Tại sao nói gia đình là trường hợp trong công tác xã hội

Tìm hiểu về chức năng cơ bản của gia đình

  • 1. Quy định về chức năng của gia đình
  • 2. Khái niệm về gia đình ?
  • 3. Các chức năng xã hội cơ bản của gia đình
  • 3.1 Chức năng sinh đẻ [sinh sản]
  • 3.2 Chức năng giáo dục
  • 3.3 Chức năng kinh tế
  • 4. Dịch vụ tư vấn công ty Luật Minh Khuê

1. Quy định về chức năng của gia đình

Gia đình là tế bào của xã hội, là nơi nuôi dưỡng mỗi con người, có ý nghĩa quan trọng trong việc hình thành và phát triển nhân cách của mỗi con người. Theo Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam thì gia đình có ba chức năng cơ bản: chức năng sinh đẻ, chức năng giáo dục, chức năng kinh tế. Chức năng sinh đẻ nhằm tái sản xuất ra con người, nhằm duy trì và phát triển nòi giống. Nhờ có chức năng sinh để của gia đình mà xã hội không thể bị diệt vong. Chức năng giáo dục nhằm trang bị cho con người những tri thức cần thiết để phục vụ cuộc sống, phục vụ cho sự phát triển của đất nước. Chức năng kinh tế của gia đình nhằm tạo ra những gia đình ấm no. Kinh tế gia đình phát triển thì nền kinh tế quốc gia mới hưng thịnh. Trong các chức năng trên, chức năng giáo dục đóng vai trò quan trọng. Ngoài ra, gia đình Việt Nam còn có chức năng quan tâm, chăm sóc, bảo vệ người cao tuổi.

2. Khái niệm về gia đình ?

Có nhiều ngành khoa học nghiên cứu về gia đình như luật học, triết học, xã hội học... Do phạm vi nghiên cứu của mỗi ngành khoa học khác nhau nên khái niệm gia đình cũng khác nhau.

Theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2014, gia đình là sự liên kết của nhiều người dựa trên cơ sở hôn nhân, quan hệ huyết thống hoặc quan hệ nuôi dưỡng, những người này có các quyền và nghĩa vụ với nhau, cùng nhau xây dựng gia đình, nuôi dạy thế hệ trẻ và chăm sóc người cao tuổi dưới sự giúp đỡ của Nhà nước và xã hội.

Gia đình được hình thành trên một trong ba cơ sở: Hôn nhân, quan hệ huyết thống, quan hệ nuôi dưỡng.

3. Các chức năng xã hội cơ bản của gia đình

Với tư cách là tế bào của xã hội, gia đình có các chức năng xã hội cơ bản sau:

3.1 Chức năng sinh đẻ [sinh sản]

Gia đình là một hình thức tổ chức đời sống chung của xã hội loài người mà trong đó diễn ra quá trình tái sản xuất sinh học nhằm duy trì và phát triển nòi giống. Các quốc gia đều quan tâm đến việc điều tiết chức năng sinh đẻ của gia đình. Việc khuyến khích hay hạn chế chức năng sinh đẻ của gia đình phụ thuộc vào yếu tố dân số, vào nguồn nhân lực và các điều kiện kinh tế-xã hội khác. Ở Việt Nam, để hoạch định chính sách hợp lý cho phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, Nhà nước đã có chính sách kế hoạch hóa gĩa đình: “Mỗi gia đình chỉ nên có từ một đến hai con”.

3.2 Chức năng giáo dục

Gia đình thực hiện chức năng giáo dục đối với các thế hệ kế tiếp bắt đầu từ khi mỗi thành viên được sinh ra cho đến khi trưởng thành và thậm chí cho đến suốt đời. Giáo dục trong gia đình có vai trò quan trọng trong việc hình thành và phát triển nhân cách cá nhân, cần kết họp giữa giáo dục gia đình, giáo dục nhà trường và giáo dục ngoài cộng đồng trong sự nghiệp bảo vệ, chăm sóc và giáo dục thế hệ trẻ.

