chia ly lần cuối.  

Nơi Phật Thích Ca nhập niết bàn

Trong thời gian ba tháng cuối cùng của Ngài, đức Phật vẫn không nghỉ ngơi, mà vẫn tiếp tục đi truyền đạo. Một hôm Ngài đi thuyết pháp ngang qua một khu rừng, gặp một người làm nghề đốt than, ông Thuần Ðà, thỉnh Ngài về nhà để thọ trai. Ngài im lặng nhận lời cùng các đệ tử theo ông về. Ðến nhà ông Thuần Ðà dọn ra cúng dường Ngài một bát cháo nấm Chiên đàn, thường gọi là nấm heo rừng, vì giống nấm này rất được giống heo rừng ưa thích.  

Thụ trai xong, Phật cùng các đệ tử từ giã ông Thuần Ðà ra đi. Ðược một quãng đường, Ngài giao bình bát cho ông A Nan và truyền treo võng lên, trong rừng cây Ta La [Tàu dịch là cây song thọ, cây có hai nhánh lớn chia ra như hai cái nạn], để Ngài nằm nghỉ. Ngài nằm xuống võng đầu trở về hướng Bắc, mình nghiêng về phía tay phải, mặt xây về hướng mặt trời lặn, hai chân tréo vào nhau. 

Đệ tử cuối cùng của Phật

Nghe tin Ngài sắp nhập Niết bàn, dân chúng quanh vùng đến kính viếng rất đông, trong số ấy có một ông già ngoài 80 tuổi, tên Tu Bạc Ðà La đến xin xuất gia thọ giới Sa di với Ngài, Ngài hoan hỷ nhận lời. Ðó là người đệ tử chót trong đời Ngài.  

Phật nói Kinh Di Giáo và những lời phú chúc  

Lúc bấy giờ các đệ tử của Ngài đều có mặt đông đủ, chỉ trừ ông Ca Diếp vì đi thuyết pháp xa, chưa về kịp. Ngài hội tất cả đệ tử và tín đồ đến quanh Ngài và dặn dò một lần cuối. Ngài phú chúc như sau:  

a] Y, bát của Ngài sẽ truyền cho ông Ma Ha Ca Diếp.  

b] Các đệ tử phải lấy Giới luật làm Thầy.  

c] Ở đầu các Kinh phải nên nêu 4 chữ: "Như thị ngã văn".  

d] Xá lợi của Ngài sẽ chia làm ba phần:  

- Một phần cho Thiên cung,  

- Một phần cho Long cung,  

- Một phần chia cho 8 vị Quốc vương ở Ấn Độ  

Sau đây là lời vàng ngọc mà Ngài đã để lại trong giờ phút cuối cùng: 

- "Này! Các người phải tự mình thắp đuốc lên mà đi! Các người hãy lấy Pháp của ta làm đuốc! Hãy theo Pháp của ta mà tự giải thoát! Ðừng tìm sự giải thoát ở  một kẻ nào khát, đừng tìm sự giải thoát ở một nơi nào khác, ngoài các người!..".   

- "Này! Các người đừng vì dục vọng mà quên lời ta dặn. Mọi vật ở đời không có gì quí giá. Chỉ có chân lý cuả đạo ta là bất di, bất dịch. Hãy tinh tiến lên để giải thoát, hỡi các người rất thân yêu của ta!".  

Sau khi đã dặn dò cặn kẽ xong, Ngài nhập định rồi vào Niết bàn. Lúc bấy giờ  nhằm ngày Rằm tháng Hai Âm lịch [theo giáo sử Trung hoa].  

Rừng cây Ta-la tuôn hoa xuống phủ lên thân Ngài, trời đất u ám, cây cỏ héo úa, chim chóc im bặt tiếng hót. Vạn vật như chìm lặng trong giây phút nặng nề của sự chia ly.  

Các đệ tử tẩn liệm xác Ngài vao trong kim quan và 7 ngày sau, đua kim quan Ngài vào thành Câu thi để tại chùa Thiện Quang và làm lễ trà tỳ [lễ hỏa thiêu].  

