Sự khám phá và thể hiện vẻ đẹp tình cảm gia đình qua bài thơ con cò Bếp lửa Nói với con

Tình cảm gia đình luôn là nguồn cảm hứng bất tận hiện hữu trong thi ca văn học Việt Nam. Những ai đã từng đọc “Bếp lửa” của Bằng Việt chắc chắn không thể quên được tình cảm yêu thương nồng thắm của người bà dành cho cháu. Hòa trong những cung bậc nỗi nhớ và suy tư của người cháu đối với bà là lòng biết ơn vô hạn của cháu về người bà giàu tình thương và đức hi sinh. kín đáo gửi gắm bài học đạo lí về lòng biết ơn cội nguồn sinh dưỡng của mỗi con người, bộc lộ niềm tự hào, sức sống mạnh mẽ bền bỉ của quê hương mình, làm rung động bao con tim độc giả..

Lời nói của Goethe : "Dù là vua chúa hay dân cày kẻ nào tìm thấy được sự an bình trong gia đình là người sung sướng nhất" thật đúng khi nói về gia đình . Tình cảm gia đình như những tia sáng diệu kì của cuộc đời. Tia sáng ấy sẽ sưởi ấm cho tâm hồn mỗi người . Gia đình! Gia đình! Tiếng gọi nghe dễ nhưng lại thiêng liêng biết bao. Gia đình là một thứ thiêng liêng không có thể so sánh được, biết hết giá trị.Gia đình là nơi vun đắp những tâm hồn. Hạnh phúc lớn nhất của mỗi con người là được sinh ra là lớn lên trong sự thương yêu, dạy bảo của gia đình. Trong trái tim mỗi con người, gia đình luôn chiếm phần lớn, là nỗi nhớ mỗi lúc đi xa, là động lực, điểm tựa để ta vươn lên đạt đến thành công trong cuộc sống. “ Bếp lửa” của Bằng Việt ta cảm nhận đc hai tiếng thiêng liêng hai tiếng gia đình.

Trong cuộc sống, con người ta luôn có lúc gặp phải những gian lao, trắc trở. Chính trong những năm tháng khó khăn, gian khổ ấy, chúng ta sẽ nhận ra được những giá trị tinh thần vô cùng thiêng liêng và đáng quý từ gia đình. Những giá trị, những kỉ niệm về tình cảm từ những người thân sẽ tạo nên sức mạnh nâng đỡ bước chân ta trong suốt cuộc đời dài. Bài thơ “Bếp lửa” của Bằng Việt đã soi sáng chân lí giản đơn ấy.

Hình ảnh “bếp lửa” đã khơi nguồn hồi tưởng của tác giả những năm tháng sống bên bà, cùng bà nhóm lên ngọn lửa nồng ấm của tuổi thơ, để người đọc biết bao thế hệ cùng rung cảm với một bản trường ca về tình bà cháu. Bằng sự kết hợp hài hòa giữa biểu cảm với tự sự, miêu tả và nghị luận, bài thơ đã xây dựng hình ảnh bếp lửa gắn liền với hình ảnh người bà và là điểm tựa khơi gợi mọi cảm xúc và suy nghĩ về tình bà cháu.Trong biết bao kỉ niệm tuổi thơ, bếp lửa in dấu đậm nhất trong suy nghĩ của Bằng Việt. Bắt đầu từ hình ảnh thân thương, ấm áp - hình ảnh bếp lửa đã lan tỏa khắp bài thơ, trở thành điểm tựa để mở ra một chân trời đầy ắp kỉ niệm tuổi thơ về tình bà cháu. Bằng Việt trở về với những năm tháng tuổi thơ thiếu thốn, nhọc nhằn, những kỉ niệm gắn liền với hình ảnh người bà:


Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửa
Tu hú kêu trên những cánh đồng xa
Khi tu hú kêu, bà còn nhớ không bà
Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế
Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế !
Mẹ cùng cha công tác bận không về
Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe
Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học.
Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc,
Tu hú ơi ! Chẳng đến ở cùng bà
Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa ?
“Tám năm ròng” là một quãng thời gian không dài đối với đời người nhưng lại là cả tuổi thơ của cháu. Hình ảnh bà và bếp lửa của tình bà cháu đã gợi ra một liên tưởng, một hồi ức khác trong tâm trí thi sĩ – tiếng chim tu hú. Tiếng chim tu hú thường gợi nên sự khắc khoải, xa cách, trông mong, một âm thanh mang sắc điệu trầm buồn. Với Bằng Việt, âm thanh ấy mau như khơi dậy trong bà những kỉ niệm ngày xưa ở Huế, để bắt đầu những câu chuyện êm đềm cho tuổi thơ của cháu. Một tiếng chim đong đầy kỉ niệm đến nỗi tác giả phải thốt lên lời cảm thán rằng “sao mà tha thiết thế”. Điệp từ “tu hú” được lặp đi lặp lại nhiều lần khiến lời thơ có âm điệu thật bồi hồi, tha thiết, khiến bản thân người đọc cũng như nghe vẳng lại đâu đây tiếng tu hú từ trong tiềm thức của tác giả. Sự điệp lại ấy còn gợi lên những nỗi nhớ trùng điệp, vấn vít vào nhau – nỗi nhớ của bà về quá khứ của mình càng khiến cho nỗi nhớ của cháu về bà thêm thăm thẳm, vời vợi. Tiếng chim tu hú đã trở thành một phần tuổi thơ, một mảnh tâm hồn cháu, là sợi chỉ đỏ nối liền quá khứ và hiện tại. Tiếng vọng đồng chiều ấy vang lên trong khổ thơ càng như giục giã, như khắc khoải một điều gì đó tha thiết lắm, để dòng kỉ niệm trải dài hơn, rộng hơn, sâu hơn trong không gian xa thẳm của nỗi nhớ thương. Và trong dòng chảy ấy, hiện lên những ký ức thân thương về tình bà cháu sâu đậm :

Mẹ cùng cha công tác bận không về
Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe
Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học.
Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc,Tám năm tuổi thơ của tác giả cũng chính là những năm đất nước chiến tranh, bố mẹ phải đi công tác xa nhà, cháu phải sống cùng bà. Bằng Việt đã khơi lại những kỉ niệm ngày ấy bằng nghệ thuật liệt kê : “Bà bảo”, “bà dạy”, “bà chăm”,… mỗi một ký ức hiện về là thêm một lần hình ảnh bà được khắc sâu trong tâm trí cháu. Trong những năm tháng ấy, bà vừa là cha, vừa là mẹ, vừa là chỗ dựa vững chắc về cả vật chất lẫn tinh thần, là cội nguồn yêu thương của cháu. Bà không chỉ chăm lo cho cháu từng chút một mà còn là người thầy đầu tiên dạy cho cháu bao điều về cuộc sống, những bài học của bà trở thành hành trang cháu mang theo trong suốt quãng đời còn lại. Được ở với bà là cả một niềm hạnh phúc vô bờ. Cặp từ “bà” và “cháu” xuất hiện trong từng phép liệt kê như gợi lên hình ảnh hai bà cháu gắn bó, quấn quít không rời, gợi lên một thế giới mà trong đó bà là tất cả. Cùng bà nhóm bếp hàng ngày, tác giả thấm thía được những gian lao, vất vả của bà khi phải một mình chăm sóc cháu, để rồi lời thơ như thủ thỉ một lời tâm tình “nghĩ thương bà khó nhọc”, và một lần nữa tiếng chim tu hú lại vọng về :

Tu hú ơi ! Chẳng đến ở cùng bà


Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa ?