Các yếu tố tác động tới thực hiện chức năng giáo dục của gia đình

Gia đình là một trong những thiết chế xã hội quan trọng. Sự thay đổi của gia đình ở các thời kỳ khác nhau chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố như: kinh tế, chính trị, văn hóa, pháp luật…

Sự phát triển của nền kinh tế trong mỗi giai đoạn lịch sử luôn có những tác động tới các yếu tố xã hội khác. Đối với việc thực hiện chức năng giáo dục của gia đình, có thể thấy sự khác biệt rõ rệt giữa giai đoạn hiện nay và giai đoạn phong kiến khi trình độ kinh tế-xã hội có sự khác biệt đáng kể. Nền kinh tế thị trường đã tạo cơ hội cho mỗi cá nhân, mỗi gia đình có điều kiện tích lũy, làm giàu và tự do đầu tư vào các hoạt động theo nhu cầu. Nhờ đó chức năng giáo dục của gia đình được cải thiện đáng kể. Trong gia đình con trai và con gái đều được tới trường học tập và được chuẩn bị cơ sở vật chất cần thiết cho việc thực hiện giáo dục tại gia đình.

Sự phát triển của khoa học, công nghệ tạo điều kiện để con người có cơ hội tiếp xúc với các ứng dụng mới. Sự phổ biển internet, điện thoại di động… đã có những tác động không nhỏ tới việc giáo dục nói chung và giáo dục tại gia đình nói riêng. Tuy nhiên, việc lạm dụng các ứng dụng công nghệ ảnh hưởng tới sức khỏe, tâm lý của cá nhân. Điều này gây những khó khăn không nhỏ cho việc thực hiện chức năng giáo dục của gia đình bởi thời gian các thành viên bên nhau ngày càng thu hẹp, sự gắn bó giữa các cá nhân bị suy giảm đáng kể.

Về mặt chính trị, sự ổn định của môi trường chính trị là một yếu tố góp phần phát triển mọi mặt của xã hội. Khi môi trường sống có trật tự, ổn định thì việc thực hiện các chức năng của gia đình, trong đó có chức năng giáo dục sẽ được đầu tư hơn về mặt thời gian, công sức, qua đó sẽ thu được những hiệu quả như mong đợi. Ngược lại, khi tình hình chính trị bất ổn, môi trường sinh hoạt không ổn định thì tâm lý, thời gian đều bị chi phối và việc tập trung cho bất cứ một hoạt động cụ thể nào là điều không dễ dàng.

Về ảnh hưởng của yếu tố văn hóa, sự tác động của phong tục, tập quán có những ảnh hưởng nhất định đối với đời sống của mỗi cá nhân trong xã hội cũng như của mỗi thành viên trong gia đình. Trong thời kỳ phong kiến, do ảnh hưởng sâu đậm của tư tưởng Nho giáo nên trong gia đình, sự giáo dục thường được thực hiện bởi người đàn ông – người giữ vai trò gia trưởng. Điều này đã hạn chế sự hiểu biết của mỗi cá nhân đối với các vấn đề xã hội bên ngoài gia đình. Ngày nay, với việc tăng cường quyền bình đẳng giới, trong gia đình và ngoài xã hội người phụ nữ được tôn trọng và được trao quyền nhiều hơn, cả trong giáo dục con cái. Nội dung giáo dục đối với các con không chỉ dừng ở các quy tắc, chuẩn mực trong quan hệ gia đình mà còn bao gồm cả cách ứng xử ngoài xã hội, các kiến thức chung về xã hội, khoa học…

Việc pháp luật ghi nhận trách nhiệm giáo dục con cái là của cha mẹ và quyền lợi của trẻ em trong gia đình là cơ sở pháp lý đảm bảo việc thực hiện chức năng giáo dục của gia đình. Các quy định trong Hiến pháp, Luật Hôn nhân và gia đình, Luật Bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em, Luật Giáo dục…cho thấy mối quan hệ giữa gia đình và pháp luật về việc giáo dục mỗi cá nhân – công dân. Nói cách khác, việc thực hiện các quy định của pháp luật về giáo dục trong gia đình cũng chính là một trong các cách nhằm thực hiện chức năng giáo dục của gia đình.