Tám vị Quốc vương lớn ở Ấn Độ kéo binh hùng tương dũng đến toan tranh dành Xá lợi. Nhưng ông Hương Tích y theo di chúc của Phật, đứng ra điều đình, và nhờ thế việc phân chia Xá lợi đều được ổn thỏa.  

[Trích trong "Phật học Phổ thông" của Hòa thượng Thích Thiện Hoa]

Đức Phật đang nằm trên giường giữa những cây Sa-la trong tư thế kiết tường, nhiều đệ tử vây quanh Đức Phật, ai nấy đều lấy tay lau nước mắt. Lúc này gió ngừng thổi, chim ngừng hót, cả khu rừng như đang trào nước mắt , trăm hoa đều khô héo, cả thế gian là một không khí ảm đạm thê lương.

Đệ tử cuối cùng của Phật Đà

Trước khi Đức Phật nhập niết bàn, có một người ngoài đạo là Tu-Bạt-Đà-La, thọ hơn một trăm tuổi và là một trưởng lão có kiến ​​thức đạo đức tuyệt vời trong số những người ngoại đạo. Tuy nhiên, ông ấy chưa được nghe Phật Đà giảng Pháp. Ngày ấy, nghe tin Đức Phật sắp nhập Niết-bàn, tưởng rằng ngọn đèn trí tuệ sẽ tắt và con thuyền Phật pháp sẽ chìm, ông phải thu hết can đảm, vội vàng đến xin Đức Phật chỉ bảo, để phá tan những nghi ngờ trong tâm bấy lâu nay của ông.

Tu-Bạt-Đà-La đến cạnh cây Sa-la, quỳ xuống bên cạnh Đức Phật. Lúc bấy giờ, A-nan đang hầu cận Đức Phật, thấy khách là người ngoại đạo, sợ đến tranh luận với Đức Phật, bèn vội vàng tiến đến ngăn cản và nói: “Xin đừng làm phiền. Đức Phật đêm nay sẽ nhập Niết-bàn.”

Tu-Bạt-Đà-La trả lời với Đại đức A-nan rằng: “Chính vì nghe tin Đức Phật sắp nhập Niết-bàn, tôi đã đến đây. Lúc này, tôi đã cảm thấy Phật thật sự khó gặp, Phật pháp thật sự khó gặp. Có một điều nghi ngờ ở trong lòng tôi chỉ có Đức Phật mới có thể giải quyết được nó!”.

Đức Phật nghe tiếng liền nói với A-nan rằng: “Ông ấy không đến để tranh luận với ta. Ông ấy là Tu-Bạt-Đà-La, đệ tử cuối cùng của ta. Hãy để ông ấy đến gặp ta, và tôi sẽ giải tỏa mối nghi ngờ của ông ấy.”

Nhìn thấy Đức Phật, Tu-Bạt-Đà-La mừng rỡ hỏi: “Thưa Đức Phật! Các nhà khổ hạnh, Bà la môn, và sáu thầy ngoại đạo đều nói rằng họ đều là người tu Chính đạo, còn những người khác là tà đạo. Con phải phân biệt chính xác như thế nào? Vì con muốn tìm được Phật Pháp”.

Đức Phật cười đáp: “Này con! Trên thế gian bất luận là tu hành theo đạo nào, nếu không biết đạo hạnh, không có Pháp, không có chính Pháp, không có chứng ngộ, không có chính tâm, chính niệm, không tu tâm thì không phải là tu đạo chân chính thì không thể tự độ và giải thoát, chỉ có Phật Pháp mới là con đường giải thoát thực sự.”

Sau khi nghe lời Phật dạy, Tu-Bạt-Đà-La giải tỏa được mối nghi ngờ, hoan hỷ tán thán, đảnh lễ trước chân Đức Phật, và trở thành đệ tử cuối cùng của Đức Phật.

Những lời dạy cuối cùng của Đức Phật lấy giới luật làm thầy

Đức Phật lòng tĩnh lặng, cũng không khác gì thường ngày giảng đạo, lặng lẽ đưa ra lời di huấn cuối cùng cho đệ tử:

Đệ tử của ta! Sau khi ta nhập niết bàn, bạn nên tôn trọng và nâng niu Patimokkha [luật giới bản], giữ gìn và đừng quên giới luật này. “Giới” là bậc thầy hướng dẫn, chỉ đạo các con tu luyện, khi các con luôn duy trì giới luật thì như người nghèo được báu vật, như ngọn đèn cháy sáng trong đêm tối. Điều này không có khác gì gì khi ta còn tại thế.

