Nhạc sĩ mô da sinh năm bao nhiêu năm 2024

+ Cao độ, trường độ của các bài đọc nhạc số 1, 2, 3.+ Định nghĩa các loại nhịp 4/4, nhịp lấy đà.+ Tiểu sử và các tác phẩm tiêu biểu của nhạc sĩ Hoàng Việt. Xuất xứ, nội dung, tính chất của bài Nhạc rừng.

Wolfgang Amadeus Mozart (1756-1791) là một nhà soạn nhạc người Áo đã viết nhiều tác phẩm bao gồm các bản concerto cho piano, tứ tấu đàn dây, giao hưởng, opera và thánh nhạc. Được coi là một trong những hoặc có lẽ là tài năng âm nhạc bẩm sinh vĩ đại nhất từ ​​trước đến nay, Mozart qua đời không một xu dính túi ở tuổi 35 và được chôn cất trong một ngôi mộ không được đánh dấu, nhưng tác phẩm phức tạp, biểu cảm và vui tươi của ông vẫn tiếp tục mê hoặc công chúng đến tận ngày nay.

Thần đồng âm nhạc

Wolfgang Amadeus Mozart (được rửa tội với tên Joannes Chrysostomus Wolfgangus Theophilus) sinh ra ở Salzburg, Áo, vào ngày 27 tháng 1 năm 1756. Cha của ông là Leopold Mozart (1719-1787), một nghệ sĩ vĩ cầm và nhà soạn nhạc, và mẹ ông là Anna Maria Pertl, người đã góp thêm vào thu nhập gia đình bằng nghề làm ren. Wolfgang là con út trong số bảy người con của cặp vợ chồng. Leopold chơi trong dàn nhạc của Tổng giám mục Salzburg từ năm 1743 và đã viết một chuyên luận nổi tiếng về nghệ thuật chơi vĩ cầm; ông kiếm đủ tiền từ việc chơi nhạc của mình để sống trên Phố Getreidegasse (số 9) ở Salzburg.

Wolfgang là một thần đồng, và cậu đã học cả dương cầm và sáng tác từ lúc năm tuổi. Người chị của Wolfgang sống sót qua thời kỳ ấu thơ là Maria Anna (biệt danh ‘Nannerl’, 1751-1829), cũng là một nghệ sĩ dương cầm tài năng. Maria Anna, là một phụ nữ và là nạn nhân của những hạn chế xã hội trong thời kỳ đó, buộc phải từ bỏ mọi ước mơ được biểu diễn trước công chúng. Trong khi đó, Wolfgang tiếp tục mê hoặc công chúng với tài năng thiên bẩm của mình, khiến khán giả thán phục không chỉ bằng cách chơi đàn mà còn bằng những ‘kỹ xảo như ứng tấu, chơi trực tiếp từ một bản nhạc được ký âm chưa đọc trước mà không phạm lỗi, chơi với bàn phím được phủ bằng vải và ký âm hoàn hảo khi nghe bài nhạc mới chơi lần đầu tiên.

Mới sáu tuổi, Wolfgang đã đủ giỏi để gây ấn tượng với Tuyển hầu xứ Bavaria ở Munich và Hoàng hậu Maria Theresa ở Cung điện Schönbrunn của Viên. Năm sau, 1763, khán giả của Wolfgang càng trở nên vương giả hơn khi ông biểu diễn ở Paris cho Vua Louis XV của Pháp (r. 1715-1774) và cho Vua George III của Vương quốc Anh (r. 1760-1820) ở London. Thật ngạc nhiên, khi mới 8 tuổi, Mozart đã xuất bản bốn bản sonata cho dương cầm ở Paris. Cậu cũng bận rộn với bản giao hưởng đầu tiên của mình và ngay sau đó là vở opera đầu tiên của cậu. Tác phẩm thứ hai, có tựa đề La finta semplice, là một vở opera hài được trình diễn lần đầu tiên ở Salzburg vào tháng 5 năm 1769. Đây thực sự là một tài năng âm nhạc mới đang nổi lên, nhưng cậu phải trả giá đắt cho viec đó. Được trọng vọng vì tài năng của mình và không thể có được những kỹ năng cá nhân cần thiết mà hầu hết trẻ em đều có để chuẩn bị cho tuổi trưởng thành, Mozart không phải là một con người hoàn chỉnh. Theo lời người viết tiểu sử đầu tiên của ông, Friedrich Schlichtegroll:

