Mục đích của đánh giá trong dạy học môn Toán

MỘT SỐ HÌNH THỨC VÀ PHƯƠNG PHÁP ĐÁNH GIÁ TRONG DẠY HỌC MÔN TOÁN Ở TIỂU HỌC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (426.7 KB, 17 trang )

Trường Đại Học Đồng Nai
Thành phố Biên Hòa

Chủ đề 6 :
MỘT SỐ HÌNH THỨC VÀ PHƯƠNG PHÁP ĐÁNH GIÁ
TRONG DẠY HỌC MÔN TOÁN Ở TIỂU HỌC

ĐỘI NGŨ CỦA NHÓM 6
Nguyễn Thị Thanh Hương
Phạm Thị Thanh Tuyền
Hồ Thị Mỹ Linh
Nguyễn Ngọc Ánh
Nguyễn Thị Ngọc Ninh
Lê Thúy Hằng


Phạm Thị Kim Khánh
Mục lục.
1.Quan niệm về đánh giá và các hình thức đánh giá
2.Thu thập các thông tin phục vụ cho đánh giá
3.Tự đánh giá :
4.Lập hồ sơ học tập của học sinh
5.Tìm hiểu về câu hỏi trắc nghiệm:


1.






Quan niệm về đánh giá và các hình thức đánh giá :
* Đánh giá trong môn Toán :
- Học sinh là đối tượng của giáo dục, là chủ thể của quá trình giáo dục, đồng thời
thể hiện sản phẩm của giáo dục. Đánh giá học sinh là nhiệm vụ của giáo viên.
- Thông qua các hoạt động toán học mà giáo viên tiến hành trong giảng dạy Toán
hàng ngày, giáo viên có thể phát hiện mức độ hiểu bài của cá nhân học sinh
trong lớp. Ngoài hoạt động trên, giáo viên cần thiết kế các bài kiểm tra và câu đố
vui trong giờ dạy Toán.
- Tất cả các hoạt động trên giúp giáo viên đánh giá quá trình học tập của học
sinh và thành tích học tập môn Toán của học sinh. Khi đó đánh giá là tìm ra
những điều học sinh có thể làm được và không thể làm được.
* Giám sát trong môn Toán :
- Các hoạt động Toán hàng ngày ngoài việc giúp giáo viên đánh giá học sinh, nó
còn giúp giáo viên phát hiện xem học sinh có hiểu những khái niệm mà mình
đang dạy hay không. Thông qua đó giáo viên điều chỉnh cách dạy của mình nếu
thấy điều đó là cần thiết.Làm như vậy giáo viên đã tiến hành giám sát việc học
Toán của học sinh.
Tóm lại: Việc đánh giá và giám sát trong học Toán thực chất là quá trình giúp
giáo viên rà soát biện pháp mà mình đã sử dụng để thu thập và ghi lại thông tin.
Thông tin này giúp giáo viên nhận biết việc học tập và thành tích của học sinh
trong học Toán. Đó đồng thời cũng là các bằng chứng về sự thành công hay thất
bại của học sinh trong quá trình học Toán. Ngoài việc đánh giá sự tiến bộ trong
hoạt động học tập của học sinh,các hoạt động thường ngày của môn Toán giúp
giáo viên điều chỉnh phương pháp dạy của mình cho thích hợp với học sinh.
1.1. Sự cần thiết của việc đánh giá :
Các kiến thức, kĩ năng Toán có tính hệ thống.
Giáo viên có đánh giá kết quả học tập mới nắm được tình hình học tập của học
sinh.
Công tác đáng giá nhằm động viên học sinh học tập.
1.2. Những chức năng và yêu cầu của việc đánh giá :




-

-

Những chức năng : Theo giáo sư Trần Bá Hoành trong dạy học đánh giá có 3
chức năng:
+ Chức năng sư phạm: Làm sáng tỏ thực trạng, định hướng điều chỉnh học sinh
dạy và học.
+ Chức năng xã hội: Công khai hóa kết quả học tập của mỗi học sinh trong tập
thể lớp, trường báo cáo kết quả học tập, giảng dạy trước phụ huynh và các cấp
quản lí giáo dục.
+ Chức năng khoa học: Nhận định chính xác về một mặt nào đó thực trạng dạy
và học, về hiệu quả thực nghiệm một sáng kiến nào đó trong bài dạy.
Yêu cầu của việc đánh giá
1.2.1 Về mục tiêu
- Đánh giá kết quả học tập Toán phải góp phần thực hiện:
+ Giáo dục toàn diện: Thể hiện ở việc đánh giá đầy đủ những kiến thức, kĩ năng
cơ bản của môn Toán theo chuẩn đã xác định, có chú ý đến việc tích hợp các nội
dung giáo dục khác trong quá trình kiểm tra thường xuyên và định kì.
+ Đổi mới phương pháp dạy học: Thể hiện ở việc tổ chức, hướng dẫn khuyến
khích
học sinh hoạt động học tập chủ động, tích cực, sáng tạo, theo năng lực của cá nhân.
+ Động viên học sinh chăm học, học tập theo phương pháp hợp lý, tự tin, hứng
thú trong việc học và thực hành luyện tập.
+ Tiến tới việc đánh giá khách quan, công bằng và sử dụng các phương tiện kĩ
thuật trong quá trình đánh giá và xử lí kết quả đánh giá.
1.2.2 Về nội dung :
- Nội dung đánh giá phải toàn diện: bao gồm chuẩn kiến thức Toán ở mỗi lớp về


kiến thức kĩ năng cơ bản của số học, đại lượng, hình học, giải toán.
- Nội dung đánh giá phải gồm đủ các mức độ: biết, hiểu, vận dụng, vận dụng cao.
- Số lượng các câu hỏi, bài tập của từng mức độ nội dung, thời lượng cần được
cân nhắc, lựa chọn phù hợp với trình độ chuẩn và trình độ chung của học sinh ở
từng trường, từng địa phương, tuyệt đối không được vượt chuẩn.
- Các câu hỏi và bài tập được sắp xếp từ dễ đến khó, đủ loại các bài đại diện cho
các kiến thức và kĩ năng cơ bản nhất; dễ chấm điểm; phân loại được chính xác
trình độ học sinh.
1.2.3 Về hình thức đánh giá
- Phối hợp các hình thức:
+ Kiểm tra viết
VD: Bài kiểm tra cuối tuần, viết bài chính tả
+ Kiểm tra vấn đáp
VD: Khảo bài cũ
+ Tự đánh giá của học sinh
VD: Học sinh trao đổi vở để chấm bài bạn


+ Kiểm tra thường xuyên và định kỳ:
+) Kiểm tra thường xuyên: diễn ra ở các tiết học GV trực tiếp đề ra nội dung
cần kiểm tra, rồi kiểm tra để nắm bắt được kết quả học tập của học sinh, giúp đỡ
các em sửa chữa sai lầm, lấp lỗ hổng kiến thức và trên cơ sở ấy điều chỉnh, hoàn
thiện cách dạy của mình. Nói chung các tiết học nên có kiểm tra bài cũ ở đầu giờ.
+) Kiểm tra định kì giữa học kì 1, giữa học kì 2: Các phòng giáo dục và đào tạo
chỉ đạo các hiệu trưởng trường tiểu học ra đề kiểm tra.
+) Kiểm tra định kì cuối học kì 1, cuối học kì 2: Sở Giáo dục và Đào tạo hướng
dẫn, phòng Giáo dục và Đào tạo chỉ đạo và kiểm tra, các hiệu trưởng ra đề cụ thể
theo khung hướng dẫn của Bộ Giáo dục và Đào tạo.
+) Tất cả học sinh theo học đều phải được kiểm tra đánh giá, xếp loại. Trường
hợp học sinh vắng mặt trong ngày kiểm tra, giáo viên báo cáo với hiệu trưởng và ra


đề khác tương tự cho học sinh làm bài. Những học sinh chưa đạt yêu cầu cần được
giáo viên kèm cặp và tổ chức kiểm tra lại sau một tuần.
+) Các bài kiểm tra định kì được thông báo đến phụ huynh học sinh và được lưu
trữ tại trường cho cả bậc tiểu học.
1.3. Các hình thức đánh giá.