Sự ảnh hưởng của các yếu tố trên không diễn ra một cách riêng lẻ và một chiều mà có sự tác động đồng bộ, qua lại giữa các yếu tố. Khi một trong các yếu tố có sự thay đổi sẽ kéo theo sự thay đổi của một hoặc một số yếu tố khác. Như khi nền kinh tế xã hội có những thay đổi sẽ kéo theo những biến đổi trong đời sống chính trị, trong lối sống, trong phong tục…khi đó, yếu tố pháp luật cũng có những thay đổi và tách động tới thói quen, đời sống của mỗi công dân. Sự thay đổi của pháp luật có thể theo chiều hướng tích cực hoặc ngược lại, trong phạm vi giáo dục tại gia đình, điều đó có thể dẫn tới việc mở rộng hoặc thu hẹp các quyền và nghĩa vụ của cha mẹ, con cái trong việc thực hiện chức năng giáo dục của gia đình.

3.3 Chức năng kinh tế

Mỗi gia đình phải tự tổ chức đời sống vật chất của các thành viên trong gia đình, thỏa mãn những nhu cầu vật chất và tinh thần của các thành viên đó. Trong điều kiện phúc lợi xã hội của quốc gia còn hạn chế thì việc thực hiện chức năng kinh tế của gia đình rất có ý nghĩa trong việc đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển của mỗi cá nhân.

4. Dịch vụ tư vấn công ty Luật Minh Khuê

Ngoài những dịch vụ pháp lý theo yêu cầu của khách hàng như đại diện tiến hành thủ tục ly hôn [Thủ tục ly hôn thuận tình hoặc Thủ tục ly hôn đơn phương], chúng tôi luôn sẵn sàng hỗ trợ và giải đáp mọi vướng mắc pháp lý mà người dân gặp phải trong lĩnh vực hôn nhân gia đình.

Mọi vướng mắc bạn vui lòng trao đổi trực tiếp với Luật sư tư vấn pháp luật hôn nhân gia đình trực tuyến qua tổng đài 24/7 gọi số: 1900.6162 hoặc gửi qua email: Tư vấn pháp luật qua Email để nhận được sự tư vấn, hỗ trợ từ Luật Minh Khuê. Trân trọng cảm ơn!

