Tại sao Chính phủ Việt Nam khuyến khích trồng cây mắc ca

Phấn đấu kim ngạch xuất khẩu sản phẩm mắc ca đạt 400 triệu USD vào năm 2030

[ĐCSVN] - Theo Đề án phát triển bền vững mắc ca giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050, phấn đấu đến năm 2030, sản lượng mắc ca qua chế biến đạt khoảng 130.000 tấn hạt. Đồng thời, giá trị kim ngạch xuất khẩu đạt khoảng 400 triệu USD, trong đó tỷ lệ sản phẩm mắc ca nguyên vỏ không vượt quá 40%.

Phó Thủ tướng Chính phủ Lê Văn Thành vừa ký ban hành Quyết định số 344/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Đề án phát triển bền vững mắc ca giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050.

Ảnh minh họa [Nguồn: B.T]

Quan điểm của Đề án nêu rõ, mắc ca là cây trồng nhập nội, mới được gây trồng, phát triển ở Việt Nam. Việc phát triển vùng trồng mắc ca cần được nghiên cứu, triển khai từng bước thận trọng, trên cơ sở khoa học, thực tiễn vững chắc và nhu cầu của thị trường, gắn với nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ môi trường sinh thái, phù hợp với các chiến lược, quy hoạch được cấp có thẩm quyền phê duyệt. Đồng thời, tạo việc làm, tăng thu nhập cho người dân, góp phần ổn định dân cư, giữ vững an ninh chính trị, an toàn xã hội.

Bên cạnh đó, phát triển mắc ca trên cơ sở phát huy lợi thế về tự nhiên, kinh tế, xã hội của từng vùng, từng địa phương; từng bước hình thành ngành hàng mắc ca theo chuỗi giá trị sản phẩm từ trồng, đến chế biến và tiêu thụ sản phẩm. Phát triển mắc ca trên cơ sở xây dựng vùng trồng tập trung, đầu tư thâm canh, áp dụng đồng bộ tiến bộ khoa học, công nghệ mới để nâng cao năng suất, chất lượng, tạo ra sản phẩm hàng hoá đa dạng, phù hợp, đáp ứng yêu cầu của thị trường, có sức cạnh tranh cao.

Theo đó, mục tiêu của Đề án đề ra, phấn đấu sản lượng mắc ca qua chế biến đạt khoảng 130.000 tấn hạt vào năm 2030, khoảng 500.000 tấn hạt vào năm 2050. Giá trị kim ngạch xuất khẩu sản phẩm mắc ca đạt khoảng 400 triệu USD vào năm 2030, khoảng 2,5 tỷ USD vào năm 2050, trong đó tỷ lệ sản phẩm mắc ca nguyên vỏ không vượt quá 40%.

Về định hướng phát triển, đến năm 2030, phấn đấu tổng diện tích mắc ca cả nước đạt từ 130.000 - 150.000 ha, tập trung tại các tỉnh vùng Tây Bắc [khoảng 75.000 - 95.000 ha, chủ yếu tại các tỉnh Điện Biên, Lai Châu], vùng Tây Nguyên [khoảng 45.000 ha, chủ yếu tại các tỉnh Lâm Đồng, Đắk Nông, Kon Tum] và một số địa phương có điều kiện khí hậu, thổ nhưỡng thích hợp với yêu cầu sinh thái của cây mắc ca [khoảng 10.000 ha]. Đến năm 2050, phấn đấu đạt khoảng 250.000 ha.

Về cơ sở chế biến, Đề án cho biết, đến năm 2030, khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư xây dựng các cơ sở sơ chế, chế biến mắc ca gắn với vùng trồng nguyên liệu tại vùng Tây Bắc và Tây Nguyên. Nâng cấp 65 cơ sở sơ chế, chế biến hiện có, xây dựng mới khoảng 300 - 400 cơ sở sơ chế, chế biến, công suất mỗi cơ sở từ 100 - 200 tấn hạt/năm. Tạo điều kiện cho doanh nghiệp đầu tư xây dựng khoảng 8 nhà máy chế biến sâu các sản phẩm mắc ca có giá trị cao, công suất mỗi cơ sở từ 10.000 - 15.000 tấn hạt tươi/năm tại những địa phương có điều kiện thuận lợi.