Câu cảm thán “Tu hú ơi !” kết hợp với câu hỏi tu từ vang lên như một lời trách cứ nhẹ nhàng. Ở giữa nước Nga xa xôi, tiếng chim tu hú vọng lại trong hồi ức của Bằng Việt khiến nỗi nhớ trào dâng trong lòng nhà thơ cùng những câu hỏi mênh mang : khi cháu đã đi rồi thì ai sẽ “cùng bà nhóm lửa”, ai sẽ nghe bà “kể chuyện những ngày ở Huế”…Lời thơ là hỏi chim tu hú, hay là hỏi chính mình ? Là lời than thở, trách móc hay chính là mong ước khôn nguôi muốn được trở lại bên bà ? Nỗi lòng của chim tu hú “kêu chi hoài trên những cánh đồng xa” đâu có khác gì với nỗi nhớ mong bà sâu sắc của đứa cháu nơi xứ người. Tiếng chim ấy khiến lòng người như trỗi dậy bao hoài niệm, nhớ mong da diết, âm vang trong tim người đọc. Những kỉ niệm trôi theo một nhạc điệu tâm tình thủ thỉ, chậm rãi đầy nhung nhớ đã đưa ta về với tuổi thơ sống bên bà và đầy ắp tình bà cháu của tác giả.Bằng Việt từ cuộc đời những kỉ niệm, những hình ảnh đẹp nhất về người bà thân yêu đã thể hiện lòng kính yêu trân trọng và biết ơn đối với bà và cũng là đối với gia đình, quê hương, đất nước. Để ta chợt nhận ra rằng, trong sâu thẳm mỗi con người, luôn có những điều thật bình dị và thân thương. Hãy trân trọng những kí ức trong trẻo, mượt mà một thời ấy, vì đó là chốn bình yên để ta tìm về khi đã mỏi cánh bay, là hành trang quý báu để ta mang theo suốt cuộc hành trình dài và rộng của cuộc đời. Để một ngày nào đó dừng lại giữa dòng đời bất tận, ta mỉm cười vì luôn có một “bếp lửa” soi sáng trong tim…Tình cảm gia đình là một trong những thứ tình cảm thiêng liêng và quý giá của mỗi người. Mỗi nhà thơ, nhà văn bằng sự khám phá và thể hiện của mình đã đem đến cho văn học những tác phẩm giàu giá trị nhân bản, nhân văn sâu sắc, có ý nghĩa giáo dục và đánh thức tình cảm tốt đẹp của con người về tình cảm gia đình. Các nhà thơ, nhà văn ngợi ca, tôn vinh tình cảm gia đình, cho thấy được sự hi sinh và những tình cảm cao quý, dạt dào của gia đình đối với mỗi con người. Vẻ đẹp của tình cảm gia đình trong các tác phẩm như những nét vẽ góp phần hoàn thiện bức chân dung gia đình của mỗi con người. Tình cảm ấy lại được hoà quyện thống nhất, gắn bó chặt chẽ với tình yêu quê hương đất nước. Đây cũng là một mạch nguồn tình cảm được lưu chuyển qua dòng chảy truyền thống của thơ văn dân tộc nhưng luôn có những khám phá, phát hiện và cách thể hiện theo những nét riêng - một đặc trưng quan trọng trong sáng tạo nghệ thuật.

Đọc xong các tác phẩm ,“ Bếp lửa” của Bằng Việt những xúc cảm dâng trào về sức mạnh to lớn về tình bà cháu trong " Bếp lửa ".Tất cả như dừng lại khiến ta phải ngẫm về những ngày mình làm cho cha mẹ buồn rầu, làm mẹ rơi lệ.Cảm ơn chân thành đến tác giả vì họ đã cho ta nhận ra vẻ đẹp gần gũi luôn bên cạnh mà ta chưa hề nhận ra. 

Cảm nhận vẻ đẹp tình cảm gia đình qua đoạn trích trong bài thơ Con cò [Chế lan Viên] và Nói với con [Y Phương]

– Nêu vấn đề: Có người nói rằng gia đình là ngôi Thánh đường đầu tiên đem đến cho trẻ thơ bao điều hay lẽ phải, niềm tin và lý tưởng sống.

– Giới thiệu hai tác phẩm, hai tác giả: Đến với hai thi phẩm cò [Chế Lan Viên] và Nói với con [Y Phương], người đọc lại càng thấm thìa hai tiếng thiêng liêng “gia đình”.

– Giới thiệu hai đoạn trích.

Hoàn cảnh sáng tác: Bài thơ Con cò ra đời khi đất nước còn chiến tranh, trong khi Nói với con được sáng tác trong giai đoạn hòa bình, thống nhất. Qua đó, ta thấy tình cảm gia đình dù ở đâu, bất cứ lúc nào cũng có ý nghĩa thiêng liêng đối với cuộc đời con người.

Thể loại: thể thơ tự do, câu ngắn đan xen với câu dài nhằm thể hiện những cung bậc tình cảm của chủ thể trữ tình.

Nội dung của hai đoạn: Nếu đoạn trích từ bài Con cò diễn tả được tình mẫu tử thiêng liêng thì đoạn đầu của bài Nói với con thể hiện được tấm lòng đôn hậu của một người cha.

Luận điểm 1: Bằng lời thơ giản dị, giàu hình ảnh, nhà thơ Chế Lan Viên và Y Phương đã mở ra một không gian ngập tràn cảm xúc – không gian gia đình, với những đứa con được bao bọc chở che trong tình yêu thương của cha mẹ.

