Hướng dẫn phân tích mds trong đa dạng sinh học
Số người được chẩn đoán mắc hội chứng rối loạn sinh tủy (MDS) ở Hoa Kỳ mỗi năm không được thống kê. Một số ước tính đưa con số này vào khoảng 10.000, trong khi các ước tính khác đã cao hơn nhiều. MDS thường được chẩn đoán ở những người ở độ tuổi 70. MDS là một nhóm rối loạn tế bào gốc tạo máu do các đột biến khác biệt của các tế bào gốc tạo máu, thường là ở các gen liên quan đến ghép nối ARN. Hội chứng rối loạn sinh tủy được đặc trưng bởi sự sinh máu rối loạn và không hiệu quả bao gồm:
Căn nguyên của hội chứng loạn sản tủy chưa được biết rõ. Nguy cơ gia tăng theo tuổi tác những đột biến mắc phải có thể kích thích sự lan rộng và chiếm ưu thế dòng của tế bào gốc tạo máu, và có lẽ do phơi nhiễm với các yếu tố môi trường độc hại như benzene, tia xạ, hóa trị liệu (đặc biệt với các phác đồ điều trị bằng chất alkylant hydroxyurea và/hoặc ức chế topoisomerase). Thường có các bất thường về nhiễm sắc thể (ví dụ như mất, lặp lại, bất thường cấu trúc). Triệu chứng và dấu hiệu của MDSCác triệu chứng có xu hướng phản ánh dòng tế bào bị ảnh hưởng nhiều nhất và có thể bao gồm: xanh, yếu và mệt mỏi (thiếu máu); sốt và nhiễm trùng (giảm bạch cầu trung tính); và tăng bầm tím, chấm xuất huyết, và chảy máu mũi (giảm tiểu cầu). Chứng lách to và gan to không phải là hiếm.
Cần nghĩ đến hội chứng loạn sản tủy ở bệnh nhân (đặc biệt là người cao tuổi) có thiếu máu dai dẳng, giảm bạch cầu Tổng quan về giảm bạch cầu Giảm bạch cầu là hiện tượng giảm lượng bạch cầu lưu hành xuống < 4000/mcL (9/L). Nó thường là hậu quả của việc giảm số lượng bạch cầu trung tính trong hệ tuần hoàn, mặc dù số lượng... đọc thêm , hoặc giảm tiểu cầu. Tăng bạch cầu thứ phát sau rối loạn tự miễn Rối loạn tự miễn dịch Trong các rối loạn tự miễn, hệ thống miễn dịch tạo kháng thể với kháng nguyên nội sinh (autoantigen). Các loại phản ứng quá mẫn sau đây có thể xảy ra: Loại II: Các tế bào phủ kháng thể, giống... đọc thêm , thiếu hụt vitamin B12 Thiếu Vitamin B12 Thiếu vitamin B12 trong chế độ ăn thường là do hấp thụ không đầy đủ, nhưng sự thiếu hụt có thể phát triển ở những người ăn chay không được bổ sung vitamin. Sự thiếu hụt gây ra thiếu máu hồng... đọc thêm , thiếu hụt folate Thiếu folate Sự thiếu hụt folate là phổ biến. Nó có thể là kết quả của việc ăn không đầy đủ, hấp thu kém hoặc sử dụng các loại thuốc khác nhau. Sự thiếu hụt gây ra thiếu máu hồng cầu khổng lồ (không thể... đọc thêm , thiếu máu bất sản Thiếu máu bất sản Thiếu máu bất sản là một rối loạn tế bào gốc tạo máu, dẫn đến việc mất các tiền thân của tế bào máu, giảm sản và bất sản tủy xương, và giảm tế bào của hai hoặc nhiều dòng tế bào (hồng cầu, bạch... đọc thêm vô căn, thiếu máu tiểu huyết sắc tố kịch phát về đêm Đái huyết sắc tố kịch phát ban đêm (PNH) Đái huyết sắc tố kịch phát ban đêm (PNH) là rối loạn hiếm gặp có đặc điểm là sự tan máu nội mạch và hemoglobin niệu. Giảm bạch cầu, giảm tiểu cầu, huyết khối động mạch và tĩnh mạch, và cơn tan... đọc thêm , , nhiễm độc kẽm Nhiễm độc kẽm Kẽm (Zn) chứa chủ yếu ở xương, răng, tóc, da, gan, cơ, tế bào bạch cầu và tinh hoàn. Kẽm là một thành phần của hàng trăm loại enzyme, bao gồm nhiều nicotinamide adenine dinucleotide dehydrogenase... đọc thêm , hoặc tác dụng của thuốc phải được loại trừ. Chẩn đoán dựa trên dấu hiệu về hình thái của máu ngoại vi và tủy xương, có 10 đến 20% bất thường trên một dòng tế bào, được củng cố bằng những bất thường về nhiễm sắc thể và đột biến gen. Giảm sản tủy xương có thể xảy ra.Thiếu máu là đặc điểm phổ biến nhất, thường là hồng cầu to với hình dạng không đều. Sự thay đổi này biểu hiện trên các máy đếm tế bào tự động bằng tăng độ rộng phân bố kích