Kinh bắc ở đâu

Đất Kinh Bắc xưa là nơi giang sơn tụ khí, là vùng đất khoa bảng sản sinh ra nhiều nhân tài của nước Việt. Chẳng thế mà vùng Kinh Bắc vẫn lưu truyền câu phương ngôn: “một giỏ ông Ðồ, một bồ ông Cống, một đống Tiến sĩ, một bị Trạng nguyên, một thuyền Bảng nhãn”.

Kinh Bắc chính là vùng đất đứng đầu cả nước về số người đỗ đại khoa, chiếm gần ¼ tổng số tiến sĩ cả nước cùng một loạt những kỷ lục như:

  • Trạng nguyên khai khoa (trạng nguyên đầu tiên của Việt Nam năm 1075) Lê Văn Thịnh.
  • Một làng có đủ tam khôi (3 danh hiệu cao nhất trạng nguyên, bảng nhãn, thám hoa) là làng Tam Sơn.
  • Tiến sĩ trẻ thứ nhì mới chỉ 15 tuổi là Nguyễn Nhân Thiếp (chỉ sau một ông trạng rất nổi tiếng là Nguyễn Hiền đỗ trạng nguyên lúc 13 tuổi).
  • Có nhà mà 5 anh em ruột đỗ tiến sĩ.
  • Có dòng họ 13 đời liên tục đều có người  đỗ tiến sĩ.

Trong 845 năm khoa bảng (1075 – 1919) của xứ Kinh Bắc thì Bắc Ninh nổi tiếng là chiếc nôi khoa bảng. Trong Văn Miếu ở Bắc Ninh có 15 tấm bia đá, trong đó có 12 tấm “Kim bảng lưu phương” được dựng năm 1889 lưu danh 677 vị đại khoa quê vùng Kinh Bắc.

Tại Bắc Ninh thì nổi tiếng nhất là huyện Đông Ngàn. Theo thống kê sơ bộ của các sử sách cổ, huyện này có từ 130-138 vị đỗ đại khoa (chưa kể thời Nguyễn), gần ngang với số người đỗ đạt của Nghệ An và Thanh Hóa. Vì vậy, sách Bắc Ninh tỉnh chí đã phải viết: “Nền văn hiến ở phủ Từ Sơn, từ xưa có huyện Đông Ngàn là hơn cả”. Phương ngôn Kinh Bắc đã từng khẳng định xứ Đông Ngàn qua tổng kết: “Dốt Đông Ngàn hơn người ngoan thiên hạ” hay “Tương Vân Cầu, bầu Đông Lữ, chữ Đông Ngàn”.

Bên cạnh những kỷ lục đó, vùng đất Kinh Bắc còn nổi tiếng với “tứ gia vọng tộc” – Những gia tộc có nhiều người đỗ đạt cao làm vẻ vang cho dòng họ. Đó là:

  • Dòng họ Nguyễn Đăng ở làng Bịu
  • Dòng họ Nguyễn ở Vĩnh Kiều (làng Viềng)
  • Dòng họ Nguyễn ở làng Kim Đôi
  • Dòng họ Nguyễn ở làng Tam Sơn.

Dòng họ Nguyễn Đăng ở làng Bịu

Dòng họ Nguyễn Ðăng làng Bịu (nay thuộc xã Liên Bão, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh) là một dòng họ nổi tiếng về khoa bảng của vùng Kinh Bắc xưa, có mấy đời liền đều làm quan to đầu triều.

Theo gia phả dòng họ thì từ năm 1443 đến năm 1918 có 91 người đỗ đạt, trong đó có một trạng nguyên, một thám hoa, sáu tiến sĩ, bảy giám sinh, hai mươi lăm hiệu sinh, hai tú tài, năm thiếu khanh, tổng giáo và huyện thừa.

Kinh bắc ở đâu
Kinh bắc ở đâu
Nhà thờ họ Nguyễn Đăng. (Ảnh qua LangUuDiem.com)

Người dân nơi đây còn lưu truyền rất nhiều câu chuyện về ông Nguyễn Đăng Cảo, rồi trạng Bịu Nguyễn Đăng Đạo. Nguyễn Đăng Đạo chính là vị “lưỡng quốc trạng nguyên” duy nhất trong sử Việt làm quan tới chức tể tướng. Sách “Kinh Bắc phong thổ kí, diễn quốc sự” mô tả rằng:

Làng Bịu có đấng Thám Hoa
Tiếng bay thượng quốc gần xa biết tài

Dòng họ Nguyễn ở Vĩnh Kiều (làng Viềng)

Dòng họ này qua 7 đời thì có đến 10 người đỗ tiến sĩ, đây cũng là dòng họ đóng góp nhiều danh nhân, khoa bảng. Trong hơn 300 năm kể từ năm 1529 đến cuối thế kỷ 19, họ Nguyễn Làng Viềng đã có 100 tiến sĩ, cử nhân và tú tài.