Nhằm đạt được các mục tiêu của Đề án, các giải pháp cần được tập trung triển khai gồm: Tiếp tục nghiên cứu chọn tạo, nhập nội, khảo nghiệm làm đa dạng bộ giống mắc ca theo hướng cho năng suất, chất lượng và hiệu quả kinh tế cao, chống chịu sâu bệnh hại, thích nghi với các tiểu vùng sinh thái.

Xây dựng hệ thống vườn cây đầu dòng, tập trung cho vùng Tây Bắc để có đủ nguồn vật liệu sản xuất giống; hoàn thiện và làm chủ công nghệ nhân giống vô tính cây mắc ca ở quy mô công nghiệp; nâng cao năng lực hệ thống sản xuất giống nhằm cung cấp đủ giống đúng tiêu chuẩn, quy chuẩn phục vụ trồng mới, ghép cải tạo theo mục tiêu Đề án.

Về tổ chức sản xuất, các địa phương căn cứ điều kiện thực tiễn, phối hợp với các đơn vị khoa học rà soát quỹ đất thuộc quy hoạch rừng sản xuất để phát triển mắc ca theo phương thức trồng thuần loài; trồng xen mắc ca trên đất trồng cây công nghiệp và đất trống thuộc quy hoạch rừng phòng hộ, phù hợp với quy hoạch tỉnh thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050 và kế hoạch sử dụng đất từng giai đoạn.

Khuyến khích các doanh nghiệp liên kết với nông dân sản xuất mắc ca thông qua cầu nối hợp tác xã và tổ hợp tác xây dựng vùng trồng mắc ca tập trung, hình thành chuỗi ngành hàng mắc ca từ trồng đến chế biến, tiêu thụ sản phẩm.

Về thị trường tiêu thụ, đối với thị trường trong nước, các địa phương cần hỗ trợ xây dựng thương hiệu sản phẩm mắc ca, gắn với chỉ dẫn địa lý; thực hiện các hoạt động xúc tiến thương mại, tuyên truyền, giới thiệu để người tiêu dùng trong nước có đủ thông tin về sản phẩm mắc ca.

Đối với thị trường xuất khẩu, các địa phương tiếp tục phối hợp chặt chẽ với các Bộ, Hiệp hội Mắc ca Việt Nam và doanh nghiệp thực hiện các biện pháp mở rộng thị trường xuất khẩu, tháo gỡ rào cản thương mại. Tập trung thực hiện các biện pháp đẩy mạnh xuất khẩu chính ngạch sản phẩm nhân và hạt mắc ca nguyên vỏ, các sản phẩm mắc ca chế biến sâu vào thị trường các nước,…

Triển khai thực hiện, Thủ tướng Chính phủ giao Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn là cơ quan thường trực Đề án, chịu trách nhiệm chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan hướng dẫn các địa phương tổ chức thực hiện Đề án có hiệu quả. Chủ trì, phối hợp đề xuất, xây dựng cơ chế, chính sách thực hiện Đề án trình cấp có thẩm quyền ban hành.

Cùng với đó, quản lý chặt chẽ giống cây mắc ca theo đúng quy định của pháp luật; chỉ đạo, hướng dẫn các địa phương trồng cây mắc ca bằng các giống đã được Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn công nhận; tiếp tục nghiên cứu, chọn, tạo các giống mắc ca mới có năng suất cao, chất lượng tốt, phù hợp với các tiểu vùng sinh thái của Việt Nam; bổ sung, hoàn thiện các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật và hướng dẫn kỹ thuật về cây mắc ca theo hướng thâm canh; tăng cường tổ chức đào tạo, tập huấn và chuyển giao khoa học, kỹ thuật về phát triển cây mắc ca.

Bộ Công Thương chủ trì, phối hợp với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn hỗ trợ các địa phương, hiệp hội ngành hàng, doanh nghiệp, hợp tác xã xây dựng và phát triển thương hiệu sản phẩm mắc ca Việt Nam; chỉ đạo, hướng dẫn các địa phương rà soát, xây dựng hệ thống cơ sở chế biến sâu, công nghệ hiện đại với quy mô phù hợp, gắn với vùng nguyên liệu, tạo ra sản phẩm đa dạng, chất lượng cao phục vụ tiêu dùng trong nước và xuất khẩu.