Đối với con người hiếm có này, đã sớm trở thành một người đàn ông về phương diện liên quan đến nghệ thuật, thì anh vẫn luôn – như một quan sát viên vô tư phải nói về anh – trong hầu hết các vấn đề khác, là một đứa trẻ. Anh chẳng bao giờ biết tự kiềm chế. Đối với nền nếp trong nhà, quản lý hợp lý tiền bạc, tính điều độ và đưa ra lựa chọn khôn ngoan, trong những thú vui, anh không có ý thức gì. Anh ấy luôn cần một bàn tay dìu dắt. (Schonberg, 90)

Nhà sử học âm nhạc gần đây hơn C. Schonberg đưa ra bản tóm tắt gay gắt sau đây về tính cách và vóc dáng của Mozart:

Ông lớn lên là một người đàn ông phức tạp với tính cách phức tạp và sở trường gây thù chuốc oán chưa từng có. Ông không khéo léo, nói năng bốc đồng, nói toạc những gì mình nghĩ về các nhạc sĩ đồng nghiệp khác (ông hiếm khi có lời lẽ tốt đẹp nào để nói về họ), có xu hướng kiêu ngạo và xấc xược, và có rất ít bạn bè thực sự trong cộng đồng âm nhạc. Ông nổi tiếng là người phù phiếm và vô tâm, tính khí thất thường, cố chấp… Ngoài ra, ông không phải là một người có hình thể quyến rũ. Ông rất lùn; khuôn mặt ông, với nước da hơi vàng, bị rỗ do bệnh đậu mùa; đầu ông quá to so với thân hình nhỏ bé. Ông bị cận thị, đôi mắt xanh như muốn lồi ra ngoài, mái tóc dày, chiếc mũi to và đôi bàn tay mập mạp.(92)

Sự nghiệp buổi đầu

Việc học âm nhạc của Wolfgang tiếp tục ở Ý từ tháng 12 năm 1769, lúc cậu 13 tuổi. Gia đình Mozart chắc chắn không nản lòng trước tình trạng di chuyển không thoải mái ở châu Âu thế kỷ 18, và họ đã thực hiện một chuyến lưu diễn lớn ở Milan, Florence, Naples và Rome (nơi cậu nhận được bằng hiệp sĩ của Giáo hoàng). Không ngần ngại trước tuổi đời còn non nớt của cậu, triều đình công tước ở Milan đã ủy thác cho Mozart viết một vở opera mới (lần này là nghiêm túc), và cậu đã thực hiện nghĩa vụ với Mitridate, re di ponto (Mithridates, Vua xứ Pontus). Tác phẩm được trình diễn vào tháng 12 năm 1770 và được hoan nghênh nhiệt liệt.

Leopold Mozart đã bị một số nhà sử học chỉ trích vì thường xuyên đi lưu diễn cùng con trai, nhưng với nền tảng âm nhạc của riêng mình, có khả năng ông ta không hoàn toàn bị thúc đẩy bởi lợi ích tài chính. Ngoài ra, việc tiếp xúc với các nền văn hóa khác nhau khi còn trẻ đã giúp ích rất nhiều cho âm nhạc của Wolfgang vì sự kết hợp giữa tài năng thiên bẩm của cậu với sự nhạy cảm với âm nhạc của người khác “đã mang lại cho ông sự pha trộn độc đáo giữa tính cá nhân và tính phổ quát” (Arnold, 1209). Ở giai đoạn phát triển âm nhạc này, Mozart đặc biệt chịu ảnh hưởng âm nhạc của Joseph Haydn (1732-1809), người mà ông đã gặp trực tiếp, và Johann Sebastian Bach (1685-1750).