Người nổi tiếng của dòng họ Nguyễn ở Vĩnh Kiều phải kể tới danh thần Nguyễn Công Vọng. Sách Đại Nam nhất thống chí, phần Nhân vật Bắc Ninh tỉnh chí thời hậu Lê ghi: “Nguyễn Công Vọng người xã Vĩnh Kiều, huyện Đông Ngàn, đỗ Hội nguyên đồng tiến sỹ đời Dương Hoà làm đến Đô ngự sử, tặng Thượng thư bộ Hộ, bàn luận sáng suốt, gặp việc phát ngôn không kiêng nể, là danh thần một thời!”

Sách “Kinh Bắc phong thổ ký, diễn quốc sự” có mổ tả về dòng họ này như sau:

Vĩnh Kiều ấy bảng vàng rỡ rỡ
 Mười hai tên, ngựa ngựa, xe xe

Họ Nguyễn làng Tam Sơn

Tam Sơn là đất ba gò
Của trời vô tận, một kho nhân tài.

Từ ngàn xưa Tam Sơn nổi tiếng là vùng đất phát khoa bảng. Chỉ riêng hàng Ðại khoa (Tiến sĩ), xã Tam Sơn đã có 22 người, trong đó có 2 Trạng nguyên, 1 Bảng nhãn, 1 Thám hoa, 5 nhị giáp tiến sỹ, 12 Ðệ tam giáp đồng tiến sỹ xuất thân và 1 Phó bảng. Tam Sơn cũng là làng duy nhất có đủ tam khôi (Trạng nguyên, Bảng nhãn và Thám hoa).

Nhắc đến họ Nguyễn Tam Sơn thì phải kể đến Tiết nghĩa đại vương Nguyễn Tự Cường. Ông là bậc danh nho đỗ đạt, giúp chấn chỉnh kỷ cương triều đình khi rối loạn, tỏ rõ năng lực kinh luân, liều mình cứu nước lúc nguy gian, kiên cố một lòng sắt đá. Nguyễn Tự Cường đỗ Đệ nhị giáp tiến sỹ xuất thân (Hoàng giáp) khoa Giáp Tuất niên hiệu Hồng Thuận 6 (1514) đời Lê Tương Dực . Ông làm quan đến chức Hiến sát sứ. Mạc Đăng Dung chiếm ngôi nhà Lê, đời Lê Quang Thiệu ông dấy binh, chống cự, thế không địch nổi, thua trận rồi bị bắt, ông uống thuốc độc tự tử. Sau nhà Lê Trung Hưng biểu dương phong làm phúc thần. Tại Tam Sơn còn bia đá mang nội dung sắc phong thần ca ngợi công đức của ông.

Làng Kim Đôi cũng là vùng đất khoa bảng nổi tiếng đất Kinh Bắc. Làng có 25 tiến sĩ trong đó họ Nguyễn có 18 tiến sĩ và họ Phạm có 7 tiến sĩ. Vào thời nhà Lê, làng Kim Đôi được phong là “làng tiến sĩ”.

Họ Nguyễn trong làng có một gia đình lập kỷ lục khi có 5 anh em ruột đỗ tiến sĩ khi chưa đầy 20 tuổi (chỉ trong vòng chín năm từ 1466-1475) đó là Nguyễn Nhân Thiếp, Nguyễn Nhân Bị, Nguyễn Nhân Phùng (tên ghi trong từ đường họ Nguyễn là Nhân Bồng), Nguyễn Nhân Dư, Nguyễn Nhân Đạc. Tất cả 5 người này đều đỗ tiến sĩ và làm quan to hàng đầu triều dưới thời vua Lê Thánh Tông

Cũng chính kỳ tích này đã mang về cho làng Kim Đôi 8 chữ “Kim Ðôi gia thế, chu tử mãn triều” (nghĩa là họ Nguyễn làng Kim Ðôi áo đỏ áo tím đầy triều) do vua Lê Thánh Tông ban tặng.