Trong quá trình dạy học nói chung, dạy học toán nói riêng, thể loại đánh giá mà giáo
viên thường áp dụng là:
+ Đánh giá không chính thức
+ Đánh giá chính thức.
Sau đây chúng ta xem xét từng thể loại và các tác động của chúng đến quá trình giảng
dạy và học tập.
1.3.1. Đánh giá không chính thức:
Trong dạy học, người giáo viên thường xuyên tiến hành đánh giá không chính thức đối
với học sinh. Thông qua nghe học sinh giải thích, đặt câu hỏi hoặc làm bài tập,
giáo viên có thể đánh giá việc hiểu bài của học sinh cũng như hiệu quả giảng dạy
của giáo viên.
Hình thức này diễn ra liên tục trong lớp, giúp giáo viên chẩn đoán việc học của học
sinh để quyết định nội dung dạy học tiếp theo.
Khi đặt câu hỏi cho học sinh, giáo viên cần lựa chọn những câu hỏi thích hợp, tạo điều
kiện khuyến khích học sinh trả lời đầy đủ.
1.3.2. Đánh giá chính thức
Đối lập đánh giá không chính thức là đánh giá chính thức. Hình thức này có các đặc
điểm sau:
Bị giới hạn về thời gian.
Có người bên ngoài trông thi.
Được bên ngoài chấm điểm và xếp loại.
Tập trung vào bài làm cá nhân của học sinh.
Đánh giá loại này quyết định sự lên lớp của học sinh.


Mục đích của đánh giá chính thức, không chính thức đều giúp giáo viên đo lường kết
quả học tập của học sinh. Điều này cũng giúp giáo viên lập kế hoạch và điều
chỉnh kế hoạch dạy học. Nghĩa là cả hai hình thức trên giúp người giáo viên giám
sát sự tiến triển của học sinh. Giám sát có nghĩa là lưu giữ tiến triển của học sinh
trong các giai đoạn học tập ở môn Toán.
1.4. Các loại hình đánh giá hoạt động dạy và học:
Tầm quan trọng chủ yếu của công tác đánh giá là giúp giáo viên thấy được những mục
tiêu đề ra có đạt được hay không? Nếu mục đích chưa đạt được thì giáo viên phải
đề ra phương án hành động.
Có 3 loại hình đánh giá khác nhau.
* Đánh giá thường xuyên.


* Đánh giá chẩn đoán
* Đánh giá tổng kết.
1.4.1. Đánh giá thường xuyên.
Các hoạt động trong giờ toán được giáo viên thiết kế trước một cách lôgic.
Trong khi học sinh thực hiện các hoạt động với sự hướng dẫn của giáo viên, người giáo
viên sẽ liên tục đánh giá các hoạt động của học sinh. Đây là hình thức đánh giá thường
xuyên. Hình thức này được thực hiện trong suốt giờ học, do đó giáo viên cần điều
chỉnh các phương pháp dạy học một cách thích hợp để phù hợp với sự tiếp thu của học
sinh.Nói cách khác, khi dạy giáo viên bám sát vào kế hoạch bài giảng là điều cần thiết,
tuy nhiên việc đánh giá sự tiếp thu bài giảng của học sinh trong giờ học cũng rất quan
trọng, vì điều này sẽ giúp giáo viên điều chỉnh kế hoạch dạy học cho thích hợp.
1.4.2. Đánh giá chẩn đoán.
Đó là đánh giá nhằm cung cấp thông tin cho hành động tiếp theo. Người giáo
viên phải liên tục chẩn đoán những vấn đề của học sinh. Quá trình sử dụng những
thông tin đánh giá để theo dõi sự tiến triển của học sinh nhằm xây dựng các biện pháp
khắc phục gọi là đánh giá chuẩn đoán.
Ví dụ: Cho học sinh lớp 3 bài toán:


Cho số 120317495. Hãy xoá đi 4 chữ số và không thay đổi thứ tự các chữ số để
được.
a/ Số lớn nhất .Viết số đó.
b/ Số bé nhất .Viết số đó.
Có học sinh trả lời là: a/ 37495. Câu trả lời đúng.b/ 12014. Câu trả lời sai.
Theo bạn vấn đề học sinh gặp phải ví dụ ở trên là gì?
- Chưa nắm vững cách so sánh số.
- Chưa thấy được mối quan hệ giữa giá trị của số với các chữ số ở mỗi hàng.
- Do cẩu thả .
Trong bất cứ trường hợp nào giáo viên cần xác định chính xác sự sai lầm
của học sinh để có sự hỗ trợ học sinh một cách thích hợp.Bởi cùng một lỗi sai nhưng
nguyên nhân có thể lại khác nhau.Vì vậy giáo viên phải sử dụng đánh giá chẩn đoán
nhằm xác định nguyên nhân của vấn đề là gì?
1.4.3. Đánh giá tổng kết:
Đánh giá tổng kết là đánh giá thường diễn ra ở cuối mỗi việc, thời hạn nào đó.
Nó có thể ở cuối phần giảng một chủ đề, cuối năm, cuối một khoá học. Loại hình đánh
giá này nhằm xác định sự tiến bộ, thành công của học sinh trong hoạt động học, dùng


để so sánh giữa các học sinh cũng như so sánh giữa các trường. Đánh giá tổng kết được
thực hiện thông qua cuộc đánh giá chính thức như kiểm tra và thi.
Điều quan trọng nhất là giáo viên cần phải thường xuyên sử dụng ba loại hình
đánh giá trên trong suốt năm học. Bằng cách này giáo viên thường xuyên đánh giá
được hoạt động của học sinh cũng như chẩn đoán được vấn đề vướng mắc của học sinh
để có sự hỗ trợ thích hợp và tiếp đó giáo viên có thể xác định xem mình đã đạt được
các mục tiêu đề ra của môn Toán hay không?.
2.

Thu thập các thông tin phục vụ cho đánh giá


- Quan sát là kĩ thuật phổ biến nhất để thu thập thông tin phục vụ cho đánh giá.
- Phương pháp này cho phép đánh giá không chỉ kiến thức, kĩ năng mà còn đánh giá cả
thái độ học sinh.
- Các quan sát thường ngày được tiến hành để xác định các yếu tố:
+ Độ chuẩn xác câu trả lời của học sinh.
+ Bản chất của các câu trả lời của học sinh.
+ Cách thức phản ứng của học sinh với bài tập.
+ Cách thức phản ứng của học sinh với điểm kiểm tra.
+ Các kĩ năng nói, sử dụng để diễn đạt các ý tưởng.
+ Xác định tiến độ của bài học.
+ Có cần đưa thêm các ví dụ không?
+ Nên hỏi học sinh nào?
+ Mức độ hứng thú học tập của học sinh.
+ Thái độ biểu hiện qua các câu trả lời của học sinh.
- Trao đổi được tiến hành giữa giáo viên với giáo viên, giữa học sinh với giáo viên,
giữa học sinh với học sinh để đánh giá đầy đủ và chính xác.
- Khi đánh giá cần giao nhiệm vụ cụ thể cho học sinh, đánh giá học sinh thông qua
nhiệm vụ được giao. Kiểm tra các nhiệm vụ được giao để việc đánh giá chính xác hơn.
- Ưu điểm đặc biệt của quan sát là giúp giáo viên theo dõi học sinh, các hiện tượng
giáo dục theo thời gian.