Chuyện tình?

Mozart rất muốn làm việc lâu dài tại triều đình Milan, nhưng không được, vì vậy cậu quay trở lại Salzburg, nơi cậu được bổ nhiệm làm Konzertmeister của Tổng giám mục, chỉ huy dàn nhạc triều đình, vào năm 1772, khi cậu mới 16 tuổi. Đây là vị trí được trả lương đầu tiên của Mozart. Năm 1775, vở opera La finta giardiniera (Người làm vườn giả vờ) của Mozart được công diễn lần đầu tại Munich. Mong muốn được đi lưu diễn một lần nữa, Mozart đã xin phép tổng giám mục, nhưng bị từ chối và sau đó bị sa thải. Hướng đến Paris, Mozart và mẹ của ông dừng chân tại Mannheim ở Đức trên đường đi. Tại đó, Mozart phải lòng ca sĩ giọng nữ cao Aloysia Weber, nhưng chẳng có kết quả gì khi ông chuyển đến thủ đô nước Pháp. Giờ đây, Mozart đã phải vật lộn để thu hút sự chú ý ở Paris, mặc dù ông đã được mời vào một vị trí nhỏ chơi đàn ống tại Versailles. Ông không còn là một thần đồng nữa, mà chỉ là một nhạc sĩ khác đang cố gắng tiến lên trong ngành kinh doanh âm nhạc vốn hay thay đổi. Ông cũng hơi tự mãn về tài năng của mình, điều mà ở đây và những nơi khác thường là trở ngại cho sự phát triển sự nghiệp. Mozart ít nhất đã sáng tác một số tác phẩm mới, bao gồm Bản giao hưởng Paris (số 31), nhưng khi mẹ ông đột ngột qua đời, ông trở về Áo vào năm 1779, dừng lại ở Mannheim, tại đây nữ ca sĩ Aloysia thể hiện rõ sự thờ ơ của mình đổi với nhạc sĩ.

Nhạc sĩ mô da sinh năm bao nhiêu năm 2024

Vào cuối những năm 1770, Mozart đã làm việc siêng năng trong các nhiệm vụ do triều đình giao phó, sáng tác một loạt các bản giao hưởng, serenade và concerto. Năm 1780, Munich lại là một thành phố may mắn khi ông được giao nhiệm vụ dàn dựng một vở opera mới ở đó. Mozart đã nghĩ ra Idomeneo, sự pha trộn xuất sắc giữa âm nhạc và tính cách hóa mạnh mẽ, đây được coi là vở opera vĩ đại đầu tiên của ông và được trình diễn lần đầu tiên vào tháng 1 năm 1781. Salzburg đã trở nên một ngôi nhà quá khiêm tốn đối với nhà soạn nhạc đã nhìn thấy các thủ đô lộng lẫy của châu Âu. Mozart cũng không hài lòng với một tổng giám mục mới, người không quan tâm đến việc ủy ​​thác cho các dịch vụ nhà thờ những tác phẩm phức tạp mà ông hiện đang quan tâm sáng tác.

Mozart ở Viên

Vào tháng 3 năm 1781, Mozart rời Salzburg để đến với những chân trời sự nghiệp rộng lớn hơn do Vienna đem lại. Tại thủ đô của Áo, ông kiếm sống bằng công việc giảng dạy, sáng tác nhạc thính phòng và tổ chức các buổi hòa nhạc riêng cho những người giàu có, nơi ông cho thể nghiệm các tác phẩm mới của mình, thường chỉ huy từ bàn phím. Năm 1782, ông viết vở opera Die Entführung aus dem Serail (Vụ bắt cóc từ hậu cung hay còn gọi là Seraglio) rất thành công; khúc aria Martern aller Arten được đặc biệt thích. Joseph II, Hoàng đế La Mã Thần thánh (1765-1790) nhận xét, cũng như nhiều nhận xét của người khác về các tác phẩm thường phức tạp của Mozart, rằng vở opera có “quá nhiều nốt nhạc” (Arnold, 1211).