Con cò: Khúc hát ru hiện đại ấm áp tình mẫu tử thiêng liêng. Suốt cả bài thơ là hình ảnh cánh cò trắng, bay ra từ câu hát ru của người mẹ. Rồi cánh cò theo’ con suốt cả hành trình cuộc đời, khi con ở trong nôi, khi con đến trường, ngay cả khi con đã thành thi sĩ. Hình ảnh con cò trở thành biểu tượng của lòng mẹ, tình mẹ:

Dù ở gần con
Dù ở xa con
Lên rừng xuống bể
Cò sẽ tìm con
Cò mãi yêu con

Vẫn là lời ru nhưng âm điệu câu thơ mạnh mẽ hơn bởi cách sử dụng điệp ngữ “dù ở” “cò mãi”, “cò sẽ” để khẳng định một điều thiêng liêng: Mẹ mãi mãi bên con. Tính từ tương phản “gần”/ “xa” kết hợp với thành ngữ “lên rừng xuống bể” làm hiện lên trong tâm trí người đọc hình ảnh những cánh cò dịu dàng mà mạnh mẽ dang rộng đôi cánh để theo con.

Năm trôi qua, tháng trôi qua, những đứa con bé bỏng khôn lớn rời xa vòng tay của mẹ. Và rồi, đối với con, lòng mẹ, tình mẹ trở thành quán trọ trong hành trình dài của cuộc đời. Nhưng với mẹ thì không thế, lòng mẹ không là “quán trọ”, mẹ là mãi là điểm tựa của đời con, suốt đời “tìm con”, “yêu con”.

Nói với con: Lời tâm tình của người cha miền núi tha thiết yêu con, yêu quê hương làng bản. Với âm điệu chắc khoẻ đặc trưng của thơ miền núi, nhà thơ Y Phương đưa chúng ta về vùng đất Cao Bằng – Trùng Khánh quê ông, đến thăm ngôi nhà sàn nhỏ đang rộn rã tiếng nói tiếng cười:

Chân phải bước tới cha
Chân trái bước tới mẹ
Một bước chạm tiếng
Hai bước tới tiếng cười

Những câu thơ mộc mạc, hình ảnh vừa cụ thể vừa đối xứng “chân phải”/ “chân trái” , “tiếng nói”/ “tiếng cười” , “tới cha” / “tới mẹ”, giúp người đọc hình dung ra cảnh một em bé đang chập chững tập đi, vây bọc quanh em là tiếng cười nói hân hoan của mẹ cha. Căn nhà sàn nhỏ rung lên niềm hạnh phúc. Cha mẹ nâng niu từng bước chân đầu đời của con.

Với bốn dòng thơ này, người cha muốn khắc sâu vào tâm hồn bé bỏng của con về điều thiêng liêng nhất: Con đang lớn lên từng ngày trong tình yêu thương của cha mẹ. Cội nguồn sinh dưỡng đầu tiên của con là đây.

Câu thơ tiếp theo dài 7 tiếng:

“Người đồng mình yêu lam con ơi ”

Lời cha tha thiết ân cần xiết bao. Hai tiếng “con ơi” hạ cuối dòng thơ diễn tả trọn vẹn tình yêu cha dành cho con. Ba tiếng “người đồng mình” – Y Phương sáng tạo dùng để gọi người cùng quê, cùng sinh ra và lớn lên trên vùng đất Cao Bằng – cái nôi của cách mạng. Cha yêu quý, tự hào về đồng bào Tày quê mình thì con phải yêu vì đây cũng là cội nguồn của chúng ta. Cha tiếp tục nói về cuộc sống của người đồng mình:

“Đan lờ cài nan hoa
Vách nhà ken câu hát”

“Đan lờ cài nan hoa’” – Người đồng mình tạo dáng, tạo hoa văn trên dụng cụ lao động đơn sơ của mình. “Vách nhà ken câu hát ” – Đồng bào Tày quê mình thích hát, những điệu hát then, hát lượn vấn vít bay lên trên thang gác nhà sàn, bên bờ suối vào những đêm trăng, đêm xuân gọi mời tình tứ.

Vẫn sử dụng hình ảnh cụ thể “lờ”, “nan hoa”, “vách nhà”, “câu hát”, người cha miền núi muốn con khắc ghi trong trái tim con ngay từ thuở bé thơ rằng cuộc sống người Tày còn nhọc nhằn nhưng đồng bào mình vẫn lạc quan, vẫn giữ gìn sắc thái văn hoá dân tộc. Và mai sau, con cũng trở thành người Tày chân chính như thế. Yêu con đâu chỉ chở che, bao bọc, hai đấng sinh thành luôn mong muốn những điều tốt đẹp cho con.

Luận điểm 2: Cùng viết về đề tài tình cảm gia đình, Chế Lan Viên và Y Phương thành công với những nét riêng độc đáo.