Ngoài ra, đối với các địa phương có điều kiện khí hậu, thổ nhưỡng phù hợp với yêu cầu sinh thái của cây mắc ca cần tiến hành rà soát, đánh giá, xác định quy mô và quỹ đất phù hợp để trồng mắc ca, tích hợp vùng trồng mắc ca vào quy hoạch tỉnh. Đồng thời, nghiên cứu, xây dựng cơ chế, chính sách của địa phương theo hướng khuyến khích liên kết sản xuất, tích tụ đất đai để hình thành vùng trồng thâm canh cây mắc ca tập trung; tạo điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp đầu tư, phát triển mắc ca theo chuỗi giá trị, chế biến sâu, gắn với thị trường tiêu thụ.

Mặt khác, cân đối, huy động các nguồn vốn để thực hiện Đề án theo quy định của pháp luật. Quản lý chặt chẽ công tác sản xuất, buôn bán giống cây mắc ca trên địa bàn theo thẩm quyền và quy định của pháp luật; xử lý nghiêm đối với những tổ chức, cá nhân sản xuất, cung ứng giống mắc ca vi phạm pháp luật,…/.

BT

Chinhphu.vn] – Phát triển với chiến lược bài bản từ đầu, hỗ trợ nông dân và doanh nghiệp để kiểm soát chất lượng, hướng tới giá trị gia tăng cao, đây được coi là những định hướng lớn để ngành hàng mắc ca tại Việt Nam phát triển, tránh ‘vết xe đổ’ mà nhiều mặt hàng khác thường vấp phải.

Ông Huỳnh Ngọc Huy, Tổng Thư ký Hiệp hội Mắc ca, trao đổi với Báo điện tử Chính phủ trước thềm hội nghị đánh giá kết quả 5 năm về phát triển cây mắc ca tại Việt Nam do Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc chủ trì sắp diễn ra tại Đắk Lắk.


Ông Huỳnh Ngọc Huy [người ngồi, bên trái] thảo luận với một chủ vườn mắc ca xen cà phê ở Gia Lai. Ảnh: Nông thôn ngày nay

Tại sao hội nghị được tổ chức vào thời điểm này, trong khi cây mắc ca đã vào Việt Nam được hàng chục năm rồi, thưa ông?

Ông Huỳnh Ngọc Huy: Cây mắc ca đã vào Việt Nam được 20 năm, nhưng 5 năm qua là giai đoạn chúng tôi cùng các cơ quan chức năng nghiên cứu bài bản và đã chuẩn bị được những nền tảng rất cơ bản để đưa ngành hàng mắc ca phát triển với kỳ vọng “cất cánh” trong giai đoạn tới.

Vì nhiều lý do khác nhau mà cây mắc ca trong thời gian qua chưa phát triển mạnh tại Việt Nam, nhưng qua các khảo sát kỹ lưỡng, chúng tôi khẳng định mắc ca là ngành hàng rất có tiềm năng và nhiều lợi thế của Việt Nam.

Hiệp hội Mắc ca Việt Nam là đại diện cho một trong 5 nước sáng lập, Chủ tịch Hiệp hội Mắc ca Việt Nam cũng đồng thời là đồng Chủ tịch của Ủy ban Nghiên cứu phát triển Mắc ca thế giới [IMSC]; đồng thời đang tiến hành thành lập Hiệp hội Mắc ca thế giới nhằm thúc đẩy việc phát triển vùng trồng cũng như thúc đẩy việc chế biến và tiêu thụ sản phẩm từ hạt mắc ca. Hiệp hội Mắc ca Việt Nam cũng là thành viên của Ủy ban Hạt quả khô thế giới [INC] và liên kết với các hiệp hội mắc ca khác như của Australia, Nam Phi… nhằm mục đích phát triển việc nghiên cứu, ứng dụng kỹ thuật mới vào việc trồng mắc ca cũng như tạo ra liên kết, phát triển thị trường hỗ trợ cho việc xuất khẩu mắc ca ra thị trường thế giới của các doanh nghiệp Việt Nam.Vấn đề quan trọng nhất là thị trường, thì nhu cầu về nhân hạt mắc ca trên thế giới đang gia tăng hằng năm và giá hạt mắc ca trên thị trường thế giới trong 10 năm qua liên tục tăng. Tại Autralia, mỗi kg hạt tươi có giá khoảng 6 đô la Australia, tương đương khoảng 100.000 đồng/kg. Trong khi đó, theo tính toán của Hiệp hội, chi phí sản xuất ra 1 kg hạt mắc ca là dưới 25.000 đồng/kg.