Đệ tử của ta! Các con phải truyền bá chính Pháp, lấy chân lý Phật Pháp mà hành xử. Không được sinh lòng ham muốn tài vật hay bất kể thứ gì. Các con là những người tu Phật, mang lợi cho người sẽ tự có người cúng dường nên không cần bận tâm về cuộc sống.

Đệ tử của ta! Các con hãy tuân theo chánh pháp, đừng hám lợi, không được xem ma thuật, bùa chú, may rủi, đừng kết thân với những người giàu sang để tránh bị kinh nhờn vô lễ. Các con nên tự biết cách tiết kiệm tiết chế trong ăn uống, sinh sống thanh tịnh. Hãy đoạn hết thảy nhân tâm mà giữ gìn chính niệm, không được biểu hiện quá khác biệt với mọi người.

Hỡi các đệ tử, các con hãy học cách khống chế lục căn [“mắt, mũi, tai, lưỡi, thân, ý”], đừng theo đuổi lục trần để bản thân không bao giờ phóng túng, an dật, sa đọa. Cũng giống như khi thuần phục một con ngựa hung dữ, nhất định phải dùng hàm thiếc và dây cương nếu không sẽ làm người ta bị vùi vào hố sâu. Cái hại của loại ngựa hung dữ chỉ có trong một đời, nhưng cái hại của lục căn là có liên quan tới nhiều đời kế tiếp, bởi vậy không thể không cẩn trọng chú ý điều này.

Lục căn bắt đầu từ tâm

Đệ tử của ta! “mắt, mũi, tai, lưỡi, thân, ý” – lục căn này đều lấy tâm làm chủ, mọi người hãy tự quản thúc thật tốt tâm mình. Sự đáng sợ của nhân tâm thậm chí còn hơn cả ɾắᥒ độᴄ, ác thú, gian thần và trộm cắp. Cũng giống như một người cầm mật ong trong tay, chỉ nhìn thấy mật mà không chú ý tới đường đi tới mức bị rơi xuống hố. Buông thả tâm tính bản thân, muốn làm gì liền làm nấy sẽ giống như con voi xổng chuồng, có thể sẽ làm mất hết những việc thiện đức. Bởi vậy các con cần tinh tấn tu hành, đặt tâm ở cảnh giới bình thản.

Đệ tử của ta! Khi nhận đồ ăn và đồ uống cúng dường thì nên coi đó là thuốc phải uống, tốt hay xấu đều không nên thêm bớt. Đừng để khởi tâm tham lam ham muốn, ăn uống chẳng qua chỉ là để nuôi dưỡng sắc thân, trừ bỏ cơn đói khát của cơ thể. Nhận đồ cúng dường cũng giống như con ong hút mật, chỉ hút lấy mật mà không làm tổn hại tới hương sắc của hoa, không nên cưỡng cầu nhiều ít để tránh làm hủy hoại thiện tâm của bản thân.

Đệ tử của ta! Nếu có người làm tổn hại các con, hãy tự biết tu dưỡng tâm mình, không được khởi bất kể niệm đầu oán hận nào, càng cần giữ miệng không nói những ngôn từ cay nghiệt. Các con hãy luôn ghi nhớ, nếu phóng túng tâm oán hận sẽ làm trở ngại tới việc tu đạo, phá vỡ pháp thiện của bách gia, hủy hoại thanh danh mà mất đi báu vật quý giá là phẩm đức. Mỹ đức nhẫn nại là điều cao cả hơn giới cấm và khổ hạnh. Những người có thể hành “nhẫn” mới có thể hoàn thành mọi việc. Nếu không giữ được tâm thái vui vẻ, không thể coi việc nghe lời mắng chửi là đang uống nước cam lộ, thì không thể được gọi là người trí huệ hữu đạo.

Đệ tử của ta! Đừng có kiêu ngạo, đừng nịnh nọt, đừng lừa dối và đừng keo kiệt.