Từ khoảng năm 1782, Mozart bắt đầu sáng tác những bản nhạc đổi mới hơn về nhiều loại nhạc cụ liên quan. Ông đã sử dụng các nhạc cụ có dây, tù và và kèn oboe nhưng đã thêm vào nhóm truyền thống này sáo, clarinet, viola, bassoon, kèn và trống ấm. Mozart lo lắng về việc mọi người sao chép nhạc của mình, và vì lý do này, ông hiếm khi cho phép nó được lưu hành dưới dạng bản in. Bản thân Mozart đã giữ các danh mục chi tiết về các tác phẩm của ông. Tuy nhiên, cuộc sống ở Vienna đối với một nhạc sĩ tự do thật khó khăn.

Mozart kết hôn với Constanze Weber (1762-1842), một ca sĩ nghiệp dư và là em gái của Aloysia, vào ngày 4 tháng 8 năm 1782. Mozart mô tả về cô ấy một cách khá khiếm nhã: “Cô ấy không xấu, nhưng không có nghĩa là đẹp…Cô ấy không hóm hỉnh nhưng có lương tri khá ổn” (Schonberg, 97). Cha của Mozart không tán thành sự lựa chọn thấp kém như vậy, nhưng ông không thể làm gì được. Cặp đôi có sáu người con, nhưng chỉ có hai người sống sót qua tuổi niên thiếu: Karl Thomas Maria (1784-1858) và Franz Xaver Wolfgang (1791-1844), người đã trở thành một nhạc sĩ và nhà soạn nhạc giống như cha mình. Cuộc hôn nhân của Wolfgang và Constanze dường như là một cuộc hôn nhân hạnh phúc, và sự ổn định mà nó mang lại, cùng với một cuộc sống mới xa thành phố Salzburg, đã mang lại cho nhà soạn nhạc một tâm trạng tốt đẹp. Như Schonberg lưu ý, “Năm 1781 đánh dấu thời kỳ trưởng thành của Mozart, và hầu như mọi tác phẩm sau đó đều là kiệt tác” (99).

Nhạc sĩ mô da sinh năm bao nhiêu năm 2024

Chiếc dương cầm của Mozart

Các vở opera vĩ đại

Mozart luôn có tham vọng vượt trội trong lĩnh vực opera. Năm 1786, ông hoàn thành vở opera Le nozze di Figaro (Cuộc hôn nhân của Figaro), dựa trên vở kịch La folle journée, ou le Marriage de Figaro của Pierre Beaumarchais. Vở kịch nổi tiếng với những màn tấn công hài hước vào đạo đức của giới quý tộc và đã bị cấm trình diễn ở Vienna. Người viết lời cho Mozart là Lorenzo Da Ponte (1749-1838), nhà thơ của triều đình Vienna. Câu chuyện được kể qua bốn màn, Figaro chuẩn bị kết hôn với Susanna, người đang được Bá tước để mắt đến, trong khi Figaro đồng thời phải tìm cách thoát khỏi lời hứa sẽ cưới một người phụ nữ khác (Marcellina) nếu anh ta không trả hết nợ. . Có những hiểu lầm ngớ ngẩn, danh tính bị tiết lộ và một chút pha mặc quần áo lẫn lộn, nhưng cuối cùng, một kết thúc có hậu cho tất cả các bên.

