Đọc, kể diễn cảm là gì

PHƯƠNG PHÁP đọc DIỄN cảm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây  [1.16 MB, 119 trang ]

PHƯƠNG PHÁP ĐỌC
DIỄN CẢM
1
1

Khái niệm.

Khái niệm.
2
2

Đặc điểm.

Đặc điểm.
3
3

Nội dung.

Nội dung.
4
4

Ưu điểm.

Ưu điểm.
1. Khái niệm.
1. Khái niệm.

Đọc diễn cảm chính là một phương tiện giáo dục đạo đức và thẩm mỹ, phát huy năng
lực sáng tạo cho cả người dạy và người học trong quá trình học văn. Phương pháp đọc


diễn cảm từ lâu là một phương pháp đã được tiến hành trong nhà trường.

Đọc diễn cảm [còn gọi là đọc hay] là một hình thức bộc lộ cảm thụ văn bản. Qua đọc
diễn cảm, người giáo viên sẽ đo được mức độ cảm thụ của học sinh. Vì thế có thể nói:
Đọc diễn cảm là một kĩ xảo của quá trình đọc.

Nếu như các biện pháp khác thông thường tác động đến lý trí thì đọc diễn cảm, trước
hết và chủ yếu tác động đến tình cảm. Bởi vì, về thực chất đọc diễn cảm thuộc nghệ
thuật trình diễn, nó có những điểm tương đồng với ngâm thơ hoặc trình diễn ca khúc.
Tuy nhiên, cũng như nhiều phương pháp dạy học quen thuộc khác, đọc diễn cảm cần
phải được nhìn nhận lại khi xu thế dạy học văn thay đổi. Thay vì giảng văn đơn
phương một chiều thì phương pháp dạy học tác phẩm văn chương hiện nay là: phát
huy vai trò chủ thể cảm thụ, sáng tạo của học sinh trong giờ học văn.
2. Đặc điểm
2. Đặc điểm

Cơ sở của việc đọc diễn cảm là ngữ điệu trong câu. Ngữ điệu bao gồm tất cả các
dấu hiệu âm thanh phức tạp: Sự thay đổi của giọng nói cơ bản, độ vang to, âm
sắc, độ dài, chỉ nghĩ hơi [những chỉ ngắt câu].
Ví dụ: trong bài thơ Từ Ấy [Tố Hữu]: Cách ngắt nhịp trong bài tạo ra tính nhạc : Từ
ấy / trong tôi / bừng nắng hạ làm cho bài thơ thêm hay , thể hiện đúng tâm trạng
của nhà thơ.

Nhiệm vụ của việc đọc diễn cảm là tái hiện lại hình tượng nghệ thuật, hiểu được giá trị
nội dung nghệ thuật và chủ đề tác phẩm một cách chân thực.Qua đọc có thể giúp cho học
sinh rèn luyện kĩ năng tổng hợp, phê phán vận dụng những kĩ năng đã học để cảm nhận
những giá trị thẩm mĩ của văn bản. Ngay từ lần tiếp xúc đầu tiên đã quyết định vấn đề
học sinh có yêu thích tác phẩm hay không. Những ấn tượng ban đầu là những ấn tượng
mới mẻ, là nền móng cho sự sáng tạo trong quá trình phân tích
văn bản. Kỹ năng đọc diễn cảm của học sinh sẽ được hình thành trong quá trình phân tích

tác phẩm văn học và trong quá trình biểu diễn những tác phẩm đó. Có nghĩa là việc rèn
luyện đọc diễn cảm sẽ có tác dụng góp phần làm hoàn thiện ngôn ngữ. Đó là một trong
những hình thức phát triển ngôn ngữ nói của học sinh.
Ví dụ: bài thơ Quê hương của Giang Nam. Phần đầu của bài thơ giáo viên đọc chậm rãi
[như đang nhấm nháp những kỉ niệm ngọt ngào tuổi ấu thơ]: Thuở còn thơ ngày hai buổi
đến trường/ Yêu quê hương qua từng trang sách nhỏ/.Tôi nắm bàn tay nhỏ nhắn ngậm
ngùi/ Em vẫn để yên trong tay
tôi nóng bỏngđến đoạn người lính trở về, nhận được tin cô gái mất giáo viên chuyển
giọng đột ngột:
Hôm nay nhận được tin em/ Không tin được dù đó là sự thật/ Giặc bắn em rồi quăng mất
xác/ Chỉ vì em là du kích em ơi/ Đau xé lòng anhchết nửa con người.
Nhịp điệu dồn dập đó nói lên nỗi đau bất ngờ, bàng hoàng, không thể tin được trước một
sự thật đau lòng. Giáo viên không cần giảng giải nhiều nhưng học sinh vẫn hiểu. Đó chính
là hiệu quả của ngữ điệu đọc mà người giáo viên mang lại cho học trò của mình.