- Cần quan sát các quá trình dạy học toán theo một trình tự cần thiết, giúp giáo viên
phát hiện các tình huống sư phạm phong phú và bổ ích.
- Khi tiến hành quan sát cần phải xác định mục tiêu rõ ràng, có nội dung và tiêu chuẩn
đánh giá cụ thể.
- Để các thông tin thu được chính xác, tin cậy giáo viên nên sử dụng một số quy trình
sau:
+ Đặt kế hoạch quan sát thường ngày trong quá trình dạy một bài.
+ Trong buổi học, ghi lại các quan sát. Ghi chép này giúp giáo viên quan sát chính xác


hơn.
+ Cuối ngày, dành thời gian tổng hợp ngắn gọn các quan sát đáng lưu ý.+ Hàng tuần,
đối chiếu các ghi chép tìm ra những cái chung và các điểm cần chú ý.
* Việc đặt câu hỏi diễn ra dưới ba hình thức:
- Ôn lại nội dung đã học, thảo luận và vấn đáp.
- Ôn lại bài do giáo viên hướng dẫn được thực hiện nhanh giúp học sinh nắm vững
kiến thức bài học.
- Thảo luận giúp học sinh phát biểu, giải quyết vấn đề.
- Việc thu thập thông tin phục vụ cho đánh giá có những thuận lợi:
+ Dễ quản lí vì học sinh đang làm bài tập, nhiệm vụ.
+ Phản hồi ngay tức thì.
+ Đây là phương pháp tốt nhất để đánh giá kĩ năng và thái độ.
- Đi đôi với những thuận lợi đó là các bất lợi:
+ Kết quả không đạt có thể chưa quen.
+ Có cá nhân không tham gia khi làm nhóm.
+ Cần thời gian dài để đưa ra quan sát đáng tin cậy.
- Các việc nên làm khi đặt câu hỏi:


+ Đặt câu hỏi rõ ràng, ngắn gọn.
+ Gắn câu hỏi với mục tiêu đề bài.
+ Cho cả lớp cùng tham gia.
+ Cho đủ thời gian để học sinh chuẩn bị câu trả lời.
+ Hỏi thăm dò khi cần thiết.
+ Sắp xếp câu hỏi theo đúng trinh tự.
+ Hỏi tất cả các học sinh không chỉ hỏi học sinh đã biết câu trả lời.
- Các việc không nên khi đặt câu hỏi:
+ Hỏi những câu mà câu trả lời là đúng hoặc sai.
+ Hỏi câu hỏi phỏng đoán.
+ Hỏi những câu chỉ yêu cầu học thuộc lòng.


+ Hỏi các câu dồn ép.
+ Hỏi những câu mà học sinh đã biết câu trả lời.
Tự đánh giá :
- Tự đánh giá bao gồm:
 Hoạt động học sinh đánh giá bản thân
 Học sinh đánh giá các bạn học cùng lớp.
- Thông qua việc đánh giá bạn học, học sinh hình thành rõ ràng hơn trong bản thân
mình các yêu cầu về học tập, về cách ứng xử với người khác. Từ đó, học sinh điều
chỉnh hay phát triển hành vi thái độ của bản thân.
- Nếu học sinh biết cách tự kiểm tra việc học; nhận thức rõ những gì gia đình, nhà
trường mong đợi ở mình; tự tin để đánh giá bản thân mình thì các em có thể:
 Kiểm soát được việc học của bản thân các em.
 Lên kế hoạch làm thế nào để cải thiện việc học của bản thân.
 Cảm thấy thoải mái về những gì các em có thể làm được.
 Dần dần lĩnh hội được cách tự học.
- Việc tự đánh giá giúp học sinh có ý thức trách nhiệm, tinh thần tự phê bình,
khả năng tự đánh giá, tính độc lập, lòng tự tin và tính sáng tạo.
- Việc học sinh tự đánh giá có thể diễn ra khi học sinh phải làm bài tập, trình
diễn một hoạt động trước lớp hoặc tạo ra một sản phẩm học tập.
3.


- Học sinh tự đánh giá mình:
• Với nhiệm vụ cá nhân thì học sinh cố gắng tự thực hiện.
• Trong quá trình thực hiện hoặc sau khi thực hiện, học sinh tự đánh giá kết
quả của mình.
• Chia sẻ kết quả hoặc khó khăn với bạn hoặc giáo viên để được giúp đỡ kịp
thời.
• Báo cáo kết quả cuối cùng với giáo viên để được xác nhận hoàn thành
hoặc được hướng dẫn thêm.


- Học sinh đánh giá bạn:
Trong quá trình tổ chức các hoạt động học tập, sinh hoạt tập thể, giáo viên
hướng dẫn học sinh tham gia đánh giá bạn hoặc nhóm bạn.

4.

Ví dụ: Giáo viên yêu cầu học sinh quan sát lên bảng để nhận xét bài toán
của bạn.
Lập hồ sơ học tập của học sinh

4.1.Khái niệm:
Hồ sơ học tập là 1 công cụ quan trọng trong đánh giá và giảng dạy nhằm nâng
cao chất lượng học tập cho học sinh.
4.2.Hiểu theo 1 cách khác:
Hồ sơ học tập là 1 tiến trình thu thập đánh giá các hoạt động của học sinh 1 cách
hệ thống nhằm tài liệu hóa tiến trình hướng tới đạt được các mục tiêu học tập
hay để chứng tỏ mục tiêu học tập đã đạt được.
• Hồ sơ theo kiểu tài liệu hóa giống như 1 quyển sách lưu giữ thông tin và các
bài mẫu.
Vì hồ sơ học tập chứa đựng mẫu sản phẩm của học sinhtheo quá trình thời
gian, nội dung của hồ sơ học tập tập trung vào sự tiến bộ của cá nhân học
sinh thay vì so sánh với các học sinh khác. Các mẫu này tài liệu hóa 1 cách rõ
rang, học sinh đó đã tiến bộ như thế nào?
4.3.Bản chất của hồ sơ học tập:
Là tập hợp và đánh giá lien tục trên các sản phẩm của học sinh thể hiện sự tiến
bộ hướng tới mục tiêu học tập được cụ thể hóa.


Hồ sơ là nơi chứa đựng sản phẩm của học sinh, đây là chứng cứ tuyệt vời
giúp giáo viên chẩn đoán những khó khăn trong học tập của từng học sinh.


Đồng thời những sản phẩm này làm rõ lý do đánh giá học sinh trong cuộc


họp với phụ huynh học sinh, có tác dụng lý giải sự tiến bộ hay chưa tiến bộ
của học sinh với phụ huynh.
4.4.Các cách sử dụng hồ sơ học tập
Có 3 cách sử dụng hồ sơ học tập:
Tài liệu hóa
Trưng bày
Đánh giá
Tùy theo mục đích sử dụng mà lựa chọn nội dung hồ sơ học tập. Theo
Wiggins(1998) hồ sơ chủ yếu sử dụng như 1 công cụ giảng dạy và đánh giá, tập
trung chủ yếu vào việc tài liệu hóa và đánh giá do giáo viên kiểm soát, chứa
đựng những bài mang tính quá trình.
4.5.Nội dung hồ sơ gồm:
Bài mẫu
Phần đánh giá của giáo viên và học sinh được lấy từ các hoạt động dạy học, để
có sản phẩm trong hồ sơ học tập của học sinh.
• VD về mẫu công việc đưa vào hồ sơ học tập toán
- Bài giải các dạng bài tập đã học
Bản tự ghi chép sự tiến bộ của học sinh
Các tài liệu thể hiện việc học sinh tự sửa chửa những sai lầm mắc phải.
Việc dung sơ đồ lời, hình vẽ, sơ đồ đoạn thẳng trong việc giải toán
Lời nhận xét về 1 hoạt động của học sinh về sự hiểu biết về 1 khái niệm
hoặc 1 quan hệ toán học
Sơ đồ lập kế hoạch đánh giá theo sơ đồ:

-

-



-

Xác định mục tiêu: tùy theo cách sử dụng hồ sơ mà việc xác định hồ sơ sẽ
khác nhau. Trong tài liệu này ta nên nêu mục tiêu là hồ sơ được sử dụng
như 1 công cụ giảng dạy và đánh giá, tập trung chủ yếu vào việc tài liệu
hóa và đánh giá do giáo viên và học sinh kiểm soát, chứa đựng các bài tập
mẫu hoặc bài mang tính quá trình.
Xác định cấu trúc cụ thể: Hồ sơ phải được đặt trong 1 phong bì hoặc kẹp
tài liệu được để trên sách, nơi dễ nhìn để học sinh nhìn thấy rằng hồ sơ là
quan trọng và được sử dụng liên tục. Kẹp tài liệu đựng hồ sơ phải có
nhiều ngăn để để các tài liệu khác nhau . Cần sắp xếp các tài liệu theo chủ
điểm kết hợp với trình tự thới gian.
Xác định nguồn nội dung: Nội dung hồ sơ gồm 1 số mẫu bài, phần đánh
giá của giáo viên và học sinh. Các mẫu bài được lấy ngay từ các hoạt