1 CÔNG TÁC XÃ HỘI VỚI CÁC CÁ NHÂN VÀ GIA ĐÌNH Biên soạn: Tôn-Nữ Ái-Phương MSc. Education & Applied Social Studies CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU TỔNG QUÁT VỀ CÔNG TÁC XÃ HỘI VỚI CÁC CÁ NHÂN VÀ GIA ĐÌNH 1. Giới thiệu chung: Trong cuộc sống, con người chúng ta ai cũng đã từng hoặc sẽ trải qua những giai đoạn khó khăn nhất trong cuộc đời của mình. Có người trong chúng ta may mắn vượt qua được những thời điểm khó khăn đó nhở vào nghị lực của bản thân, cá tính mạnh mẽ của họ hoặc có được những sự trợ giúp đắc lực và kịp thời từ người thân hoặc từ một nguồn nào khác. Những người này đã học được những kinh nghiệm sống quý báu từ quá trình vượt khó đó và tự vươn lên để có được một cuộc sống tốt, ổn định và một sự nghiệp thành công. Tuy nhiên, có một số người khác lại không thể nào vượt qua được do không có được những điều kiện hỗ trợ như nhóm người kia để giúp họ vượt qua những khó khăn đó. Cuộc sống của những người này sẽ trở nên ngày càng khó khăn hơn, và nếu không có một sự giúp đỡ kịp thời thì có thể dẫn đến những hậu quả bất lợi cho bản thân và gia đình của nhóm người này. Hoạt động công tác xã hội với cá nhân và gia đình được tổ chức thực hiện là nhằm vào mục đích giúp đỡ các nhóm đối tượng này. Công tác xã hội, từ thời điểm khởi điểm của nó, chỉ đơn thuần là những hoạt động từ thiện như cứu tế xã hội và hướng đến việc giúp đỡ các cá nhân sống trong hoàn cảnh nghèo đói. Nhưng sau một thời gian dài hoạt động, việc tổ chức các hoạt đông cứu tế và từ thiện này đã dần đần được cải thiện và cần có người được đào tạo để làm việc một cách chuyên nghiệp nhằm thực hiện các hoạt động giúp đỡ cho người nghèo có được hiệu quả tốt hơn. Nghề công tác xã hội được ra đời từ đó với mục đích đào tạo nhân viên xã hội làm việc với các cá nhân và gia đình để đáp ứng nhu cầu của người nghèo, của những người đang gặp hoàn cảnh khó khăn được tốt hơn và phù hợp hơn với nhu cầu thực tế của họ. Đó là những con người thuộc nhóm dễ bị tổn thương do hoàn cảnh sống, hoặc do những nguyên nhân và điều kiện khác mà môi trường sống đã ảnh hưởng đến họ và khi gặp phải những hoàn cảnh khó khăn bản thân của họ cảm thấy bất lực và khó vượt qua được. Công tác xã hội kể từ đó được là được xem như là một “nghề để giúp đỡ người khác” [a helping professional] bởi vì hoạt động này là hoạt động giúp đỡ những người đang gặp khó khăn trong cuộc sống. 2. Sơ lược lịch sử công tác xã hội với cá nhân và gia đình Công tác xã hội, mặc dù mới được công nhận là một nghề mới chính thức ở Việt Nam trong năm 2010, nhưng khái niệm về công tác xã hội là không mới đối với những người hoạt động xã hội ở phía Nam là nơi mà việc đào tạo nhân viên xã hội đã được thực hiện từ những những năm 60 của thập kỷ trước. Người có công trong việc giới thiệu và xây dựng chương trình đào tạo nhân viên xã hội ở Việt Nam từ đầu vào những năm 1960 và tiếp tục hồi sinh ngành này một thời gian dài bị gián đoạn từ năm 1975 đến 1990 là bà Nguyễn Thị Oanh. Bà Oanh là người đã 2 đem những kiến thức và kỹ năng chuyên môn của nghề công tác xã hội vào Việt Nam từ những hiểu biết của bà về sự thực hiện công tác xã hội từ Mỹ. Khi nói đến lịch sử công tác xã hội, các tác giả và sách báo về chủ đề này đều cho rằng nghề Công tác xã hội và công tác xã hội với cá nhân hoặc với gia đình có nguồn gốc xuất xứ từ các nước phương Tây mà cụ thể là Anh và Mỹ. Các khái niệm, thuật ngữ và lý thuyết thực hành do vậy đều chịu ảnh hưởng của văn hóa phương Tây. Tuy nhiên, những người đi tiên