thước hồng cầu). Thường có giảm tiểu cầu, trên tiêu bản máu ngoại vi thấy tiểu cầu nhiều kích thước, một số giảm hạt. Bệnh nhân thiếu máu nguyên bào sắt kháng trị có thể có tăng tiểu cầu kết hợp với đột biến JAK2 V617F. Số lượng bạch cầu có thể là bình thường, tăng hoặc giảm. Phân bố hạt trong bào tương bạch cầu trung tính giảm, nhiều hình dạng, và thay đổi số lượng hạt hoặc đôi khi không có hạt. Bạch cầu ưa axit cũng có thể có bất thường về hạt. Có thể thấy các tế bào Pseudo Pelger-Huët (bạch cầu trung tính giảm đoạn). Tăng bạch cầu đơn nhân là đặc trưng của các nhóm bạch cầu tủy bào mạn tính và thiếu niên, và các tế bào tủy chưa trưởng thành có thể xảy ra. Di truyền tế bào bất thường, với một hoặc nhiều bất thường về nhiễm sắc thể liên quan đến nhiễm sắc thể 5 hoặc 7. Hội chứng mất đoạn 5q là một dạng độc nhất của hội chứng rối loạn sinh tủy, xảy ra chủ yếu ở phụ nữ thường bị thiếu máu tế bào vĩ mô và tăng tiểu cầu. Thiếu máu trong hội chứng thiếu hụt 5q dường như đáp ứng với lenalidomide. Tiên lượng của hội chứng loạn sản tủy phụ thuộc rất nhiều vào phân loại và bất kỳ rối loạn nào liên quan. Những bệnh nhân mắc hội chứng mất đoạn 5q, thiếu máu chịu lửa, hoặc thiếu máu chịu lửa với nguyên bào phụ dạng vòng ít có khả năng tiến triển thành các dạng tích cực hơn.
Tiên lượng sẽ xấu hơn với sự gia tăng số lượng các yếu tố nguy cơ. Bệnh nhân trong nhóm có nguy cơ cao nhất có tỷ lệ sống trung bình là 0,8 năm. Bệnh nhân trong nhóm có nguy cơ thấp nhất có thời gian sống thêm trung bình khoảng 8 năm.
Nói chung, điều trị được dành riêng cho bệnh nhân có triệu chứng. Các tác nhân kích thích tế bào sinh dục (ESA) làm giảm mức độ nghiêm trọng của thiếu máu ở 15 đến 20% bệnh nhân MDS, đặc biệt ở những bệnh nhân thiếu máu không phụ thuộc vào truyền máu và có mức hồng cầu trong huyết thanh < 500 mIU/mL (< 500 IU/L). Điều trị bằng cả tác nhân kích thích tạo hồng cầu và yếu tố kích thích tế bào bạch cầu hạt (G-CSF) có thể làm tăng tỷ lệ đáp ứng hồng cầu lên gần 40% trong bệnh thiếu máu chịu đựng với nguyên bào phụ dạng vòng. Tuy nhiên, trong tất cả các dạng của MDS, điều trị với các yếu tố tăng trưởng (ESA + G-CSF) không cải thiện sự sống còn và/hoặc giảm nguy cơ chuyển thành AML. Luspatercept đã thành công trong việc làm tăng hematocrit ở những bệnh nhân bị MDS nguy cơ trung bình từ rất thấp đến trung bình có nguyên bào sắt hình vòng mà liệu pháp ESA bị thất bại. Thuốc được sử dụng để điều trị MDS
Azacitidine là một nucleoside pyrimidine. Azacitidine kéo dài thời gian sống thêm so với chăm sóc hỗ trợ và hóa trị liệu thông thường. Thời gian sống thêm trung bình ở bệnh nhân có tất cả các phân nhóm MDS được điều trị bằng azacitidine là 21 tháng. Bệnh nhân nên được điều trị ít nhất từ 4 đến 6 chu kỳ và tiếp tục miễn là bệnh nhân tiếp tục có lợi. Decitabine cũng là một nucleoside pyrimidine. Nó giúp thuyên giảm bệnh ở 43% bệnh nhân MDS. Nó được chỉ định để điều trị bệnh nhân MDS ở tất cả các phân nhóm. Azacitidine và decitabine là các chất điều biến gen, là các DNA giảm methyl hóa. Quá trình methyl hóa các vùng nhất định của DNA dường như làm suy yếu các gen ức chế khối u và đóng vai trò trong quá trình tạo gen trong MDS. Lenalidomide là một bộ điều hòa miễn dịch có hiệu quả trong việc giảm các yêu cầu truyền hồng cầu ở bệnh nhân MDS với hội chứng thiếu hụt 5q. Ở những bệnh nhân MDS giảm sản, ức chế miễn dịch với cyclosporine có hoặc không có globulin kháng tế bào tuyến ức (ATG) có hiệu quả, bằng chứng là cải thiện số lượng tế bào và giảm nhu cầu truyền máu.
Sau đây là một nguồn thông tin bằng tiếng Anh có thể hữu ích. Vui lòng lưu ý rằng CẨM NANG không chịu trách nhiệm về nội dung của tài liệu này. |