động giảng dạy để có được các sản phẩm của giảng dạy trong hồ sơ học
tập của học sinh.
- Đưa nội dung vào hồ sơ: ai là người lựa chọn nôi dung của hồ sơ? Câu trả
lời cho câu hỏi trên phụ sơ và mục đích của nó. Đối với tiểu học, giáo
viên là người lựa chọn hoặc quy định của học sinnh về những gì cần đưa
vào hồ sơ học tập của mình. Chúng ta cần phải xác định số lượng bài
trong hồ sơ học tập. cần phân biết giữa hồ sơ công việc, trong đó hs lưu
giữ toàn bộ bài kiểm tra của mình, trong đó bài mẫu được lựa chọn từ hồ
sơ công việc. đối với mỗi sơ học tập cần có mục lục, trong đó mỗi đầu
mục lục có thể được mở rộng đưa them từng mục mới vào. Mục lục nên
để ở đầu hồ sơ, có mô tả sơ lược ở đầu hồ sơ, có mô tả sơ lược ngày làm
bài, ngày nộp bài, ngày đánh giá.
- Giáo viên đánh giá nôi dung:


- Vì hồ sơ là để xem xét sự tiến bộ của học sinh nên các từ ngừ dược sử
dụng trong đánh giá cũng nhấn mạnh vào tính chất của tiến bộ trong học
tập. khi viết nhận xét cho từng cá nhân, phần tóm mang tính mô tả và kết
quả thực hiện và tiền bộ. cần phải nêu những thay đổi đã diễn ra, điểm
mạnh và những điểm cần cải tiến . tốt nhất đầu tiên nên chỉ ra điểm mạnh
và những tiến bộ, sau đó giai thích những điểm cần cải tiến nhưng không
làm cho hs nản long hoặc làm cho hs cảm giác đó.
- Đối thoại giữa giáo viên và học sinh : đàm thoại vời hs được tiến hành
hàng tháng . thời gian đàm thoại là 10-15 phút. Mỗi lần đàm thoại chỉ tập
trung vào một hoặc hai chủ đề chính. Cần đưa cho hs một số hướng dẫn
để bị cho mỗi cuộc đàm thoại . trong đàm thoại ta nên để hs nói là chủ yếu
và đề nghị hs ghi lại những điều đàm thoại, gv tự mình ghi chép ngắn gọn
4.6.Ưu nhược điểm của việc tạo lập hồ sơ:
• Ưu điểm :
- Có sự phối hợp giữa gv và hs
- Hs được lựa chọn nội dung
- Lien tục giám xác sự tiến bộ của hs
- Mẫu sản phẩm của hs có thể nhận đến nhận xét khái quát
- Sản phẩm có thể để giáo viên phân tích các cá nhân học sinh
• Nhược điểm
- Mất thời gian khi thiết lập hồ sơ và đối thoại giữa gv và hs
- Tập huấn cho gv để thực cho hs
4.7. Tác dụng:
- Tối đa hóa những thông tin phản hồi có ý nghĩa đối với mỗi hs
- Giúp hs thấy sự tiến của chính mình


-

Cá nhân hóa sự học tập của mỗi hs


Có thể lí giải với phụ huynh hs về sự tiến bộ của con em họ .

5.


Tìm hiểu về câu hỏi trắc nghiệm:
Đây là dạng câu hỏi yêu cầu lực chọn câu trả lời. Có 4 dạng :



Câu hỏi trắc nghiệm nhiều lựa chọn.



Câu hỏi ghép.



Câu hỏi lựa chọn đúng/sai.



Dạng điền vào chỗ trống.

Câu hỏi trắc nghiệm nhiều lựa chọn:

Câu hỏi trắc nghiệm nhiều lựa chọn gồm một câu đề và đưa ra nhiều sự lựa chọn
gọi là câu trả lời, trong đó chỉ có một câu trả lời đúng gọi là đáp án. Những câu trả
lời khác là bẫy.



Ví dụ: khoanh vào trước câu trả lời đúng:
Trong các phép chia có dư với số chia là 3, số dư lớn nhất của phép chia đó là:
A.

3

C. 4

B.

2

D.0

Khi chuẩn bị câu hỏi trắc nghiệm, cần lưu ý:


Câu đề nên chuyển tải ý rõ ràng.



Không tạo sự khác biệt giữa câu bẫy và câu trả lời.



Câu đề không nên chứa đựng những gợi ý không cần thiết.




Câu bẫy nên có đầy đủ nghĩa.

Các câu hỏi ghép:
 Các câu hỏi ghép thường bao gồm câu đề, sau đó là câu thuộc cột bên trái là câu gốc
và câu thuộc cột bên phải là câu trả lời. Học sinh phải ghép các câu trong cột gốc với
các câu trong cột trả lời theo yêu cầu đã cho.


Ví dụ 1: Nối số ở cột gốc bên trái với cách đọc số tương ứng ở cột bên phải.


315

Bốn mươi lăm.

521

Ba trăm hai mươi hai.

405

Ba trăm mười lăm.

322

Năm trăm hai mươi mốt.

450

Bốn trăm linh năm.


Bốn nhăm.

Ví dụ 2: Nối theo mẫu.
76 – 5

54

40 + 14

68 – 14

71

11 + 21

42 – 12

32

60 + 11

Câu hỏi lựa chọn đúng/sai:

Câu hỏi lựa chọn đúng/sai bao gồm câu đề hoặc đúng hoặc sai. Học sinh phải
chỉ ra câu đó đúng hoặc sai.


Ví dụ: Đúng ghi Đ, sai ghi S:
30 + 15= 40


45 + 17= 50

28 + 17=35

29 + 36=65

19 + 21= 40

61 + 37= 98




Dạng điền vào chỗ trống:

Dạng này bao gồm câu đề với một hoặc nhiều từ để trống. Yêu cầu học sinh
hoàn thiện câu đề bằng cách điền vào chỗ trống.
Ví dụ: Viết theo mẫu:
a) số 83 gồm tám chục và ba đơn vị.
b) số 49 gồm .... chục và ....đơn vị.
c) số 97 gồm

... chục và .... đơn vị.



Ưu điểm của trắc nghiệm khách quan:




dễ chấm điểm.




Tốn ít thời gian chấm.



Tính hiệu quả cao.



Chấm điểm khách quan.



Học sinh được củng cố kiến thức đối với câu trả lời đúng và có sự hiểu biết với
câu trả lời sai.



Thu thập được nhiều thông tin trong một thời gian ngắn.



Tạo điều kiện kiểm tra thường xuyên và kiểm tra trước khi dạy.




Có thể tiến hành phân tích câu hỏi.



Nhược điểm của trắc nghiệm khách quan:



có lợi cho học sinh có kinh nghiệm thi.



Khó chuẩn bị.



Nhấn mạnh khả năng thừa nhận kiến thức hơn khả năng hiểu biết của học sinh.



Không có cơ hội đánh giá khả năng hiểu biết của học sinh.



Có thể thúc đẩy thói quen học tập hình thức do nhấn mạnh các chi tiết.


TÀI LIỆU THAM KHẢO :
-


Phương pháp dạy toán tiểu học tập 1
Tác giả Phạm Đình Thực
Nhà xuất bản giáo dục.

-

Phương pháp dạy học toán ở tiểu học ( tài liệu đào tạo giáo viên )
Tác giả Vũ Quốc Chung ( Chủ biên )
Nhà xuất bản đại học sư phạm.



Đổi mới phương pháp dạy học Toán tiếp cận chương trình giáo dục phổ thông 2018 theo định hướng phát triển năng lực học sinh tiểu học

13.11.2019 11:21143109 đã xem

Mục đích của đánh giá trong dạy học môn Toán

Chương trình tổng thể Ban hành theo Thông tư 32/2018/TT-BGDĐT ngày 26/12/2018 nêu rõ “Giáo dục toán học hình thành và phát triển cho học sinh những phẩm chất chủ yếu, năng lực chung và năng lực toán học với các thành tố cốt lõi: năng lực tư duy và lập luận toán học, năng lực mô hình học toán học, năng lực giải quyết vấn đề toán học, năng lực giao tiếp toán học, năng lực sử dụng các công cụ và phương tiện học toán; phát triển kiến thức, kĩ năng then chốt và tạo cơ hội để học sinh được trải nghiệm, áp dụng toán học vào đời sống thực tiễn, giáo dục toán học tạo dựng sự kết nối giữa các ý tưởng toán học, giữa toán học với các môn học khác và giữa toán học với đời sống thực tiễn’’.