Không chỉ mang hiệu quả cao về kinh tế - xã hội, giúp người dân xóa đói giảm nghèo và làm giàu, mắc ca còn là cây lâm nghiệp có thể giải quyết nhiều vấn đề môi trường, phủ xanh đất trống đồi núi trọc; giúp củng cố an ninh – quốc phòng vùng đồi núi biên giới.

Ông có thể cho biết cụ thể hơn về những nền tảng của ngành hàng mắc ca đã được chuẩn bị cho tới thời điểm này?

Ông Huỳnh Ngọc Huy: Về mặt pháp lý, tháng 11/2018, Bộ NN&PTNT ban hành Thông tư công nhận mắc ca là 1 trong 20 loài cây trồng lâm nghiệp chính của Việt Nam. Cho tới nay, công suất sản xuất giống mắc ca đã đạt khoảng 2,5 triệu cây giống chuẩn và có thể tăng lên.

Hiệp hội và các cơ quan chức năng cũng đã tiến hành hơn 60 cuộc hội nghị tập huấn cho 23 tỉnh với khoảng 9.000 lượt hộ nông dân và doanh nghiệp tham gia. Lãnh đạo nhiều địa phương đã nhìn thấy hiệu quả của cây mắc ca và người dân cũng không còn nghi ngại mà có niềm tin vào loại cây này.

Về nguồn vốn, Ngân hàng Bưu điện Liên Việt đã ban hành gói tín dụng cho vay đối với các đối tượng sản xuất kinh doanh mắc ca, đến năm 2020 Ngân hàng đã ký hợp đồng cho vay đối với hơn 50 doanh nghiệp, hộ gia đình kinh doanh với tổng giá trị dư nợ 420 tỷ đồng. Nhiều mô hình doanh nghiệp, người dân đã đạt được kết quả rất tốt nhờ trồng mắc ca, từ đó khẳng định phát triển mắc ca không chỉ giúp xóa đói, giảm nghèo, mà còn giúp các hộ nông dân trở nên giàu có.

Chúng ta đã chuẩn bị trong nhiều năm qua và đây là thời điểm để cất cánh.

Tại sao cây mắc ca “hay” như vậy mà các nước chưa phát triển mạnh? Và ông nghĩ sao về những “bài học xương máu” khi nhiều loại nông sản của Việt Nam phát triển ồ ạt dẫn tới nhiều hệ lụy, có những loại nông sản có sản lượng hàng đầu thế giới nhưng lại chưa có được giá trị gia tăng cao như kỳ vọng?

Ông Huỳnh Ngọc Huy: Đúng là có những “vết xe đổ” với nhiều mặt hàng nông sản, nhưng theo chúng tôi, làm được hay không, thành công hay thất bại là do cách làm.

'Chúng tôi coi đây là một sứ mệnh để "chiến đấu" đến cùng, không chỉ vì hiệu quả kinh tế mà còn vì trách nhiệm xã hội'

Ông Huỳnh Ngọc Huy, Tổng Thư ký Hiệp hội Mắc ca Việt Nam, Chủ tịch HĐQT Ngân hàng Bưu điện Liên Việt Ngoài điều kiện tự nhiên do thiên nhiên ưu đãi, một điều quan trọng là việc phát triển cây mắc ca phù hợp với hạ tầng logistic của Việt Nam hiện nay, với đặc điểm là hạt quả khô thu hoạch nhẹ nhàng, dễ chế biến và sơ chế, bảo quản, dễ vận chuyển… Chúng tôi đã hỏi và người Úc cho biết, họ kiểm soát chặt chẽ việc tăng sản lượng mắc ca của họ mỗi năm chứ không tăng nhiều, bởi vì với các điều kiện của quốc gia này, nhất là về logistics, họ có thể trồng các loại cây khác có hiệu quả hơn.

