Em gái gọi là gì trong tiếng hán việt năm 2024

Ngoài cách xưng hô thứ bậc trong gia đình ngày nay, xin giới thiệu thêm cách gọi xưa từ thời phong kiến, do hoàn cảnh lịch sử, ít nhiều gì cũng chịu ảnh hưởng bởi Trung Hoa. Phần lớn thứ bậc ở đây trích từ sách Nhật dụng thường đàm của Phạm Đình Hổ [1768-1839], loại từ điển giải thích chữ Hán bằng chữ Nôm, do đó chúng tôi liệt kê kèm theo chữ Nôm để quý vị tiện tra cứu khi cần. Nếu lấy bản thân mình [tôi] làm chuẩn thì các thế hệ trong gia đình sẽ có thứ bậc như sau:

- Kị [忌]: đời thứ 4 trên mình là đời kị [xem ảnh dưới]: kị ông/kị bà. Nếu dùng từ Hán Việt thì cao tổ phụ là ông kị, cao tổ mẫu là bà kị. Ở miền Nam, cách gọi sơ [初] tương ứng với kị. Sơ là cha mẹ của ông bà cố [ông sơ, bà sơ]. Tiên tổ là ông bà các đời trước.

Đời thứ tư trên mình là đời kị

Nhật dụng thường đàm

- Cụ [具]: đời thứ ba trên mình là đời cụ [cụ ông/cụ bà], còn gọi là “cố”[故/固], tức cha mẹ của ông bà mình [ông cố/bà cố]. Nếu dùng từ Hán Việt thì tằng tổ phụ là ông cụ, tằng tổ mẫu là bà cụ, tằng bá phụ là ông cụ bác, tằng bá mẫu là bà cụ bác, tằng thúc phụ là ông cụ chú, tằng thúc mẫu là bà cụ thím, tằng cô là bà cụ cô; tằng điệt [chắt] gọi mình là cụ chú, cụ bác; tằng điệt phụ [chắt dâu] gọi mình cụ chú, cụ bác; tằng điệt nữ [chắt gái] gọi mình cụ chú, cụ bác.

- Ông [翁] bà: đời thứ hai trên mình là ông và bà. Nếu dùng từ Hán Việt thì tổ là ông; tổ bá phụ là ông bác; thúc phụ là ông chú; điệt tôn [cháu] gọi mình là ông chú, ông bác; điệt tôn phụ [cháu dâu] gọi mình ông chú, ông bác; điệt tôn nữ [cháu gái] gọi mình là ông chú, ông bác; ngoại tổ phụ là tổ ông ngoại; ngoại thái cữu là ông vợ; thân gia ông là ông nhà dâu gia; tôn thái ông là bố tôn ông thầy; tôn thái mẫu là mẹ ông thầy.

Trong gia đình người Việt có 3 thế hệ sống chung nhà [bao gồm ông bà, cha mẹ, con cái] thì gọi là “tam đại đồng đường”, nếu 4 thế hệ sống chung thì gọi là “tứ đại đồng đường”, 5 thế hệ là “ngũ đại đồng đường”.

SHUTTERSTOCK

- Cha [吒]: đời thứ nhất trên mình là cha. Thứ bậc theo từ Hán Việt như sau: phụ thân là cách con gọi cha; thân phụ, sinh phụ là cha ruột; kế phụ là cha ghẻ, cha kế; nghĩa phụ, dưỡng phụ là cha nuôi; nghĩa phụ cũng là cha đỡ đầu; cố phụ là cha chết chưa chôn; hiển khảo là cha chết đã chôn; tiên phụ là cha chết đã lâu; thứ mẫu là hầu của cha; bá phụ là bác [anh cha]; thúc phụ là chú [em cha]; cô là cô [chị em với cha]; ngoại cữu là cha vợ; chấp bá là bạn cha [cũng là cha của bạn mình]; canh bá là bạn đồng tuế với cha hoặc cha bạn đồng tuế của mình; niên bá là bạn đồng khoa của cha hoặc cha bạn đồng khoa của mình; quyến điệt là cách mình xưng hô với bạn cha, hoặc cha của bạn mình; nhân quyến điệt là cách mình xưng hô với cha chồng, chị vợ, cha vợ, anh vợ; cữu là cha chồng.

Tổ mẫu là bà

Nhật dụng thường đàm

Trong gia đình: Mẹ [媄]: đời thứ nhất trên mình là mẹ. Cách xưng hô Hán Việt như sau: song thân là cha mẹ; mẫu thân, nội thân là mẹ; đích mẫu là mẹ chính [con dòng chính và thứ gọi vợ lớn của cha]; thứ mẫu là mẹ thứ [con dòng chính và thứ gọi vợ lớn của cha]; kế mẫu là mẹ ghẻ; dưỡng mẫu là mẹ nuôi; ngoại cô là mẹ vợ; nhân bá mẫu là mẹ chồng của chị vợ; thân gia thái mẫu là mẹ nhà dâu gia; tôn thái mẫu là mẹ ông thầy; gia mẫu là mẹ tôi; lệnh từ là mẹ người; cô là cô, cũng là mẹ chồng; cô chương là mẹ chồng nàng dâu; giá mẫu là mẹ có chồng khác; xuất mẫu là mẹ bị cha từ bỏ; cố mẫu là mẹ chết chưa chôn; hiển tỉ là mẹ chết đã chôn; tiên mẫu là người mẹ đã chết. [Còn tiếp]