Tấm bia trong từ đường họ Nguyễn đến nay vẫn còn ghi lại:

Thanh tiền trúng tuyển nhân gian thiểu
Hoàng bảng thư danh bản tộc ta.

Có nghĩa là: Ngày xưa nhà nghèo chỉ có tiền kẽm rỉ xanh mà đi thi đỗ đạt cao thật hiếm có trong nhân gian, nhưng được ghi tên bảng vàng thì họ ta có rất nhiều.

Kinh bắc ở đâu
Kinh bắc ở đâu
Từ đường họ Nguyễn, làng Kim Đôi thờ 18 vị tiến sỹ. (Ảnh qua LangVietOnline.vn)

Dòng họ Nguyễn Nhân vẫn lưu truyền câu chuyện về nguyên nhân khiến dòng họ nhiều người đỗ đạt làm quan to. Chuyện bắt đầu từ thời cụ bà Hoàng Thị Hay, một lần cụ nhặt được chĩnh vàng của người Tàu bỏ rơi liền cất cẩn thận, mấy ngày sau phát hiện có người khóc lóc tìm kiếm của bị mất thì cụ liền đưa vàng trả lại đồng thời từ chối món quà cảm ơn.

Người Tàu về nước, một thời gian sau thì sang Việt Nam với một người thầy địa lý, họ trả ơn cụ bằng cách tìm được đất tốt để cụ an táng mộ ông bà cha mẹ vào, nói rằng con cháu sau này nhất định sẽ được hưởng lộc.

Thầy địa lý tìm hai khu đất quý, một là khu đất phát Đế Vương (nhưng chỉ được một đời), và một khu đất công khanh nhưng lại đường trường tồn. Bà Hay đã chọn mảnh đất thứ hai nhằm để con cháu được đời đời làm nên sự nghiệp, bà đưa cha mẹ về chôn ở khu đất này. Từ đó dòng họ Nguyễn Nhân học giỏi và đều làm quan.

Mảnh đất đó hiện nay thuộc xã Phao Sơn, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương và nay vẫn còn 3 ngôi mộ là mộ của cụ Hoàng Phụng Thế (ông nội cụ Hay), cụ Hoàng Chân Bảo (bố cụ Hay) và Nguyễn Nhân Thiếp (con trai cụ Hay).

Trần Hưng

Xem thêm:

Mời xem video:

Vài nét về lịch sử tỉnh Bắc Ninh 

      Dưới các triều đại phong kiến trước đây, tỉnh Bắc Ninh được gọi là Kinh Bắc mà lịch sử đã để lại những di sản văn hoá truyền thống phong phú về mặt vật thể và phi vật thể với hệ thống thành quách ở thị xã Bắc Ninh, phòng tuyến sông Cầu (sông Như Nguyệt) nổi tiếng thời Lý chống lại các thế lực ngoại bang phương Bắc, hệ thống các đền chùa, miếu mạo ở các vùng Từ Sơn, Bắc Ninh - Thị Cầu, Dâu Keo ... và đặc biệt là hát dân ca quan họ nổi tiếng cùng các lễ hội mang đậm bản sắc dân tộc như hội Lim, Đình Bảng ... 

     - Từ năm 1822 xứ Kinh Bắc được nhà Nguyễn đổi tên gọi thành tỉnh Bắc Ninh, sau 2 năm trấn thành Bắc Ninh, thuộc thị xã Bắc Ninh ngày nay, được xây dựng lại bằng đá ong và hiện diện vị thế của mình bằng cột cờ cao 17m.

     - Dưới thời Pháp thuộc vào năm 1931 thị trấn Bắc Ninh được đổi tên thành tỉnh Bắc Ninh. Thị xã Bắc Ninh được tổ chức thành một cứ điểm trọng yếu về quân sự của Bắc Kỳ và là một trung tâm chính trị, kinh tế vùng.

     - Năm 1938 thị xã Bắc Ninh được xếp vào thành phố thứ 5 của xứ Bắc Kỳ sau các đô thị: thành phố Hà Nội, thành phố Hải Phòng, thành phố Nam Định và thị xã Hải Dương. 