Con cò: mang tính chất suy tưởng, triết lý, đậm chất trí tuệ. Từ hình ảnh “con cò bay lả bay la”, “con cò cổng phủ, con cò Đồng Đăng” của ca dao bay vào khúc hát ru hiện đại của mình, nhà thơ Chế Lan Viên khái quát lên thành triết lí muôn đời về tình mầu tử:

“Con dù lém vân là con của
Đi hết đời, lòng mẹ vân theo con”

Mỗi câu thơ dài tám tiếng, cảm xúc của nhà thơ như vỡ oà khi nghĩ về tình mẫu tử thiêng liêng. Cặp quan hệ từ “dù…vẫn…” diễn tả một cách trọn vẹn tình mẹ, thách thức thời gian, lòng mẹ theo con suốt cuộc đời này. Dù con là anh hùng, triết gia, hay thất bại, lỡ lầm… thì “vẫn con của mẹ” Điều đó muôn đời không thay đổi. Đoạn thơ ngắn, hình ảnh gần gũi, nhà thơ Chế Lan Viên đã thể hiện thành công cảm xúc chân thành của mình về mẹ – không chỉ mẹ của riêng ông, mà là mẹ của mọi nhà.

Nói với con: Giản dị, mộc mạc thể hiện tâm hồn chân thật, mạnh mẽ, trong sáng, cách tư duy giàu hình ảnh của con người miền núi. Ngay từ khổ đầu của bài thơ Nói với con, người đọc nhận ra sự khác lạ của giọng điệu và ngôn ngữ thơ – rất đặc trưng của thơ miền núi. Cách diễn đạt tư duy bằng hình ảnh: chân phải, chân trái, tiếng nói, tiếng cười.. .gợi lên trong người đọc cảm xúc về bức tranh gia đình hạnh phúc giữa núi rừng Cao Bằng.

Và cũng bằng hình ảnh “lờ”, “nan hoa”, “câu hát”,nhà thơ đã thổi cái hồn văn hóa dân tộc vào câu thơ đê dạy con biết yêu làng bản, quê hương. Yêu con, nâng niu từng bước chân đầu đời của con, người cha còn mong muốn con lớn lên thành người chân chính biết tự hào về cội nguồn dân tộc.

Từ cách diễn đạt của nhà thơ Chế Lan Viên và Y Phương, chúng ta nhận ra rằng những người cha, người mẹ ở bất cứ nơi nào, miền xuôi hay miền ngược, đều dành cho các con tình yêu thương thiết tha, sâu nặng nhất.

Đánh giá, mở rộng và nâng cao:

Hai đoạn thơ ghi đậm dấu ấn phong cách của mỗi nhà thơ, nhưng đều là những rung động thiết tha, mãnh liệt về gia đình. Nếu đoạn thơ trích từ bài Con cò của Chế Lan Viên mang đậm phong vị ca dao thì đoạn trích từ bài với con của Y Phương mang hơi thở của núi rừng Cao Bằng. Người đọc hôm nay nhận ra lời tâm tình của người con cảm sâu, nghĩ sâu về tình mẹ; và cái tình của người cha miền núi tha thiết yêu con, yêu quê hương làng bản.

Đề tài về tình cảm gia đình là mạch nguồn cảm xúc của văn chương nghệ thuật từ xưa đến nay, từ đông sang tây. Ca dao Việt Nam ngập tràn bóng dáng người mẹ, người cha, tạo thành dòng chảy đi vào thơ văn hiện đại với “Lời ru của mẹ” [Xuân Quỳnh], “Mẹ ốm” [Trần Đăng Khoa], “Bầm ơi” [Tố Hữu], “Những cánh buồm” [Hoàng Trung Thông], “Với con” [Thạch Quỳ]… Cũng từ đó, tình cảm gia đình thiêng liêng được bồi đắp trong trái tim mỗi người, là sức mạnh, là niềm tin trong cuộc sống. Đồng thời, tình cảm gia đình là cái nôi sinh ra những tình cảm cao đẹp khác.

Khắng định giá trị của tác phẩm: Con cò và với con là những thi phẩm đẹp có sức sống vượt thời gian. Bởi hai bài thơ là rung động thiết tha về tình cảm gia đình của chính người sáng tác. Với hai đoạn trích trên đây, các tác giả đã níu giữ bạn đọc cùng lắng đọng, cùng suy ngẫm về điều thiêng liêng – tình mẫu tử, tình phụ tử.

Video liên quan

Chủ Đề