Vở opera của Mozart được coi là một kiệt tác, nhưng nó không được người dân Vienna đón nhận nồng nhiệt khi ra mắt vào ngày 1 tháng 5 năm 1786, phản ứng có lẽ do các đối thủ âm nhạc của Mozart, đứng đầu trong số đó là Antonio Salieri, nhà soạn nhạc triều đình. Vở opera thành công hơn nhiều ở Praha vào năm 1787, điều này đã khuyến khích Mozart tiếp tục với thể loại này. Đối với Don Giovanni và Cosi fan tutte hay Tất Cả Phụ Nữ Đều Như Thế hay còn gọi là Trường Học Dành cho Những Người Yêu Nhau (1790), Lorenzo Da Ponte một lần nữa chịu trách nhiệm về lời. Don Giovanni, kể câu chuyện huyền thoại về người đàn ông rất quyến rũ nhưng xấu số, được biết đến nhiều hơn với cái tên Don Juan, đã thành công ở Praha, công chiếu lần đầu vào ngày 29 tháng 10 năm 1787, nhưng một lần nữa không truyền được cảm hứng cho khán giả yêu âm nhạc ở Vienna, những người một lần nữa mô tả nhạc của Mozart là “quá cao cấp” và “khó nghe” (Arnold, 1212).

Cosi fan tutte kể câu chuyện, trong hai màn, của hai người lính, Ferrando và Guglielmo, những người đã cá cược với Don Alfonso rằng các người tình tương ứng của họ (Fiordiligi và Dorabella) sẽ vẫn chung thủy trong khi họ rời Napoli để phục vụ trong quân ngũ một thời gian. Cả hai sĩ quan rời đi và sau đó trở lại cải trang để tán tỉnh người yêu của người kia, tất cả những chuyện này đều có sự tham gia của cô hầu gái Despina, người trở thành luật sư và sắp xếp hôn nhân cho hai cặp đôi. Cặp đôi cải trang bỏ đi trước đám cưới kép và trở lại là chính họ để trừng phạt người yêu phản bội của mình. Cuối cùng, tất cả đều được tha thứ, và các cặp đôi đồng thanh cất tiếng hát ca ngợi Lý trí. Các buổi biểu diễn của Cosi fan tutte đã gặt hái thành công từ tháng 1 năm 1790 nhưng nhanh chóng bị cắt giảm vào tháng 2 khi hoàng đế qua đời và tất cả các nhà hát opera và phòng hòa nhạc đều đóng cửa để thể hiện sự tôn trọng.

Bất chấp thành công âm nhạc rộng lớn hơn của Mozart, ông vẫn phải vật lộn để được công nhận ở Vienna. Mặc dù ông đã được triều đình bổ nhiệm làm nhà soạn nhạc thính phòng vào năm 1787, nhưng vị trí này không phải là vị trí mà ông mong đợi. Công việc được trả lương không đủ cao để đáp ứng được nhu cầu của mình, mặc dù ông vẫn được biết đến là người thích uống sâm panh và ăn hàu, nhà soạn nhạc cần một khoản thu nhập lớn hơn hầu hết các nhạc sĩ. Tình hình tài chính của Mozart sa sút nghiêm trọng từ năm 1788, đến mức ông thường xuyên phải xin tiền bạn bè. Một lần nữa, Mozart buộc phải tìm nơi khác để được đón nhận trọng thị hơn đối với tác phẩm của mình, nhưng những chuyến đi đến Berlin và Frankfurt không cải thiện được tình hình tài chính eo hẹp của ông. Vợ ông lại cần tiền để được chữa trị tại vùng nước suối nổi tiếng ở Baden-Baden, càng làm cạn kiệt nguồn tài chính của Mozart. Ít ra thời gian này lưu lại các thành phố ở Đức cho phép ông nghiên cứu kỹ hơn các tác phẩm của Bach, đặc biệt là kỹ năng đối âm của ông ấy.

Mặc dù không được công nhận và sức khỏe cũng suy giảm, Mozart vẫn tiếp tục sáng tác các bản giao hưởng, concerto và nhạc khiêu vũ. Ông đã sáng tác vở opera La clemenza di Tito (Sự khoan hồng của Titus), được xem là để đánh dấu sự kiện vị hoàng đế mới trở thành vua của Bohemia trong lễ đăng quang của ngài ở Praha. Tác phẩm được công diễn lần đầu vào tháng 9 năm 1791. Mozart cũng đã biểu diễn lại tác phẩm Coronation Mass Lễ đăng quang năm 1779 của mình.