Đệ tử của ta! Các con hãy luôn nhớ rằng người càng nhiều ham muốn thì khổ não sẽ càng nhiều; người ít có ham muốn dục vọng mới có thể sống bình thản trên thế gian này. Các con hãy giải thoát bản thân khỏi những khổ não đó bằng cách biết đủ làm vui, chỉ có cách biết đủ mới chính là đạo của hạnh phúc an lạc.

Tinh tấn hoằng dương Phật Pháp

Đệ tử của ta! Các con chỉ cần siêng năng tinh tấn hoằng Pháp tu Đạo thì cho dù việc lớn hay nhỏ cũng không có gì khó khăn trở ngại. Cũng giống như nước, dù chỉ là giọt nhỏ cũng có thể đục đá xuyên núi, tiến ra sông rộng biển lớn. Nếu lười nhác không coi trọng việc hoằng Pháp cũng sẽ giống như gom củi đốt lửa, hễ không đủ nóng sẽ lập tức bị tắt. Cho dù muốn có lửa nhưng không gom củi thì lửa cũng chẳng thể tự động chạy tới được.

Đệ tử của ta! Các con không được quên chính niệm của bản thân, chỉ cần có chính niệm thì hết thảy mọi phiền não ác ma sẽ không thể xâm nhập. Các con hãy làm một tướng quân dũng mãnh, cầm lưỡi dao thiền định mà đi chinh phục ma quỷ trong cảnh giới lục trần; đeo lưỡi kiếm trí huệ sắc bén, biết được pháp tướng sinh diệt của thế gian sẽ có thể hàng phục tất cả mọi khó khăn hoạn nạn.

Đệ tử của ta! Trong biển khổ sinh tử này các con hãy nắm thật chắc thuyền pháp trí huệ, vượt qua những chấp mê về thất tình lục dục ở cõi hồng trần, đốt lên ngọn đuốc của trí huệ để đi qua thế gian vô minh u ám.

Hỡi các chư tì khâu đệ tử, các con hãy ghi nhớ Pháp mà ta đã thuyết. Ta giống như lương y bắt đúng bệnh bốc đúng thuốc, còn uống hay không không thể trách tội của lương y; ta cũng giống như một người dẫn đường thiện lương dẫn mọi người theo thiện đạo, chỉ nghe mà không hành thì không thể trách người dẫn đường.

Hỡi các chư tì khâu đệ tử, “Tứ thánh đế” và “Thập nhị nhân duyên” mà ta từng đề cập đến chính là chân lý nhân sinh của vũ trụ. Nay đã đến lúc ta nhập niết bàn, nếu còn điều gì chưa hiểu có thể hỏi ta, ta sẽ lập tức giải đáp cho các con.

***

Đêm thâu tịch lặng chỉ nghe thấy tiếng Phật Đà thuyết pháp, bên ngoài ánh trăng sáng tỏ, sao băng vút qua bầu trời, các đệ tử tì khâu đến thở cũng không dám thở mạnh để lắng nghe những lời Pháp cuối cùng của Đức Phật Thích Ca. Cuối cùng Ngài hỏi mọi người về Tứ thánh đế và Thập nhị nhân duyên, còn điều gì không hiểu có thể hỏi. Ngài hỏi 3 lần và chúng đệ tử đều im lặng không nói, bởi không còn gì nghi vấn. Lúc đó Aniruddha thưa với Đức Phật: “Thưa Phật tổ Như Lai, chúng con đã hiểu được chân lý của Tứ thánh đế và Thập nhị nhân duyên. Trong thế gian này trăng có thể làm nóng, mặt trời có thể làm lạnh nhưng giáo pháp Tứ thánh đế và Thập nhị nhân duyên thì không thể làm thay đổi”.

Đức Phật rất điềm tĩnh không có một chút biểu hiện mệt mỏi. Cuối cùng đại địa rung động, hoa sa-la rụng xuống như mưa, các đệ tử đột nhiên thấy tâm thần chấn động, thì ra Đức Phật Thích-Ca đã nhập niết bàn…

Đăng Dũng biên tập

Nguồn: secretchina  [Thái Văn]

            ĐKN [Kiên Định]

Xem thêm

Xem thêm

Video liên quan

Chủ Đề