     - Sau hoà bình lập lại năm 1954, tỉnh Bắc Ninh nói chung và thị xã Bắc Ninh nói riêng tiếp tục duy trì sự phát triển kinh tế suốt quá trình xây dựng chính quyền nhân dân và chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc

    - Vào năm 1963 tỉnh Bắc Ninh được sát nhập với tỉnh Bắc Giang thành tỉnh Hà Bắc. Mặc dù không còn vị trí tỉnh lỵ như trước đây (lúc đó Bắc Giang trở thành tỉnh lỵ của tỉnh mới sát nhập), nhưng thị xã Bắc Ninh vẫn là một trung tâm kinh tế - xã hội quan trọng của Hà Bắc, nhất là trong mối quan hệ giao lưu với thủ đô Hà Nội.

     - Đến năm 1996 tỉnh Hà Bắc lại được chia lại thành hai tỉnh Bắc Ninh và Bắc Giang theo Nghị quyết của Quốc hội khoá IX, kỳ họp thứ 10 (ngày 15 - 11 - 1996). Từ đó thị xã Bắc Ninh lại trở thành thị xã của tỉnh Bắc Ninh mới.

     Từ đó đến nay Bắc Ninh đã phát triển không ngừng bộ mặt đô thị hoá của tỉnh mà tiêu biểu là việc xây dựng mới:

     Khu vực hành chính và các khu dân cư mới ở thị xã Bắc Ninh.

     Cải tạo và phát triển mạnh bộ mặt trung tâm của các thị trấn huyện lỵ, nhất là thị trấn Từ Sơn.

     Đang hình thành và phát triển một số khu công nghiệp tập trung quan trọng như khu công nghiệp Từ Sơn, Quế Võ.

     Hệ thống kỹ thuật hạ tầng được cải tạo và nâng cấp đáng kể nhất là QL 1A, QL 1B, QL 18, QL 38, và 11 tuyến tỉnh lộ với tổng chiều dải trên 350 km. Các hệ thống hạ tầng kỹ thuật cấp nước, cấp điện cũng được đầu tư đáng kể.

     Hệ thống di tích lịch sử văn hoá lâu đời của xứ Kinh Bắc xưa nhất loạt đã được khôi phục, bảo tồn và phát triển có hiệu quả thu hút khách du lịch thập phương.

     Ngoài ra với hàng trăm ngành nghề khác nhau của tỉnh Bắc Ninh cũng được khuyến khích phát triển tạo điều kiện cho sự hình thành và phát triển nhiều thi tứ trên sông Dân, ở Đông Hồ, Đình Bảng, Đa Hội, Tương Giang, Phù Khê, Nội Duệ... 

    Nơi sinh thành dân tộc và nên tảng văn hiến Việt Nam

    Bắc Ninh - Kinh Bắc xưa là vùng đất phía bắc của kinh thành Thăng Long, Đông Đô, Hà Nội ngày nay, là vùng đất trung tâm của châu thố sông Hồng. Bắc Ninh còn là nơi gặp gỡ, giao hội của các mạch giao thông thuỷ, bộ tạo cho xứ Bắc sớm trở thành trung tâm kinh tế - văn hoá với một vị trí đặc biệt trong lịch sử dân tộc và văn hoá Việt Nam.

     Qua các kết quả nghiên cứu, đặc biệt là nghiên cứu khảo cổ học ở Bắc Ninh cho thấy, đây là địa bàn cư trú của người Việt cổ, đồng thời là bộ phận cốt lõi của quốc gia Văn Lang, Âu Lạc.

     Từ mấy nghìn năm trước người Việt cổ đã cư trú và lập làng ở ven sông Cầu, sông Dâu, sông Đuống, sông Ngũ Huyện Khê, sông Tiêu Vương,... sống chủ yếu bằng canh tác nông nghiệp kết hợp làm nghệ thủ công. Hàng loạt di vật như trống đồng, dao găm, rìu, giáo, tấm che ngực, mảnh giáp,... bằng đồng với những hoa văn độc đáo được tìm thấy ở các di tích Lăng Ngâm, Đại Trạch, Quả Cảm, Đại Lai,... mảnh khuôn đúc trống đồng trong thành cổ Luy Lâu đã chứng tỏ người xứ Bắc rất tinh xảo trong nghề đúc đồng, chế tác các đồ trang sức, làm gốm,...