Về phương pháp dạy học Toán: Thực hiện dạy học phù hợp với tiến trình nhận thức của học sinh (đi từ cụ thể đến trừu tượng, từ dễ đến khó); Quán triệt tinh thần “lấy người học làm trung tâm”, chú ý nhu cầu, năng lực nhận thức, cách thức học tập khác nhau của từng cá nhân học sinh; Tổ chức quá trình dạy học theo hướng kiến tạ o, trong đó học sinh được tham gia tìm tòi, phát hiện, suy luận giải quyết vấn đề; Linh hoạt trong việc vận dụng các phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực, kết hợp nhuần nhuyễn, sáng tạo với việc vận dụng các phương pháp, kĩ thuật dạy học truyền thống; Kết hợp các hoạt động dạy học trong lớp học với hoạt động thực hành trải nghiệm, vận dụng kiến thức toán học vào thực tiễn.

Về đánh giá kết quả giáo dục môn Toán: Mục tiêu đánh giá là cung cấp thông tin chính xác, kịp thời, có giá trị về sự phát triển năng lực và sự tiến bộ của học sinh trên cơ sở yêu cầu cần đạt ở mỗi lớp học để điều chỉnh các hoạt động dạy học, bảo đảm sự tiến bộ của từng học sinh và nâng cao chất lượng giáo dục môn Toán nói riêng và chất lượng giáo dục nói chung. Việc đánh giá thường xuyên do giáo viên phụ trách môn học tổ chức, kết hợp với đánh giá của giáo viên các môn học khác, của bản thân học sinh được đánh giá và của các học sinh khác trong tổ, trong lớp hoặc đánh giá của cha mẹ học sinh, đi liền với tiến trình hoạt động học tập của học sinh, bảo đảm mục tiêu đánh giá vì sự tiến bộ trong học tập của học sinh. Việc đánh giá định kì là đánh giá kết quả giáo dục sau một giai đoạn học tập. Kết quả đánh giá định kì được sử dụng để chứng nhận cấp độ học tập, công nhận thành tích cho người học theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Khuyến khích vận dụng kết hợp nhiều phương pháp đánh giá (quan sát, ghi lại quá trình thực hiện, vấn đáp, trắc nghiệm khách quan, tự luận, kiểm tra viết, bài tập thực hành, các dự án học tập, thực hiện nhiệm vụ thực tiễn,...); đồng thời hướng dẫn giáo viên lựa chọn các phương pháp, công cụ đánh giá phù hợp với từng thành phần năng lực toán học.

Sử dụng đủ và hiệu quả các phương tiện, thiết bị dạy học tối thiểu theo quy định đối với môn Toán. Coi trọng việc sử dụng các phương tiện truyền thống, tăng cường thiết bị dạy học tự làm đồng thời khuyến khích sử dụng các phương tiện nghe nhìn, phương tiện kĩ thuật hiện đại hỗ trợ quá trình dạy học. Khi có điều kiện, giáo viên nên hướng dẫn học sinh cách tìm kiếm thông tin, tư liệu trên Internet hoặc chương trình truyền hình có uy tín về giáo dục để mở rộng vốn hiểu biết và năng lực tự học.

I. ĐẶC ĐIỂM MÔN HỌC

Toán học ngày càng có nhiều ứng dụng trong cuộc sống, những kiến thức và kĩ năng toán học cơ bản đã giúp con người giải quyết các vấn đề trong thực tế cuộc sống một cách có hệ thống và chính xác, góp phần thúc đẩy xã hội phát triển. Môn Toán ở trường phổ thông góp phần hình thành và phát triển các phẩm chất chủ yếu, năng lực chung và năng lực toán học cho học sinh; phát triển kiến thức, kĩ năng then chốt và tạo cơ hội để học sinh được trải nghiệm, vận dụng toán học vào thực tiễn; tạo lập sự kết nối giữa các ý tưởng toán học, giữa Toán học với thực tiễn, giữa Toán học với các môn học và hoạt động giáo dục khác, đặc biệt với các môn Khoa học, Khoa học tự nhiên, Vật lí, Hoá học, Sinh học, Công nghệ, Tin học để thực hiện giáo dục STEM. Nội dung môn Toán thường mang tính logic, trừu tượng, khái quát. Do đó, để hiểu và học được Toán, chương trình Toán ở trường phổ thông cần bảo đảm sự cân đối giữa “học” kiến thức và “vận dụng” kiến thức vào giải quyết vấn đề cụ thể. Trong quá trình học và áp dụng toán học, học sinh luôn có cơ hội sử dụng các phương tiện công nghệ, thiết bị dạy học hiện đại, đặc biệt là máy tính điện tử và máy tính cầm tay hỗ trợ quá trình biểu diễn, tìm tòi, khám phá kiến thức, giải quyết vấn đề toán học.

Chương trình môn Toán tiểu học hình thành, phát triển ở học sinh năng lực toán học với các thành tố: tư duy và lập luận toán học; mô hình hoá toán học; giải quyết vấn đề toán học; giao tiếp toán học; sử dụng công cụ, phương tiện học Toán. Đồng thời, môn Toán góp phần hình thành, phát triển ở học sinh các phẩm chất chủ yếu và năng lực chung đã quy định trong Chương trình tổng thể; giúp học sinh bước đầu xác định được năng lực, sở trường của bản thân nhằm định hướng và lựa chọn nghề nghiệp, rèn luyện nhân cách để trở thành người lao động và người công dân có trách nhiệm.

II. MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC TÍCH CỰC MÔN TOÁN NHẰM PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC HỌC SINH

Phương pháp dạy học tích cực: PPDHTC là một phương pháp dạy học toán mà ở đó người GV sử dụng một nhóm PP giáo dục và dạy học theo hướng phát huy tính tích cực chủ động sáng tạo của người học đồng thời chống lại thói quen học tập thụ động của người học.

Các dấu hiệu tích cực trong học toán gồm:

- HS hăng hái phát biểu ý kiến.

- Không bằng lòng lời giải của cô và của bạn

- Không bằng lòng với một cách giải quyết duy nhất

- Thường hay thắc mắc, đặt ra câu hỏi và đòi hỏi được giải đáp, hay chia sẻ suy nghĩ với bạn.

- Thường hay ngơ ngác trên lớp và suy nghĩ về vấn đề liên quan.

- Học sinh còn tự giác, chủ động làm bài – tự học, trao đổi nhận xét bài cho bạn – hợp tác.

1. Phương pháp trực quan

Là một phương pháp dạy học toán mà ở đó người giáo viên làm cho HS năm được tri thức kĩ năng của môn toán dựa trên các hoạt động quan sát trực tiếp của trẻ đối với các hiện tượng, các sự vật cụ thể có ở đời sống xung quanh trẻ. Khi sử dụng phương pháp trực quan cần lưu ý đồ dùng trực quan phải đẹp, sặc sỡ, rực rỡ. Đồ dùng trực quan phải phong phú đa dạng.

a) Cách sử dụng

- Phải có mức độ không được lạm dụng, khi trẻ đã hiểu vấn đề thì không dùng trực quan nữa.

Phải nêu được bản chất toán học của tri thức cần dạy.

b) Ví dụ

Dạy số 3 là đưa ba bông hoa liền một lúc, không được đưa ra từng bông một.

- Khi dạy hình thành phép cộng cho học sinh lớp 1 các vật dụng phải các vật di chuyển được như con gà, con thỏ. ….. vì phép cộng là phép hợp của 2 vật di chuyển được lại với nhau.

- Không sử dụng các đồ vật vô tri vô giác như bông hoa, cái kẹo, cái ô…..

- Tăng cường đưa trẻ vào quan sát thực tiễn.

- Cho trẻ tham gia vào thao tác đồ dùng trực quan

2. Phương pháp gợi mở - vấn đáp

a) Định nghĩa

PPGMVĐ là một phương pháp dạy học toán mà ở đó người giáo viên không đưa ra kiến thức trực tiếp mà giáo viên dùng hệ thống câu hỏi cho HS suy nghĩ trả lời từng câu.

b) Lưu ý khi sử dụng phương pháp này

- Câu hỏi phải rõ ràng, ngắn gọn, chính xác.

- Câu hỏi không được quá dễ hay quá khó.

- Câu hỏi phải làm cho HS suy nghĩ.

Cấm đưa ra những câu hỏi mà học sinh chỉ phải trả lời ở dạng: Có, không, đúng, sai.

c) Ví dụ : 6 + 4 = a

Hỏi có bao nhiêu bạn kết quả a.

Bao nhiêu kết quả b.

- Làm cho trẻ hiểu được điều sai để nhận ra đúng.

- Không nên kết luận quá sớm.