Như đã nói, vấn đề quan trọng nhất vẫn là thị trường. Với người nông dân Việt Nam thì trồng trọt không phải là vấn đề, nhưng bài toán là làm sao phải bán được sản phẩm với giá cao.

Quy mô ngành hàng mắc ca ở Việt Nam chưa lớn, đây chính là cơ hội để chúng ta đi theo cách làm bài bản ngay từ đầu, tránh tình trạng phát triển ồ ạt nhưng manh mún, tự phát như một số nông sản khác. Định hướng là mắc ca hữu cơ, bán với giá cao, hướng tới xuất khẩu, trước hết là các thị trường khó tính như châu Âu, Mỹ, Trung Đông… Muốn vậy, phải có chiến lược về vùng nguyên liệu, sản xuất, chế biến, phát triển thị trường, dòng sản phẩm, điều tiết giá cả… để xây dựng thương hiệu mắc ca Việt Nam.

Đúng là hiếm có một loại cây trồng nào như mắc ca, có hẳn một ngân hàng đi kèm cho vay vốn với hàng loạt chính sách ưu đãi, điều kiện khá thuận lợi để người dân có vốn đầu tư. Ngân hàng Bưu điện Liên Việt cho vay vốn trong vòng 15 năm và chỉ bắt đầu thu hồi vốn khi cây mắc ca được 5 tuổi, tức là tới khi có thu hoạch. Hiệp hội cũng dự kiến sẽ phối hợp với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Công Thương soạn thảo một chiến lược về thị trường.

Hiệp hội Mắc ca cũng xây dựng chính sách bao tiêu sản phẩm để hỗ trợ việc bình ổn giá đối với thị trường mắc ca trong nước, đảm bảo giá mắc ca trong nước đạt ít nhất 85% giá mắc ca tại thị trường Australia trong 10 năm tới. Vừa qua, trong bối cảnh dịch COVID-19, đã xuất hiện tình trạng ép giá người trồng mắc ca, chúng tôi cho các doanh nghiệp vay 7 tỷ đồng để thu mua bình ổn giá thì tình trạng đó chấm dứt ngay. Giá rớt không phải do thị trường rớt, mà là do tranh mua tranh bán, có người ép giá.

Theo ông Nguyễn Đức Kiên, Viện trưởng Viện Nghiên cứu giống và Công nghệ sinh học lâm nghiệp, Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam, kết quả khảo sát của Viện Điều tra, quy hoạch rừng năm 2015 cho thấy Việt Nam là nước có nhiều tiềm năng để gây trồng mắc ca với hơn 1 triệu ha đất có khả năng gây trồng [xét trên cả 2 yếu tố khí hậu và đất đai], trong đó có khoảng 358.000 ha là rất thích hợp, tập trung chủ yếu ở vùng Tây Nguyên [338.000 ha].

“Nghiên cứu cây mắc ca tai Việt Nam trong thời gian vừa qua đã đạt được một số kết quả rất đáng khích lệ, góp phần không nhỏ nâng cao năng suất và chât lượng cho phát triển và mở rộng diện tích trồng Mắc ca ở nước ta trong thời gian qua. Tây Bắc và Tây Nguyên là hai vùng khí hậu đặc biệt thuận lợi cho cây mắc ca sinh trưởng và cho năng suất cao”, ông Kiên cho biết.

Về giống, đến nay đã có 13 giống mắc ca được Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn công nhận để phát triển vào sản xuất. Trong đó, có 3 giống quốc gia, 10 giống tiến bộ kỹ thuật.

Các nhà khoa học cũng đã nghiên cứu thành công kỹ thuật ghép, biện pháp thâm canh và gây trồng cho mắc ca tại Việt Nam. Về kỹ thuật trồng, đã nghiên cứu tương đối toàn diện về kỹ thuật gây trồng, phân bón, chế độ tưới nước, phương pháp cắt tỉa cành, tạo tán trong vườn quả và đã ban hành được quy trình kỹ thuật trồng và chăm sóc vườn quả để áp dụng vào trong thực tiễn. Quan điểm của chúng tôi là các doanh nghiệp chỉ nên chiếm khoảng 30% vùng nguyên liệu, nhưng là đầu tàu để người dân canh tác theo tiêu chuẩn, còn doanh nghiệp giữ khâu chế biến và tiêu thụ. Nếu để người nông dân bơ vơ thì rất khó làm lâu dài, bài bản.