Nghệ thuật đọc diễn cảm là quá trình rèn luyện lâu dài, không ngừng tích lũy kiến
thức và rèn luyện kĩ năng dần dần từng bước. Trong bất kì trường hợp nào không
thể tách rời hoạt động đọc với tìm hiểu văn bản.Giáo viên có thể hổ trợ học sinh
bằng những câu hỏi hay những gợi ý trong giờ học.
Ví dụ: giáo viên có thể hướng dẫn học sinh bằng nhiều cách đọc khác nhau vừa tìm
những từ ngữ khó hiểu và giải nghĩa,phát hiện các biện pháp nghệ thuật và các chi
tiết quan trọng của văn bản để tái hiện, đồng cảm với những gì tác giả nói đến trong
văn bản.



Đọc diễn cảm đòi hỏi người nghe, người đọc - học sinh phải tích cực, sáng tạo,
phát huy cao độ vai trò chủ thể cảm thụ: Đọc diễn cảm cảm đều gắn liền với
người đọc - học sinh. Nó đòi hỏi học sinh phải là chủ thể cảm thụ, bạn đọc của
nhà văn nếu như không muốn đọc giả hay trình diễn một cách thô thiển cảm

xúc thẩm mĩ của nhà văn. Nhưng đấy là khi học sinh xuất hiện trong tư cách
người đọc.
Không thể đòi hỏi ở học sinh một sự cảm thụ tương đương với thầy giáo, nhưng ở
góc độ của người nghe, học sinh cũng phải tích cực để có thể cảm nhận được tiếng
nói của nhà văn đang được dẫn truyền qua giọng đọc diễn cảm của thầy giáo. Nghĩa
là học sinh phải có tâm thế của bạn đọc, tập trung sự chú ý của mình để không rơi
vào trạng thái tai trâu không thấu được tiếng đàn [Đàn gảy tai trâu].
Học sinh ngày nay là đối tượng khá nhạy cảm và nhạy bén. Trình độ tư duy và khả
năng thưởng thức cái đẹp so với các thế hệ đồng lứa của mấy thập kỉ trước có một sự
vượt trội không nhỏ. Chưa kể là các nguồn thông tin, băng hình tư liệu về tác giả, tác
phẩm, các kênh biểu diễn nghệ thuật đến với các em hằng ngày, hằng giờ dưới rất
nhiều hình thức, góc độ khác nhau. Thật dễ mà cũng thật khó cho người giáo viên
trước những bạn đọc nhà trường non trẻ về tuổi đời nhưng chưa chắc đã thiếu sâu sắc
và tinh nhạy trong cảm thụ nghệ thuật

Đọc diễn cảm chứa đựng khả năng phát triển tính tích cực, sáng tạo ở người đọc - học
sinh: đọc diễn cảm không chỉ đòi hỏi người đọc phải là một bạn đọc tích cực, năng
động mà còn là hoạt động nuôi dưỡng và phát triển sự cảm thụ sáng tạo của con người.
Đó là những cảm xúc tươi mới, độc đáo của người đọc trong cảm nhận thẩm mĩ và thể
nghiệm nghệ thuật. Vấn đề còn lại là người giáo viên phải làm thế nào để bồi dưỡng,
rèn luyện cho học sinh năng lực đọc diễn cảm và khơi dậy ở các em cái khát vọng trình
bày, cái động cơ thể hiện việc truyền cảm như một hành vi văn hóa đầy tinh thần sáng
tạo.

Đọc diễn cảm là hoạt động tri giác, kích thích liên tưởng, tưởng tượng, hồi ức giúp
người đọc nhập thân vào tác phẩm: Những con chữ trên trang văn chỉ thực sự lên
tiếng, đối thoại, bộc bạch khi nó được tác động, đánh thức bởi hoạt động tri giác
ngôn ngữ của người đọc. Cụ thể là người đọc bằng hành động đọc của mình biến
những kí hiệu chết trở thành những sinh ngữ nghệ thuật và quan trọng hơn là
thông qua đọc diễn cảm để làm sống dậy, bừng tỉnh cái thế giới nghệ thuật vốn

không thể soi ngắm bằng mắt thường.
Ví dụ: Một bức tranh thôn Vĩ xinh đẹp, tinh khôi trong buổi nắng mai:
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền
[Đây thôn Vĩ Dạ - Hàn Mặc Tử]
Một bức chân dung lưu manh, bặm trợn của anh Chí Phèo: Cái đầu thì trọc lốc, cái răng
cạo trắng hớn, cái mặt thìđen mà lại rất cơng cơng. Đôi mắt gườm gườm trông gớm chết!
[Chí Phèo  Nam Cao].
Tất cả chỉ hiện ra trong nội quan của người đọc. Nói cách khác người đọc chỉ
trông thấy nó bằng con mắt thứ ba