- Cho trẻ giải thích kết quả của mình.

- Ứng xử cho phù hợp không áp đặt.

d) Cách hỏi

- GV đưa ra câu hỏi trước để HS suy nghĩ rồi mới yêu cầu cách trả lời.

- Khi hỏi không nên để HS trả lời đồng thanh, nói leo hoặc “vuốt đuôi”.

- Khi HS trả lời GV cần chú ý lắng nghe đẻ sửa chữa sai lầm về mặt ngôn ngữ hoặc về mặt toán.

- Cần khuyến khích HS tự sửa chữa sai lầm của mình với của bạn.

- Cấm: mắng mỏ, mạt sát, chỉ trích, chửi bới chê bai khi HS trả lời sai.

3. Phương pháp dạy học đặt và giải quyết vấn đề

a) Định nghĩa: Dạy học đặt và giải quyết vấn đề là một phương pháp dạy học toán mà ở đó người GV tạo ra các tình huống có vấn đề, rồi điều khiển học sinh tự phát hiện vấn đề hoạt động tự giác và tích cực để giải quyết vấn đề thông qua đó đạt được mục tiêu học.

b) Thế nào là một vấn đề đối với người học

- Người học chưa thể thực hiện được yêu cầu đặt ra

- Người học chưa được học một qui tắc có tính chất thuật giải để giải đáp câu hỏi hoặc để thực hiện yêu cầu đặt ra.

c) Thế nào là một tình huống có vấn đề

- Tồn tại một vấn đề theo nghĩa trên.

- Tình huống phải gửi nhu cầu nhận thức.

- Phải tạo được niềm tin ở khả năng người học

d) Các bước tiến hành

- Bước 1: GV nêu vấn đề, thường là đưa ra tình huống có vấn đề để học sinh trực tiếp chỉ ra vấn đề hoặc là HS sau khi tìm hiểu sẽ tự tìm ra vấn đề.

- Bước 2: GV hướng dẫn HS tìm các chiến lược để giải quyết vấn đề.

- Bước 3: GV theo dõi và giúp đỡ HS.

- Bước 4: Hướng dẫn HS cách trình bày giải quyết vấn đề.

- Trình bày khả năng ngôn ngữ và khả năng toán học được hình thành

Ví dụ: Dạy bài diện tích hình tam giác; Học sinh chuẩn bị 1 tờ giấy a4 hình chữ nhật, dùng thước và bút chì kẻ 1 đoạn thẳng nối 2 góc đối diện và cắt đôi thành 2 hình tam giác vuông. Cho học sinh tìm mối liên hệ giữa chiều cao hình tam giác vuông và chiều rộng hình chữ nhật, giữa 2 hình tam giác vuông khi ghép lại sẽ như thế nào so với hình chữ nhật. Diện tích hình chữ nhật là chiều dài nhân chiều rộng. Vậy tại sao khi tính diện tích hình tam giác vuông ta lại lấy chiều dài cạnh đáy nhân chiều cao chia 2. Đây là một số vấn đề giáo viên nêu ra cho học sinh giải quyết.

4. Phương pháp luyện tập thực hành

Định nghĩa: Là phương pháp dạy học toán mà ở đó người GV tổ chức cho HS giải quyết các nhiệm vụ hay các bài tập để tự HS khắc sâu kiến thức đã học hoặc phát triển kiến thức đó trở thành kiến thức mới hoặc vận dụng kiến thức đó làm tính giải toán và áp dụng thực tế.

- Lưu ý: ¾ tổng số tiết toán là luyện tập thực hành.

- Phải có sự chuẩn bị tốt cho việc luyện tập thực hành.

- Tôn trọng tính độc lập của trẻ em, để cho trẻ suy nghĩ tìm ra biện pháp thực hành.

5. Phương pháp giảng giải - minh hoạ: PPGGMH là một phương pháp dạy học toán mà ở đó người GV dùng lời nói để giải thích tài liệu toán có kết hợp với phương tiện trực quan để hỗ trợ cho việc giải thích.

- Chú ý: Bất đắc dĩ mới dùng phương pháp này

- Khi dùng phương pháp này không giảng giải quá 5 phút

III. Đổi mới đồng bộ PPDH và ĐGHS trong dạy học Toán ở tiểu học

Để “phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến thức, kĩ năng của người học”, “bồi dưỡng PP tự học, hứng thú học tập, kĩ năng hợp tác, làm việc nhóm và khả năng tư duy độc lập”,có thể góp phần “phát triển toàn diện NL và PC” của HS tiểu học, định hướng dạy học toán ở tiểu học cần vận dụng một cách đa dạng các hình thức tổ chức với các phương pháp dạy học; chú trọng thực hành, ứng dụng, gắn kết kiến thức toán học với thực tế cuộc sống hằng ngày của các em, với các môn học khác và các hoạt động giáo dục trong hay ngoài nhà trường;chú trọng tổ chức hoạt động tự học (cá nhân, cặp, nhóm, cả lớp, ở nhà…) cho HS(với sự hướng dẫn, giám sát, đánh giá của GV, cha mẹ HS); GV cần đặc biệt chú ý, quan tâm đến việc dạy học phù hợp từng đối tượng HS; kết hợp việc giúp các em tự lĩnh hội được kiến thức toán học (thông qua hoạt động học) với việc hình thành, phát triển NL, PC của HS. GV cần chuyển quá trình thuyết giảng thành quá trình tổ chức hoạt động học cho HS, có thể thông qua các hoạt động:Gợi động cơ,tạo hứng thú;Trải nghiệm, khám phá;Phân tích,rút ra bài học;Thực hành; Ứngdụng. Qua quá trình thực hiện các hoạt động học toán (cá nhân, cặp, nhóm, cả lớp, ở nhà…), ngoài việc HS hình thành và phát triển NL tư duy, năng lực tính toán thì HS cũng có thể phát triển một số NLPC như tự học, hợp tác, giải quyết vấn đề.

IV. ĐỔI MỚI LẬP KẾ HOẠCH DẠY HỌC TOÁN

Giáo viên thiết kế Kế hoạch dạy học (KHDH) Toán theo tinh thần đổi mới nội dung, chương trình và phương pháp dạy học với tinh thần “dạy học là tổ chức cho học sinh hoạt động để tự tiếp thu kiến thứcvà phát triển năng lực”. Cải tiến cách thiết kế KHDH đảm bảo yêu cầu tinh giản, vững chắc các kiến thức, các hoạt động cơ bản của tiết dạy, đảm bảo cung cấp kiến thức, rèn luyện kĩ năng phù hợp với trình độ học sinh, nhất là đối với học sinh là dân tộc thiểu số. Mục tiêu cần đạt cho từng đối tượng học sinh của lớp, những việc giáo viên cần phải làm, những yêu cầu cụ thể dành cho các nhóm học sinh khác nhau và phát triển năng lực học sinh theo yêu cầu.

Để đổi mới phương pháp dạy học Toán tiếp cận chương trình giáo dục phổ thông 2018 theo định hướng phát triển năng lực học sinh tiểu học cần thực hiện như sau:

- Trước hết Giáo viên phải dành thời gian đọc, nghiên cứu kĩ chương trình tổng thể và chương trình môn học, trong đó yêu cầu phải nắm vững mục tiêu môn Toán và các yêu cầu cần đạt về phẩm chất, năng lực học sinh. Nắm vững mục tiêu của môn toán trong cả cấp học trước khi xác định mục tiêu bài học. Điều này giúp giáo viên nhận biết khả năng tư duy của trẻ, nhận biết khiếm khuyết ở một phần nào của nội dung để có biện pháp phù hợp.

- Theo nội dung sách giáo khoa, xác định mục tiêu cụ thể cho từng bài.

- Từ mục tiêu và nội dung sách giáo khoa thiết kế các hoạt động dạy học, mỗi hoạt động dạy học phải xác định được đạt mục tiêu, phát triển năng lực nào cho học sinh, mỗi hoạt động dạy học giáo viên phải thiết kế và lựa chọn sử dụng các phương pháp và hình thức dạy học nào cho phù hợp, trong mỗi phương pháp ấy giáo viên sử dụng kỹ thuật, hình thức đánh giá nhận xét như thế nào nhằm phát triển năng lực học sinh.

1. Chuẩn bị cho việc lập kế hoạch dạy học

- Kế hoạch dạy học không có kiểu giáo án mẫu như trước đây dùng chung cho mọi giáo viên.