phong trong ngành CTXH ở Việt Nam đã có nhiều cố gắng trong việc vận dụng các lý thuyết và khái niệm này vào Việt Nam và Việt hóa chúng để có thể phù hợp và dễ áp dụng vào quá trình thực hành CTXH ở Việt Nam. 2.1 Lịch sử của CTXH: Phần lớn các sách báo viết về lịch sử của Công tác xã hội đều cho rằng nước Mỹ là nơi khởi nguồn của các phương pháp thực hành công tác xã hội, kể từ khi Mary Richmond xuất bản những cuốn sách đầu tiên về Công tác xã hội là Friendly Visiting Among the Poor [Những cuộc viếng thăm thân thiện đến người nghèo, 1899], “Social Diagnosis” [ChNn đoán xã hội, 1917], The Good Neighbor in the Modem City [Láng giềng tốt trong các thành phố hiện đại, 1907] and What is Social Casework? An Introductory Description [CTXH với trường hợp cá nhân là gì? Những mô tả ban đầu, 1922]1. Đây là những cuốn sách đầu tiên viết về các phương diện lý thuyết và cũng đã đem lại những lời giải đáp và hướng dẫn thực hành cho hoạt động CTXH nhằm giúp đỡ những người nghèo hoặc các cá nhân gặp khó khăn trong cuộc sống. Nước Mỹ cũng là nơi mà ngôi trường đầu tiên đào tạo chuyên ngành công tác xã hội được ra đời [1898] – The New York School of Philanthropy [tạm dịch là Trường Bác Ái của New York] sau này đổi tên thành Columbia University School of Social Work [Trường CTXH của Đại học Columbia]2. Vào thời điểm đó, trường này đã tổ chức nhiều hội thảo và các chương trình đào tạo trong thời gian nghỉ hè cho nhiều tình nguyện viên và những người làm công việc “viếng thăm thân thiện” đến với người nghèo, và cũng tổ chức chương trình đào tạo một năm cho nghề CTXH. Đây cũng chính là thời điểm mà Mary E. Richmond cùng các đồng nghiệp của bà chuNn bị cho xuất bản cuốn sách đầu tiên, “Friendly Visiting Among the Poor” [Những cuộc viếng thăm thân thiện đến người nghèo, 1899]. Tuy nhiên, rõ ràng là phong trào CTXH phải có một quá trình phát triển lâu dài trong lịch sử của nó và người ta cho rằng phong trào CTXH đã bắt nguồn từ trước đó rất lâu với các hoạt động của các nhà cải cách thuộc các Tổ chức Từ thiện của Thiên chúa giáo: một người là được xem là triết gia Tây Ban Nha [Juan Luis de Vivres, 1493–1540] và người kia là một mục sư Đạo Tin lành người Scotland [Thomas Chalmers, 1780-1847]3. Hai quan điểm về hoạt động giúp đỡ người nghèo của Juan Louis de Vivres và Thomas Chalmers được xem là những quan điểm khởi nguồn cho hoạt động thực hành CTXH với cá nhân và gia đình cũng như là nguồn gốc của nghề công tác xã hội. Khi bàn về hoạt động CTXH với cá nhân và gia đình, Para và các tác giả khác, đã viết: “Sơ lược về lịch sử của thực hành công tác xã hội với các cá nhân và gia đình cho thấy rằng không chỉ phương pháp thực hành công tác xã hội mà cả nghề công tác xã hội nói 1 //www.naswfoundation.org/pioneers/r/richmond.html 2 //www.socialworkers.org/profession/centennial/milestones_1.htm 3 Erlinda Albaracin and Dolores Rubia [2010]: Social Work with Individuals and Families [CFSI-ULSA project] 3 chung cũng để có nguồn gốc từ các hoạt động với cá nhân”. [Paras, Eufemio, Kay, De Guzman, 1981]4 2.1. Những ý tưởng khởi đầu cho hoạt động CTXH giúp đỡ cá nhân: Hai quan điểm về hoạt động giúp đỡ người nghèo của Juan Louis de Vivres và Thomas Chalmers được tóm tắt như sau: 2.1.1. Cá nhân hóa sự giúp đỡ cho người nghèo [tư tưởngcủa Juan Luis de Vivres, 1493-1540] Ý tưởng giúp đỡ người nghèo trên cơ sở tiếp cận từng cá nhân lần đầu tiên được phát triển bởi nhà triết học Tây Ban Nha, Juan Luis de Vives. Mặc dù gốc gác là người Tây Ban Nha, nhưng