     Cũng trên mảnh đất này, những giá trị tinh thần, tư tưởng được phản ánh qua các huyền thoại ông Đùng, bà Đùng, ông khổng lồ cắn nát núi, hút sạch rừng, băng ngang lũ, về Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân, Âu Cơ, Thánh Gióng, An Dương Vương, Mỵ Châu - Trọng Thuỷ và thành cổ Loa,... Cùng với huyền thoại truyền thuyết là đậm đặc các di tích tiêu biểu như lăng mộ Kinh Dương Vương, các đền thờ Lạc Long Quân, Âu Cơ, đền thờ Phù Đổng Thiên Vương ở Thuận Thành, Từ Sơn, Tiên Du,...đều được lưu giữ trong lòng đất lòng người vùng quê xứ Bắc - Bắc Ninh. Đây chính là sự minh chứng hùng hồn cho sự phong phú đa dạng và tiêu biểu hơn bất cứ địa phương nào trên mảnh đất Việt ngàn năm văn hiến.

      Trung tâm chống xâm lược và chống đồng hoá, bảo tồn phát triển văn hoá dân tộc.

            Khu di tích Luy Lâu rộng hàng trăm hécta với hệ thống các công trình thành luỹ, đền chùa, phố xá, chợ, bến, kho tàng, dinh thự, các khu sản xuất gạch ngói, các làng nông nghiệp, làng thợ, làng buôn, khu môn địa,... còn là khu di tích thời Bắc thuộc lớn nhất Việt Nam hiện nay.

            Thủ phủ Luy Lâu (tức Long Biên) là nơi ghi dấu những chiến tích hào hùng chống quân xâm lược phương Bắc. Cho đến ngày nay, hệ thống các đền thờ tướng lĩnh ở đây và những lễ hội mừng chiến thắng mùa xuân vẫn được duy trì và tổ chức hàng năm ở trung tâm Luy Lâu càng khẳng định Bắc Ninh xưa là trung tâm của cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng.

            Không những thế, qua các tài liệu thư tịch và di khảo cổ còn cho thấy Luy Lâu đã từng là đô thị lớn, là trung tâm thương mại mang tính quốc tế: ?Trên đất Giao Chỉ, trong suốt thời kỳ dài từ cuối thế kỷ thứ II đến thế kỷ IX-X, Luy Lâu không nhường vai trò đô thị lớn nhất cho bất cứ nơi nào. Xung quanh Luy Lâu là các làng nông nghiệp, làng thủ công, làng buôn bán phát triển mạnh mẽ. Luy Lâu là một đô thị mang tính buôn bán quốc tế, các hoạt động buôn bán trao đổi hàng hoá ở Luy Lâu thời Bắc thuộc rất nhộn nhịp và sầm uất.

            Cùng với quá trình giao lưu, hội nhập và trao đổi kinh tế là quá trình tiếp xúc, hội nhập văn hoá, tín ngưỡng, tôn giáo giữa Việt Nam và các nước trong khu vực mà trung tâm cũng vẫn là Luy Lâu. Tại đây, tư tưởng Nho giáo và văn hoá Hán Đường đã được truyền bá liên tục vào nước ta. Bắc Ninh với trung tân Luy Lâu là nơi đầu tiên có trường dạy chữ và văn hoá Hán ở Việt Nam.

            Ngoài ra Luy Lâu còn là trung tâm Phật giáo lớn và cổ xưa nhất của người Việt. Hệ thống di tích, chùa tháp quần tụ đậm đặc ở đây với trung tâm là chùa Dâu cùng nhiều nguồn di vật, tài liệu như tượng pháp , bia ký, bản khắc ?Cổ Châu Pháp Vân vật bán hanh? và lễ hội chùa Dâu - lễ hội Phật giáo lớn nhất trong đồng bằng Bắc Bộ với các nghi lễ Tân Phật, rước Tứ Pháp, rước nước đã chứng tỏ Luy Lâu là tổ đình của Phật giáo Việt Nam.

            Giáo sư sử học Trần Quốc Vượng đã nhận xét: Xứ Bắc với đô thị cổ Long Biên, Luy Lâu là không gian điển hình đan xen, hỗn dung tiếp xúc, biến đổi hội tụ và kết tinh văn hoá Việt Nam cổ với văn hoá Phật - Ấn, Nam Á và Trung Á, văn hoá Nho Lão (Trung Hoa, Đông Á) để rồi sinh thành bản sắc văn hoá Kinh Việt.

Vùng đất tiêu biểu của nền văn hiến và nhân cách Việt Nam.

            Bước vào kỷ nguyên Đại Việt, Bắc Ninh trở thành phên dậu phía Bắc của kinh thành Đông  Đô, Thăng Long, Hà Nội. Nơi đây tiếp tục giữ vai trò quan trọng đặc biệt trong công cuộc bảo vệ đất nước và phát triển văn hoá Việt Nam.         