- Giáo viên thật sự tâm huyết, cầu tiến, đổi mới trong Kế hoạch DH môn học từng bài nên có một phần ghi những kinh nghiệm thành công, những nội dung cần điều chỉnh sau khi dạy hoc cũng như ghi các nhận xét với những học sinh nhằm làm cơ sở cho việc nhận xét đánh giá thường xuyên theo Thông tư 22.

- Nói chung, kế hoạch dạy- học toán ghi lại cách tổ chức, hướng dẫn cho học sinh học trong một tiết dạy cụ thể, không phải là bài soạn nội dung để truyền thụ đến học sinh.

2. Kế hoạch dạy học cần chỉ rõ vai trò, mối tương tác giữa các chủ thể (Giáo viên – Học sinh) trong tiết dạy.

Vậy Kế hoạch dạy-học cần thể hiện điều gì?

Thể hiện rõ mục tiêu bài dạy:

- Kiến thức cơ bản

- Kĩ năng cơ bản.

- Yêu cầu giáo dục phát triển.

- Các Phẩm chất, năng lực được hình thành và phát triển.

- Về cơ bản, nội dung, chương trình, mục tiêu dạy học có yêu cầu đáp ứng 2 nhiệm vụ: Phổ cập cho các đối tượng học sinh trong lóp và phát triển cho các học sinh cao hơn.

- Mục tiêu bài dạy thể hiện rõ tính phù hợp cho nhiều đối tượng.

3. Quá trình tổ chức dạy- học

Bao gồm: Mỗi quy trình cần thể hiện:

- Phương pháp đặc trưng, trọng tâm – phương pháp phối hợp.

+ Các hoạt động chủ yếu của Thầy và Trò (hình thức hoạt động, giải quyết nhiệm vụ nào? Yêu cầu của mỗi nhiệm vụ là gì? Hệ thống các lệnh hướng dẫn của Thầy và hoạt động đáp ứng của Trò …)

+ Lưu ý: Các hình thức tổ chức hoạt động (Nhóm 2, nhóm 4, ……, các trò chơi học tập, …) đều trập trung vào phương pháp chủ yếu, đặc trưng.

VD: Giáo viên có thể cho nhóm 4 học sinh cùng tham gia hoạt động (hợp tác) để thực hiện việc xác định một nội dung học tập nào đó bằng phương pháp quan sát, so sánh, phân tích, quy nạp, … thông qua các lệnh điều khiển hoạt động cho học sinh để hướng dẫn học sinh phương pháp tiếp cận vấn đề, phương pháp học tập (phương pháp khác hình thức hoạt động ).

+ Thể hiện sự hoạt động đồng bộ giữa Thầy với Trò, sự tương ứng giữa các hoạt động, sự hợp tác làm việc; sự theo dõi – kiểm soát; tư vấn thúc đẩy các hoạt động của cá nhân, nhóm, của cả lớp.

V. Cấu trúc kế hoạch dạy – học Toán

1. Hoạt động 1: Hoạt động sư phạm hoặc Khởi động, kết nối

- Tổ chức, thiết lập môi trường làm việc, quan trọng là chuẩn bị tâm thế, tư thế cho học sinh bắt đầu học toán.

- Tổ chức kiểm tra, có thể tái hiện kiến thức cũ đã học hoặc lồng ghép tùy giáo viên; đánh giá nhiệm vụ học tập (tổng quát, toàn diện, không chỉ thiên về kiến thức, kĩ năng cơ bản).

- Tổ chức kiểm tra sự chuẩn bị của học sinh.

- Giáo viên chuẩn bị đồ dùng dạy học, bảng lớp, giới thiệu bài học mới.

2. Hoạt động 2: Khám phá

- Giúp học sinh khám phá nội dung kiến thức mới và cơ bản.

- Ơ hoạt động này, giáo viên lên kế hoạch đầy đủ (bao gồm: tiến trình các bước dạy, phương pháp chủ yếu, hoạt động của Thầy và Trò, sử dụng các phương tiện, công cụ dạy học; hệ thống lệnh điều hành các hoạt động, … )

3. Hoạt động 3: Hoạt động luyện tập cơ bản

- Mục đích chủ yếu là tạo sự nối kết giữa kiến thức vừa khám phá với luyện tập đơn giản.

- Ở hoạt động này, giáo viên chỉ cần nêu các lệnh điều hành:

+ Nêu nhiệm vụ tổng quát

+ Yêu cầu cần thực hiện.

VD:

+ Nhiệm vụ tổng quát: thực hiện bài tập số …… trang ……

+ Yêu cầu:

* Hình thức hoạt động: Hoạt động theo nhóm … (2, 3, 4, …)

- Tìm hiểu đề bài, những đặc điểm cơ bản của đề bài và tìm phương pháp giải.

* Hình thức hoạt động: nhóm 2:

- Trao đổi cách làm, kết quả, đánh giá kết quả lẫn nhau.

- Báo cáo, thông tin lại kết quả làm việc của nhóm (kết quả, các sai sót, nguyên nhân, cách giải quyết).

4. Hoạt động 4: Hoạt động luyện tập thực hành

- Mục đích chủ yếu là giúp học sinh vận dụng kiến thức, kĩ năng đã nắm bắt ở hoạt động 2, 3 vào những nội dung luyện tập, những tình huống khác nhau ở mức độ cao hơn.

- Ở hoạt động này, giáo viên cũng chỉ nêu các lệnh điều hành như ở hoạt động 3.

Nhưng có dự kiến thêm về số lượng bài thực hành cho các đối tượng khác nhau (theo mục tiêu hoàn thành khác nhau).

5. Hoạt động nối tiếp sau tiết học

- Mục đích chủ yếu: Tạo cơ hội cho các em gắn các nội dung đã học vào hoạt động thực tiễn, thích ứng và tự lực hoặc tự xây dựng kế hoạch hợp tác (với anh chị, cha mẹ hoặc bạn bè hoặc với những điều kiện khác nhau, …)

- Ở hoạt động này GV nên có bảng hướng dẫn thực hiện công việc:

VD: Tìm hiểu vấn đề này ở từ điển (tên, nhà xuất bản), hoặc tìm hiểu vấn đề này thêm ở tạp chí, tập san, chuyên san … ở thư viện, tiệm sách; hoặc ở website ……; hoặc sưu tầm các mẫu vật có ở vườn nhà, …… nên ghi chép những nội dung quan sát được; nên nhờ sự cộng tác của anh chị, người thân, bạn bè, ……

Mỗi hoạt động đều nên có lưu ý về tổ chức nhận xét, rút kinh nghiệm, củng cố, nêu giải pháp khắc phục.

MINH HỌA

KẾ HOẠCH DẠY- HỌC MÔN TOÁN

I. Mục tiêu

- Là mục tiêu cần đạt, phải đạt được sau tiết dạy.

- Mục tiêu phải đánh số thứ tự 1, 2, 3…..

- Từng mục tiêu phải chỉ rõ mức độ cần đạt của HS lớp mình.

- Mục tiêu cần ghi rõ thành câu

- Yêu cần cần đạt về phẩm chất, năng lực học sinh….

- Các mục tiêu phải phủ kín cả nội dung bài mình dạy bao gồm phần khung xanh trong SGK và hệ thống bài tập áp dụng

II. Hoạt động sư phạm

- Tổ chức, thiết lập môi trường làm việc, chuẩn bị tâm thế cho học sinh học toán, tư thế cho học sinh.

- Tổ chức kiểm tra, tái hiện kiến thức cũ đã học; đánh giá nhiệm vụ học tập (tổng quát, toàn diện, không chỉ thiên về kiến thức, kĩ năng cơ bản).

- Tổ chức kiểm tra sự chuẩn bị của học sinh.

- Giáo viên chuẩn bị đồ dùng dạy học, bảng lớp, giới thiệu bài học mới.

III. Các hoạt động dạy - học chủ yếu

1. Hoạt động 1

- Nhằm đạt mục tiêu số mấy……….

- Hoạt động lựa chọn ……………………………………….....

- Hình thức tổ chức.....................................................................

- Phương pháp lựa chọn ……………………………………….

- Phẩm chất, năng lực hình thành và phát triển……….