Quản lý theo chuỗi, thúc đẩy cạnh tranh để phát triển

Ông cũng là Chủ tịch HĐQT Ngân hàng Bưu điện Liên Việt, liệu có rủi ro nào cho Liên Việt khi “đi kèm” cùng loại cây trồng này?

Ông Huỳnh Ngọc Huy: Nếu làm kiểu “đánh trống bỏ dùi” thì đúng là ném tiền qua cửa sổ, nhưng chúng tôi coi đây là một sứ mệnh để "chiến đấu" đến cùng, không chỉ vì hiệu quả kinh tế mà còn vì trách nhiệm xã hội. Trước mắt, chúng tôi chưa đặt cao mục tiêu lợi nhuận, tất nhiên vẫn phải bảo toàn được vốn. Mục đích là tạo một công cụ tài chính cho người dân và doanh nghiệp phát triển cây mắc ca.

Như đã nói, chúng tôi sẽ quản lý theo chuỗi, theo chuẩn, từ giống cho tới chăm sóc, chế biến, tiêu thụ, công nghiệp phụ trợ…, đầu ra của khâu này sẽ là đầu vào của khâu kia. Quan điểm của tôi là nuôi dưỡng nguồn thu, khi người nông dân và doanh nghiệp mạnh lên thì họ sẽ là khách hàng trung thành, là nguồn thu của mình.

Chúng tôi dự kiến mục tiêu cụ thể cho 10 năm tới là doanh thu đạt 1 tỷ USD, nhưng điều này phụ thuộc vào sự vào cuộc mạnh mẽ, đồng bộ của các bên liên quan, còn nếu cứ “bình bình” thì có lẽ sẽ chỉ ở mức khoảng 500 đến 600 triệu USD.

Khi thấy cơ hội, nhiều người dân và doanh nghiệp sẽ tự phát tham gia vào ngành hàng này mà không theo các chuẩn của Hiệp hội?

Sẽ có những phân khúc thị trường khác nhau, phân khúc của các doanh nghiệp làm ăn bài bản và phân khúc khác. Chúng ta không cấm được việc nông dân và các doanh nghiệp tham gia thị trường. Phải chấp nhận cạnh tranh và thực ra nếu như thế cũng là điều tốt. Quan điểm của chúng tôi là bất kỳ ai muốn trồng mắc ca cũng hỗ trợ, không phân biệt, tất nhiên đã nhận hỗ trợ thì phải theo chuẩn và tham gia là thành viên của Hiệp hội Mắc ca.

Bên cạnh những thuận lợi, Hiệp hội Mắc ca nhìn nhận như thế nào về những khó khăn trong việc phát triển ngành hàng này? Ông có kỳ vọng gì ở Hội nghị sắp tới?

Ngoài vấn đề lớn nhất vẫn là thị trường, thì một khó khăn là về đất đai, rất cần các cơ chế và chính sách để giải quyết.

Thứ hai là vấn đề vốn, với kỳ vọng xây dựng mô hình ngân hàng đi cùng một loại cây chủ lực, Ngân hàng Bưu điện Liên Việt sẽ cung cấp vốn để các doanh nghiệp xây dựng các nhà máy chế biến, cung cấp vốn lưu động để thu mua hạt mắc ca nhằm mục đích bình ổn giá, tiêu thụ hết lượng mắc ca cho nông dân và doanh nghiệp sản xuất ra. Tuy nhiên, hiện quy mô thị trường còn nhỏ thì một ngân hàng như Bưu điện Liên Việt có thể bình ổn được, nhưng sau 5 đến 10 năm nữa, khi quy mô thị trường lớn hơn, sẽ cần có sự vào cuộc đồng bộ của cả hệ thống ngân hàng.