Miền quê địa linh này là đất phật tích nhà Lý - triều đại khai mở ra nền văn minh Đại Việt gắn liền với tên tuổi của những nhân vật lịc sử - văn hoá kiệt xuất như: Lý Công Uẩn, Lý Nhân Tông, Nguyên Phi Ỷ Lan, Lê Văn Thịnh. Đây là nơi vang vọng bài thơ ?Nam quốc sơn hà? - bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của dân tộc Việt Nam.

            Ngoài ra nơi đây cũng là vùng quê trù phú, kinh tế phát triển, là vựa lúa của đồng bằng Bắc Bộ. Ít nơi nào có nhiều làng nghề nổi tiếng như tỉnh Bắc Ninh: gốm sứ (Phù Lãng, Thổ Hà), gò đúc đồng (Đại Bái), rèn sắt (Đa Hội), chạm khắc (Phù Khê, Kim Thiều), sơn mài (Đình Bảng), cày bừa (Đông Xuất), giấy dó (Đống Cao), tranh điệp (Đông Hồ), dệt lụa (Tam Sơn, Cẩm Giàng),...

            Người Bắc Ninh không chỉ giỏi làm ruộng mà còn khéo tay, tinh xảo, hoạt bát trong giao thương, buôn bán và nhất là lại thông minh hiếu học. Ngoa truyền dân gian về đất này quả là có cơ sở: Một giỏ sinh đồ, một bồ tiến sỹ, một bị trạng nguyên, một thuyền bảng nhãn. Đây là quê hương của vị Trạng nguyên Lê Văn Thịnh - vị trạng nguyên khai khoa mở đầu cho lịch sử khoa cử Việt Nam. Có vùng như huyện Đông Ngàn thông minh hơn người (dốt Đông Ngàn hơn người ngoan thiên hạ), có làng như Tam Sơn - địa phương duy nhất cả nước có đủ tam khôi với 22 vị đại khoa (tiến sỹ) trong đó có hai trạng nguyên.

            Nơi đây còn nổi tiếng với trung tâm phật giáo và những ngôi chùa có quy mô to lớn, cổ kính, kiến trusc tạo tác rất công phu, tài nghệ như chùa Dâu, chùa Phật Tích, chùa Dạm, chùa Bút Tháp, chùa Tiêu Sơn, Cổ Pháp,... Đây là những danh lam cổ tự nổi tiếng, ngày nay đã trở thành những di sản kiến trúc tiêu biểu của dân tộc ta.

            Nơi đây còn được mệnh danh là vương quốc của lễ hội, chủ yếu là hội chùa, hội đền. Trong đó có những lễ hội lớn, nổi tiếng cả vùng và cả nước như hội Gióng (9-4), hội Dâu (8-4), hội đền Đô, hội Lim, hội Chùa Phật Tích...

            Về ăn mặc dân Kinh Bắc ưa sang trọng nhưng nền nã: nam khăn xếp, áo the, ô lục soạn; nữ áo mớ ba, mớ bảy, nón quai thao. Xứ bắc có nhiều làng nghề nghệ thuật như làng tranh Đông Hồ, làng hát ca trù Thanh Tương, làng rối nước Đồng Kỵ, Bùi Xá, Đa Hội, Tam Lư, Tấn Bảo,...và đặc biệt hơn cả là hệ thống 49 làng chơi quan họ, một lối chơi, một sin hoạt văn hoá tinh tường, độc đáo, đạt tới đỉnh cao của thi ca và âm nhạc mà chỉ người Bắc Ninh mới có.

            Bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên đấu tranh vì độc lập tự do và chủ nghĩa xã hội, những giá trị của nền văn hoá Kinh Bắc vẫn được giữ gìn và phát huy. Bắc Ninh nổi tiếng là vùng quê sớm có phong trào cách mạng, nơi sớm ra đời các tổ chức tiền thân của Đảng, mảnh đất sinh thành và nuôi dưỡng các vị tiền bối xuất sắc của Đảng như Ngô Gia Tự, Nguyễn Văn Cừ, Hoàng Quốc Việt. Nơi đây cũng là quê hương của nhiều bậc tài danh trên các lĩnh vực kinh tế, khoa học, nghệ thuật. Vì từ xưa đến nay Bắc Ninh vẫn luôn xứng danh là miền đất trù phú, kinh tế phát triển, là quê hương của thi ca, mảnh đất mà văn hoá nghệ thuật phát triển đến đỉnh cao của dân tộc Việt Nam.