Một vở opera nữa ra mắt vào tháng 9 năm 1791: Die Zauberflöte hay Cây sáo thần. Vở opera hai màn, với phần lời do Emanuel Schikaneder viết, kể về câu chuyện của Tamino, người tin rằng mình đã được một tay bắt chim tên là Papageno giải cứu khỏi một con rắn trong khi thực tế con rắn đó là người hầu cận của Nữ hoàng bóng đêm. Tamino sau đó phải lòng Pamina (hay đúng hơn là một bức tranh vẽ cô ấy), con gái của Nữ hoàng. Khi Pamina bị linh mục Sarastro bắt giữ, Tamino, trang bị một cây sáo thần, cố gắng giải cứu nàng. Nàng bị một tên Moor tên là Monostatos canh gác. Tamino cuối cùng cũng thành công, người bị bắt và người giải cứu yêu nhau, và Tamino được Sarastro kết nạp vào giới giáo sĩ. Trong khi đó, Pamina phải chịu nhiều thử thách về tình yêu của mình. Tất cả kết thúc có hậu, và các vị thần Ai Cập Isis và Osiris được ca ngợi trong phần cuối của vở opera. Vở opera đề cập nhiều lần đến Hội Tam điểm bí mật, có lẽ nhiều hơn mức các đồng sự tam điểm của nhà soạn nhạc cảm thấy thoải mái khi xem trên sân khấu công cộng (Mozart đã gia nhập Hội Tam điểm năm 1784). Vở opera đã thành công, nhưng bản nhạc tổng phổ công phu – bùng nổ với “những bài hát hấp dẫn, những bản aria và song ca cuốn hút, những mảng miếng phô diễn ngoạn mục và những đoạn điệp khúc cao quý” (Sadie, 190) – lại một lần nữa phức tạp một cách đáng ngạc nhiên đối với khán giả chủ yếu chỉ tìm kiếm sự giải trí nhẹ nhàng.

Nhạc sĩ mô da sinh năm bao nhiêu năm 2024

Một đoạn nhạc của Mozart cho Requiem

Tác phẩm sau này của Mozart

Xen kẽ giữa các vở opera, Mozart sáng tác nhiều tác phẩm thuộc thể loại nhạc thính phòng. “Có lẽ thành tựu đỉnh cao của ông trong lĩnh vực âm nhạc thính phòng là cặp ngũ tấu đàn dây, K515 và 516 năm 1787, những tác phẩm mang lại cảm giác phong phú, ấm áp và sâu sắc mới” (Sadie, 188). Đồng thời, các bản concerto dành cho dương cầm của Mozart vào giữa những năm 1780, “đã tạo nên một kiểu quan hệ mới giữa nghệ sĩ độc tấu và dàn nhạc… và cách soạn nhạc phong phú dành cho các nhạc cụ hơi của dàn nhạc giúp mang lại cho mỗi bản concerto một tính cách riêng” (Sadie, 189).

Cuối cùng, vào năm 1791, sự công nhận của Vienna đã đến với ông khi Mozart được bổ nhiệm làm Kapellmeister của Nhà thờ St. Stephen của thành phố (mặc dù ông mất trước khi đảm nhận vị trí này). Tác phẩm lớn cuối cùng của Mozart, Requiem, được một nhà quý tộc Vienna đặt làm để tưởng nhớ c người vợ trẻ đã qua đời của mình. Hợp đồng được thực hiện trong bí mật vì người mua muốn mọi người nghĩ rằng chính ông ta đã sáng tác tác phẩm này dành cho tình yêu đã mất của mình. Mozart không có thời gian để hoàn thành công việc, nhiệm vụ do học trò của ông, Franz Süssmayr, đảm nhận.