Vừa qua, Chính phủ và Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã hỗ trợ ngành hàng mắc ca rất nhiều. Chúng tôi kỳ vọng sau Hội nghị này, ngành sẽ bứt phá, tăng tốc phát triển khi đã chuẩn bị khá đầy đủ, đưa cây mắc ca thành một cây chiến lược giúp vừa xóa đói giảm nghèo vừa làm giàu. Chúng tôi kỳ vọng Thủ tướng Chính phủ sẽ chỉ đạo những quyết sách quyết liệt, đồng bộ hơn về đất đai, vốn… và cũng mong muốn lãnh đạo các bộ ngành, các địa phương sẽ nhìn nhận vấn đề rõ hơn để đồng hành với người dân và doanh nghiệp trong phát triển cây mắc ca.

Những lợi ích gì người dân được hưởng khi tham gia Hiệp hội để trồng mắc ca?

Ông Huỳnh Ngọc Huy: Với những khu vực ở vùng Tây Bắc mà Liên Việt Group đầu tư trồng cây mắc ca, sau 3 năm, bản làng ở đó thay đổi rất nhanh, người dân đi làm cho Công ty và có thu nhập khoảng sáu đến bảy triệu đồng/tháng. Những người làm khoán ở vườn ươm cây giống có thể thu nhập hơn 10 triệu đồng/tháng. Sau khi trồng cây được 6 tháng sẽ chia khoán cho dân, mỗi người phụ trách, theo dõi từ 1.500-2.000 cây, ngoài mức lương chính, khi thu hoạch có thể được công ty chia lợi nhuận đến 6% doanh thu. Ngoài ra, người dân còn có thể học hỏi kỹ thuật trồng, tích lũy tài chính để tự trồng cây mắc ca trên những vùng đất của mình. Khi có thu hoạch, Công ty sẽ thu mua và chế biến, như vậy sẽ tạo ra vùng nguyên liệu rộng lớn để công ty có thể xây dựng nhà máy chế biến.

Theo Hiệp hội Mắc ca Việt Nam, nhu cầu về nhân hạt mắc ca trên thế giới đang gia tăng hằng năm và giá hạt mắc ca trên thị trường thế giới trong 10 năm qua liên tục tăng. Tuy vậy, sản lượng mắc ca mới chỉ chiếm 1% tổng sản lượng tiêu thụ các loại hạt trên thế giới, điều này cho thấy tiềm năng mở rộng thị trường cho hạt mắc ca còn rất lớn.

Hiện nay các tổ chức như Ủy ban nghiên cứu phát triển mắc ca thế giới [IMSC], Hiệp hội Mắc ca Autralia, …đã và đang thực hiện các chiến lược quảng bá để thúc đẩy thị trường tiêu thụ mắc ca trên toàn thế giới, mục tiêu đến năm 2025 sản lượng nhân mắc ca sẽ chiếm 5% thị phần các loại hạt trên thế giới [khoảng 220.000 tấn].

Hiệp hội Mắc ca Việt Nam cho biết, theo tổng hợp từ các địa phương, hiện cả nước có 23 tỉnh trồng cây mắc ca với hơn 10.000 hộ trồng, với tổng diện tích 16.553,8 ha. Năng suất bình quân đạt 3 tấn hạt tươi/ha; sản lượng ước đạt đạt khoảng 6.570 tấn hạt tươi/năm. Giá bán hạt mắc ca tại vườn khoảng từ 70.000 - 90.000 đồng/kg hạt tươi.

Năm 2016, Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn đã thông qua quy hoạch phát triển mắc ca ở Việt Nam đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030, theo đó diện tích gây trồng mắc ca đến năm 2020 là khoảng 10.000 ha và đến năm 2030 là khoảng 35.000 ha, trong đó chủ yếu là trồng theo hình thức xen canh với các cây công nghiệp khác như chè, cà phê, tiêu.

Theo đánh giá của các chuyên gia, Việt Nam có tiềm năng phát triển ít nhất 200.000 ha và đạt sản lượng khoảng 600.000 tấn hạt mắc ca nguyên vỏ.

Nguồn: //baochinhphu.vn/Thi-truong/Mo-hinh-hop-tac-mau-muc-giup-nong-dan/408541.vgp

Video liên quan

Chủ Đề