Người đến vùng đất mới khai cơ nên một dòng họ tôn vinh là : Thủy tổ Anh em của Thủy tổ và người kế nghiệp từ đời thứ hai đến bố của cao tổ được tôn là: Tiên tổ Cụ cố [miền Nam gọi là ông sơ, bà sơ, Nghệ Tĩnh gọi là Can hay Cụ cố, miền Bắc gọi là Kỵ]: Cao tổ khảo / Cao tổ tỉ Chít xưng là: Huyền tôn. Cụ ông, cụ bà: [Miền Bắc gọi là Cụ, từ Nghệ Tĩnh đổ vô gọi là Cố]: Tằng tổ khảo/tằng tổ tỉ Chắt xưng là: Tằng tôn. Ông nội, bà nội: Nội tổ phụ, nội tổ mẫu. Kkhi chết rồi thì khấn: Nội tổ khảo, nội tổ tỷ. Ông ngoại, bà ngoại thì khấn: Ngoại tổ khảo, ngoại tổ tỷ. Cháu nội xưng là: Nội tôn. Cháu nối dòng xưng là: Đích tôn: [cháu nội]. Cháu ngoại: Ngoại tôn. Ông nội vợ, bà nội vợ: Nhạc tổ phụ, nhạc tổ mẫu. Ông nội vợ, bà nội vợ chết rồi thì xưng: Nhạc tổ khảo, nhạc tổ tỷ. Cháu nội rể xưng là: Tôn nữ tế. Cha mẹ chết rồi thì xưng: Hiển khảo, hiển tỷ. Cha chết rồi thì con tự xưng là: Cô tử [con trai], cô nữ [con gái]. Mẹ chết rồi thì con tự xưng là: Ai tử [con trai], ai nữ [con gái]. Cha mẹ đều chết hết thì con tự xưng là: Cô ai tử, cô ai nữ. Cha ruột: Thân phụ. Cha ghẻ: Kế phụ. Cha nuôi: Dưỡng phụ. Cha đỡ đầu: Nghĩa phụ. Con trai lớn: Trưởng tử, mạnh tử. Con trai thứ: Trọng tử,Trọng nam, Thứ nam Con út: Trai: Quý nam, vãn nam. Gái: Quý nữ, vãn nữ. Mẹ ruột: Sanh mẫu, từ mẫu. Mẹ ghẻ: Kế mẫu Con của bà vợ nhỏ kêu vợ lớn của cha là má hai: Đích mẫu. Mẹ nuôi: Dưỡng mẫu. Mẹ có chồng khác: Giá mẫu. Má nhỏ, tức vợ bé của cha: Thứ mẫu. Mẹ bị cha từ bỏ: Xuất mẫu. Bà vú: Nhũ mẫu. Chú, bác vợ: Thúc nhạc, bá nhạc. Cháu rể: Điệt nữ tế. Chú, bác ruột: Thúc phụ, bá phụ. Vợ của chú : Thiếm, Thẩm. Cháu của chú và bác, tự xưng là nội điệt. Cha chồng: Chương phụ. Dâu lớn: Mạnh tức, Trưởng tức. Dâu thứ: Trọng tức, Thứ tức. Dâu út: Quý tức. Cha vợ [sống]: Nhạc phụ, [chết]: Ngoại khảo. Mẹ vợ [sống]: Nhạc mẫu, [chết]: Ngoại tỷ. Rể: Tế. Chị, em gái của cha, ta kêu bằng cô: Thân cô. Ta tự xưng là: Nội điệt. Chồng của cô [dượng]: Cô trượng, tôn trượng. Chồng của dì [dượng]: Di trượng, biểu trượng. Cậu, mợ: Cựu phụ, cựu mẫu. Mợ còn gọi là: Câm. Còn ta tự xưng là: Sanh tôn. Cậu vợ: Cựu nhạc. Cháu rể: Sanh tế. Vợ: Chuyết kinh, vợ chết rồi: Tẩn. Ta tự xưng: Lương phu, Kiểu châm. Vợ bé: Thứ thê, trắc thất. Vợ lớn: Chánh thất. Vợ sau [vợ chết rồi cưới vợ khác]: Kế thất. Anh ruột: Bào huynh. Em trai: Bào đệ, cũng gọi: Xá đệ. Em gái: Bào muội, cũng gọi: Xá muội Chị ruột: Bào tỷ. Anh rể: Tỷ trượng. Em rể: Muội trượng. Anh rể: Tỷ phu. Em rể: Muội trượng, còn gọi: Khâm đệ. Chị dâu: Tợ phụ, tẩu tử. Em dâu: Đệ phụ, Đệ tức. Chị chồng: Đại cô. Em chồng: Tiểu cô. Anh chồng: Phu huynh: Đại bá. Em chồng: Phu đệ, Tiểu thúc. Chị vợ: Đại di. Em vợ [gái]: Tiểu di tử, Thê muội. Anh vợ: Thê huynh Em vợ [trai]: Thê đệ, Tiểu cựu tử. Con gái đã có chồng: Giá nữ. Con gái chưa có chồng: Sương nữ. Cha ghẻ, con tự xưng: Chấp tử. Tớ trai: Nghĩa bộc. Tớ gái: Nghĩa nô. Cha chết trước, sau ông nội chết, tôn con của mạnh tử đứng để tang thì tư xưng là: Đích tôn thừa trọng. Bác, chú, cô ruột: Đường bá, đường thúc, đường cô, Mình tự xưng là: Đường tôn. Anh em bạn với cha mình: Niên bá, quý thúc, lịnh cô. Mình là cháu, tự xưng là: Thiểm điệt, lịnh điệt. Bác, chú, cô của cha mình: Tổ bá, tổ thúc, tổ cô. Mình là cháu thì tự xưng là: Vân tôn

Sưu tầm

Chủ Đề