Tác phẩm nổi tiếng nhất của Mozart

Các tác phẩm nổi tiếng nhất do Wolfgang Amadeus Mozart sáng tác bao gồm:

60 bản giao hưởng

24 tứ tấu đàn dây

23 bản hòa tấu piano

18 bản sonata cho piano

16 thánh nhạc

5 bản hòa tấu vĩ cầm

Mitridate, re di ponto opera – Mithridates, Vua xứ Pontus (1770)

Lễ đăng quang (1779)

Idomeneo opera (1781)

Die Entführung aus dem Serail opera – Vụ bắt cóc từ hậu cung (1782)

Le nozze di Figaro opera – Cuộc hôn nhân của Figaro (1786)

vở opera Don Giovanni (1787)

Cosi fan tutte opera – Trường học dành cho những người yêu nhau (1790)

La clemenza di Tito opera – Sự khoan hồng của Titus (1791)

Opera Die Zauberflöte – Cây sáo thần (1791)

Kinh cầu (1791)

Ngoài những công trình trên, Mozart đã viết các bản hòa tấu cho các nhạc cụ hơi như kèn clarinet và nhiều bản nhạc thính phòng và tác phẩm thiêng liêng riêng lẻ khác.

Nhạc sĩ mô da sinh năm bao nhiêu năm 2024

Chân dung Mozart

Cái chết & Di sản

Mozart qua đời vào ngày 5 tháng 12 năm 1791 tại Vienna vì sức khỏe yếu, có thể là kết hợp của bệnh thận và sốt thấp khớp, Nhà soạn nhạc không để lại đủ tiền nên chỉ được chôn cất trong một ngôi mộ đơn giản không được đánh dấu ở nghĩa trang St. Mark, vì thế địa điểm hài cốt của ông ngày nay vẫn chưa được biết.

Âm nhạc của Mozart đã ảnh hưởng đến nhiều nhà soạn nhạc sau này, từ Ludwig van Beethoven (1770-1827) đến Gioachino Rossini (1792-1768). Các vở opera của ông đã nâng thể loại opera hài lên một tầm cao mới, các bản hòa tấu dành cho dương cầm của ông đã mở đường cho các bản giao hưởng hoành tráng của dàn nhạc sau này, và âm nhạc thính phòng của ông đã tiết lộ những khả năng mới về kỹ thuật và cách thể hiện âm nhạc, kết cấu hài hòa và tính sang trọng. Vào thế kỷ 19, Mozart thường được gọi là Raphael của âm nhạc, và giống như họa sĩ thời Phục hưng đó, ông đã mang đến một màu sắc rực rỡ mới và niềm vui tuyệt đối cho lĩnh vực nghệ thuật của mình. Nói tóm lại, Mozart đã tuyên bố mình là nhạc sĩ vĩ đại nhất từ ​​​​trước đến nay; những người theo sau đã đưa ra mục tiêu ngang bằng hoặc tốt hơn ông để họ có thể phấn đấu, nhưng thực sự rất ít người đã đạt được mục tiêu khao khát.

Bản Requiem của Mozart được chơi tại lễ tưởng niệm Joseph Haydn năm 1809. Haydn đã từng nói với cha của Mozart rằng “Trước Chúa, và với tư cách là một người trung thực, tôi xin nói với ông rằng con trai ông là nhà soạn nhạc vĩ đại nhất mà tôi từng biết” (Arnold, 1209 ). Mozart tiếp tục trở nên vô cùng phổ biến, âm nhạc của ông vượt qua các ranh giới văn hóa và xuất hiện ở khắp mọi nơi, từ nhạc phim cho đến nhạc chuông điện thoại di động (có ai chưa từng nghe bản Eine Kleine Nachtmusik vui tươi phá vỡ sự im lặng ở đâu đó?). Có lẽ lời giải thích tốt nhất cho sự nổi tiếng lâu dài này được đưa ra bởi nhà soạn nhạc Antonín Dvořak (1841-1904), người chỉ đơn giản nhận xét rằng “Mozart là ánh nắng” (Thompson, 78).