Hoạt động của GV

Hoạt động mong đợi ở HS

Dự kiến kỹ thuật, hình thức nhận xét đánh giá thường xuyên

- Ghi câu hỏi

- Câu lệnh

- Không ghi câu kể lể

Vd:Em cho biết tranh vẽ gì?

Các hoạt động tiếp theo

ghi như HĐ1

IV. HĐ tiếp nối: Củng cố, nhận xét, dặn dò.....

V. Chuẩn bị ĐDDH

- GV

- HS

HOẶC

Hoạt động …….

Mục tiêu hoạt động

Phương pháp

Hình thức

tổ chức

Hoạt động

giáo viên

Hoạt động

Học sinh

Để góp phần “phát triển toàn diện NL và PC” của HS tiểu học, trong quá trình dạy học Toán, GV cần phải tổ chức cho HS hoạt động học (theo cá nhân, cặp đôi, nhóm hay cả lớp) cùng với hoạt động tự nhận xét và nhận xét sản phẩm của bạn hay nhóm bạn, qua đó HS có thể tự chiếm lĩnh nội dung kiến thức, rèn kĩ năng cần thiết.Khi HS thực hiện hoạt động học thì GV thực hiện các hoạt động ĐG (quan sát, tư vấn, hướng dẫn HS, nhận xét…). Để có thể tổ chức cho HS hoạt động học được hiệu quả, GV cần phải xác định rõ mục tiêu hay yêu cầu cần đạt và nội dung bài học, từ đó thiết kế thành các hoạt động học và hoạt động ĐG (nhận xét, tự nhận xét…) để HS thực hiện. GV tổ chức hoạt động dạy học Toán cùng với hoạt động ĐG để góp phần hình thành, phát triển NLPC HS. Trong quá trình tổ chức hoạt động học Toán và ĐGHS trong giờ học Toán, để thực hiện yêu cầu “vì sự tiến bộ của HS”, GV phải được chủ động, linh hoạt, sáng tạo trong toàn bộ giờ học nói riêng và quá trình giảng dạy nói chung. Với trách nhiệm của mình, cùng với năng lực sẵn có và sự tâm huyết nghề nghiệp, yêu thương HS, việc đổi mới đồng bộ PPDH và ĐGHS trong DH môn Toán ở tiểu học sẽ giúp HS tiến bộ trong học tập môn Toán, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục tiểu học./.

Nguyễn Duy Hải - Trưởng phòng GDTH Sở GDĐT

Chương trình môn Toán/Đánh giá kết quả giáo dục

< Chương trình môn Toán

Mục tiêu đánh giá kết quả giáo dục môn Toán là cung cấp thông tin chính xác, kịp thời, có giá trị về sự phát triển năng lực và sự tiến bộ của học sinh trên cơ sở yêu cầu cần đạt ở mỗi lớp học, cấp học; điều chỉnh các hoạt động dạy học, bảo đảm sự tiến bộ của từng học sinh và nâng cao chất lượng giáo dục môn Toán nói riêng và chất lượng giáo dục nói chung.

Vận dụng kết hợp nhiều hình thức đánh giá (đánh giá quá trình, đánh giá định kì), nhiều phương pháp đánh giá (quan sát, ghi lại quá trình thực hiện, vấn đáp, trắc nghiệm khách quan, tự luận, kiểm tra viết, bài tập thực hành, các dự án/sản phẩm học tập, thực hiện nhiệm vụ thực tiễn,...) và vào những thời điểm thích hợp.

Đánh giá quá trình (hay đánh giá thường xuyên) do giáo viên phụ trách môn học tổ chức, kết hợp với đánh giá của giáo viên các môn học khác, của bản thân học sinh được đánh giá và của các học sinh khác trong tổ, trong lớp hoặc đánh giá của cha mẹ học sinh. Đánh giá quá trình đi liền với tiến trình hoạt động học tập của học sinh, tránh tình trạng tách rời giữa quá trình dạy học và quá trình đánh giá, bảo đảm mục tiêu đánh giá vì sự tiến bộ trong học tập của học sinh.

Đánh giá định kì (hay đánh giá tổng kết) có mục đích chính là đánh giá việc thực hiện các mục tiêu học tập. Kết quả đánh giá định kì và đánh giá tổng kết được sử dụng để chứng nhận cấp độ học tập, công nhận thành tích của học sinh. Đánh giá định kì do cơ sở giáo dục tổ chức hoặc thông qua các kì kiểm tra, đánh giá quốc gia.

Đánh giá định kì còn được sử dụng để phục vụ quản lí các hoạt động dạy học, bảo đảm chất lượng ở cơ sở giáo dục và phục vụ phát triển chương trình môn Toán.

Đánh giá năng lực học sinh thông qua các bằng chứng biểu hiện kết quả đạt được trong quá trình thực hiện các hành động của học sinh. Tiến trình đánh giá gồm các bước cơ bản như: xác định mục đích đánh giá; xác định bằng chứng cần thiết; lựa chọn các phương pháp, công cụ đánh giá thích hợp; thu thập bằng chứng; giải thích bằng chứng và đưa ra nhận xét.

Chú trọng việc lựa chọn phương pháp, công cụ đánh giá các thành tố của năng lực toán học. Cụ thể:

  • Đánh giá năng lực tư duy và lập luận toán học: có thể sử dụng một số phương pháp, công cụ đánh giá như các câu hỏi (nói, viết), bài tập,... mà đòi hỏi học sinh phải trình bày, so sánh, phân tích, tổng hợp, hệ thống hoá kiến thức; phải vận dụng kiến thức toán học để giải thích, lập luận.
  • Đánh giá năng lực mô hình hoá toán học: lựa chọn những tình huống trong thực tiễn làm xuất hiện bài toán toán học. Từ đó, đòi hỏi học sinh phải xác định được mô hình toán học (gồm công thức, phương trình, bảng biểu, đồ thị,...) cho tình huống xuất hiện trong bài toán thực tiễn; giải quyết được những vấn đề toán học trong mô hình được thiết lập; thể hiện và đánh giá được lời giải trong ngữ cảnh thực tiễn và cải tiến được mô hình nếu cách giải quyết không phù hợp.
  • Đánh giá năng lực giải quyết vấn đề toán học: có thể sử dụng các phương pháp như yêu cầu người học nhận dạng tình huống, phát hiện và trình bày vấn đề cần giải quyết; mô tả, giải thích các thông tin ban đầu, mục tiêu, mong muốn của tình huống vấn đề đang xem xét; thu thập, lựa chọn, sắp xếp thông tin và kết nối với kiến thức đã có; sử dụng các câu hỏi (có thể yêu cầu trả lời nói hoặc viết) đòi hỏi người học vận dụng kiến thức vào giải quyết vấn đề, đặc biệt các vấn đề thực tiễn; sử dụng phương pháp quan sát (như bảng kiểm theo các tiêu chí đã xác định), quan sát người học trong quá trình giải quyết vấn đề; đánh giá qua các sản phẩm thực hành của người học (chẳng hạn sản phẩm của các dự án học tập); quan tâm hợp lí đến các nhiệm vụ đánh giá mang tính tích hợp.
  • Đánh giá năng lực giao tiếp toán học: có thể sử dụng các phương pháp như yêu cầu người học nghe hiểu, đọc hiểu, ghi chép (tóm tắt), phân tích, lựa chọn, trích xuất được được các thông tin toán học cơ bản, trọng tâm trong văn bản nói hoặc viết; sử dụng được ngôn ngữ toán học kết hợp với ngôn ngữ thông thường trong việc trình bày, diễn đạt, nêu câu hỏi, thảo luận, tranh luận các nội dung, ý tưởng, giải pháp toán học trong sự tương tác với người khác.
  • Đánh giá năng lực sử dụng công cụ, phương tiện học toán: có thể sử dụng các phương pháp như yêu cầu người học nhận biết được tên gọi, tác dụng, quy cách sử dụng, cách thức bảo quản, ưu điểm, hạn chế của các công cụ, phương tiện học toán; trình bày được cách sử dụng (hợp lí) công cụ, phương tiện học toán để thực hiện nhiệm vụ học tập hoặc để diễn tả những lập luận, chứng minh toán học.

Khi giáo viên lên kế hoạch bài học, cần thiết lập các tiêu chí và cách thức đánh giá để bảo đảm ở cuối mỗi bài học học sinh đạt được các yêu cầu cơ bản dựa trên các tiêu chí đã nêu, trước khi thực hiện các hoạt động học tập tiếp theo.