Đọc diễn cảm làm cho sự cảm thụ của người đọc, người nghe trở nên sâu sắc và
thấm thía hơn, đồng thời gia tăng hiệu quả tiếp nhận: Văn chương là câu chuyện
xuất tâm và nhập tâm. Thông qua tác phẩm văn học, nhà văn xuất tâm tư
tưởng, tình cảm thái độ, tìm đến những tâm hồn đồng điệu. Người đọc lại từ văn
bản văn chương nhập tâm vào thế giới nghệ thuật của nhà văn để đối thoại, sẻ
chia, thanh lọc. Và trong một số trường hợp, người ta đã chứng minh được rằng
mĩ cảm của sự tiếp thu, lĩnh hội văn học nhiều khi được quyết định bởi một giọng
đọc truyền cảm.
Ví dụ: chúng ta đã học nhiều bài văn thơ, nhưng những bài để lại ấn tượng và cái đẹp
trong thơ văn chỉ được hình thành và thấm thía hơn sau khi nghe đọc diễn cảm.
Không thể tuyệt đối hóa vai trò của đọc diễn cảm trong việc quyết định chất lượng
cảm thụ nghệ thuật, rằng chỉ có đọc diễn cảm mới làm cho nhận thức thẩm mĩ trở nên
sâu sắc hơn, nhưng cũng không nên phủ nhận hiệu lực gia tăng cường độ cảm xúc,
tạo nên những chấn động mạnh mẽ trong tâm cảm người tiếp thụ văn học của phương
pháp này ở những chặng sau của quá trình tiếp nhận văn chương




Truyền đạt được đặc điểm về thể loại và phong cách của tác phẩm.

Giúp người giáo viên đo được mức độ cảm thụ của học sinh, Thể hiện rõ thái độ
của hs đói với tác phẩm.

Góp phần tạo hứng thú và cảm hứng cho học sinh trong giờ học Văn học ở nhà
trường, thoát khỏi sự đơn điệu, nhàm chán, để mỗi giờ học văn trở thành một
niềm vui, thực sự hấp dẫn, kích thích sự sáng tạo của học sinh.

Hình thành cho học sinh các kỹ năng phân tích, bình giá, cảm thụ và nghe tốt, nói
tốt, viết tốt Tiếng Việt.

Biết khai thác những ưu điểm và hạn chế nhược điểm của cá nhân trong khi đọc.
Có giọng đọc chân thực, bảo tồn được mối quan hệ truyền cảm giao lưu với
người nghe.
Đọc diễn cảm chỉ thực sự thành công khi học sinh thực hiểu và rung động
với những gì văn bản đề cập đến. Việc xác lập cách đọc diễn cảm phải dựa trên việc
xác định giọng đọc [âm lượng to hay nhỏ, vui hay buồn, sôi nổi hay nhẹ nhàng],
nhịp điệu đọc [tốc độ đọc nhanh hay chậm, dồn dập hay chậm rãi],và cách ngắt
nhịp [theo dấu câu hoặc theo mạch cảm xúc]phù hợp với văn bản

Khi đọc diễn cảm cần tuân thủ các yêu cầu sau: - Đọc tự nhiên, đúng giọng của
mình. - Người đọc phải thâm nhập vào nội dung tư tưởng, nghệ thuật của tác
phẩm. Truyền đạt rõ ràng tư tưởng của tác giả. - Thể hiện rõ thái độ của mình đói
với tác phẩm. - Phát âm rõ ràng, chính xác. - Truyền đạt được đặc điểm về thể
loại và phong cách của tác phẩm. Nh vậy từ khâu đọc cũng có thể hình thành cho
học sinh các kỹ năng phân tích, bình giá, cảm thụ và nghe tốt, nói tốt, viết tốt
Tiếng Việt.
Đ



t
à
i
:
P
h
ư
ơ
n
g

P
h
á
p

S
o

S
á
n
h
.
Nội
Dung
Nội
Dung
IV. Xác định mục đích so sánh

IV. Xác định mục đích so sánh
III. Giới hạn so sánh
III. Giới hạn so sánh
II. Những nguyên tắc so sánh
II. Những nguyên tắc so sánh
I. Vai trò của phương pháp so sánh
I. Vai trò của phương pháp so sánh
V. Cách thức so sánh
V. Cách thức so sánh

Chủ Đề