ông chuyển sang sống ở Bỉ trong phần lớn cuộc đời của mình trong thời gian đầu của thế kỷ 16. Ông đã quan sát sự việc các tín đồ ngoan đạo cũng như các thủ tục tôn giáo thực hiện khi công việc từ thiện bằng cách phân phát những đồ vật bố thí một cách đồng đến người nghèo đã không quan tâm nhiều đến tình hình cuộc sống của từng cá nhân người nghèo. Ông đã kêu goi những nhà tài trợ hoặc bố thí từ thiện nên quan tâm đến những gì xảy ra sau khi những người nghèo nhận được những sự trợ giúp đó. Ở thời điểm đó, trên khắp châu Âu, những người nghèo này được gọi là “những người cùng khổ”, một thuật ngữ ám chỉ cách sống phụ thuộc vào sự cứu trợ. Ông vận động mọi người nên điều tra về điều kiện xã hội của mỗi một gia đình nghèo để xác định nhu cầu/ vấn đề cụ thể của họ. Ông đề nghị, bên cạnh sự phân phát của bố thí, cần phải tổ chức các dịch vụ khác như dạy nghề, tạo việc làm và các dịch vụ phục hồi chức năng khác cho những người nghèo. Tuy nhiên, những đề nghị của ông đã không nhận được sự chú ý của những nhà hoạt động xã hội trong thời điểm đó5. 2.1.2. Giúp đỡ cá nhân trong quan hệ láng giềng [trong cộng đồng] [tư tưởng của Thomes Chalmers, 1780-1847] Một ý tưởng tương tự sau đó lại được khởi xướng vào đầu thế kỷ 19 ở Scotland bởi Thomas Chalmers, mục sư ở một giáo xứ địa phương. Triết lý của ông về sự cứu trợ là nên tập trung vào các cá nhân, hoặc các địa phận giáo xứ nhỏ. Ông đã bắt đầu bằng cách khởi tạo trong giáo xứ của mình một chương trình từ thiện tư nhân dựa vào những giúp đỡ từ quan hệ láng giềng vào năm 1819. Tổ chức từ thiện tư nhân của ông đã tổ chức một hệ thống những người thiện nguyện thường xuyên đến viếng thăm từng cá nhân người nghèo để khích lệ và đào tạo cho họ. Ông chủ trương rằng mỗi một trường hợp của những người có hoàn cảnh khó khăn cần phải được giải quyết theo từng cách riêng. Thay cho việc phân phát cứu trợ hoặc bố thí một cách đơn thuần, mỗi một trường hợp nên được điều tra kỹ để xác định nguyên nhân của hoàn cảnh khó khăn và các giải pháp giúp đỡ họ sẽ được thực hiện trên cơ sở đó. Ông nhấn mạnh rằng những vấn đề mà mỗi cá nhân đang quan tâm trong cuộc sống của họ cần phải được chú ý đến trong quá trình giúp người nghèo phục hồi chức năng và nâng cao đời sống của họ. 4 Paras, E., Eufemio, F., de Guzman, L., and Kay, K. [1981]. Social Casework: An Introduction SSWAP. Manila trong Erlinda Albaracin and Dolores Rubia [2010]: Social Work with Individuals and Families [CFSI-ULSA project] 5 Erlinda Albaracin and Dolores Rubia [2010]: Social Work with Individuals and Families [CFSI-ULSA project] 4 2.2. Sự ra đời của các tổ chức tiền thân của Công tác Xã hội và phương pháp thực hành CTXH với cá nhân và gia đình Phần này sẽ trình bày sơ lược một số điểm mốc thời gian có liên quan đến sự thành lập của một số tổ chức hoạt động theo phương thức thực hành CTXH tập trung vào cá nhân và gia đình. 2.2.1. Sự ra đời của các tổ chức tiền thân của CTXH với cá nhân và gia đình Năm 1843: Hiệp hội Cải thiện các Điều kiện của Người Nghèo được ra đời ở New York [the Association for Improving the Condition of the Poor -AICP] tìm cách giải quyết vấn đề nghèo đói theo cách tiếp cận cá nhân. Hiệp hội này đã áp dụng nguyên mẫu các hình thức tiếp cận với cá nhân những người nghèo của các tổ chức từ thiện ở nước Anh vào việc giúp đỡ người nghèo trong quá trình cải cách đô thị ở New York, và đã đem lại được nhiều thành công đáng kể trong việc nâng cao đời sống tinh thần của người nghèo ở thành phố này. Hiệp hội này đã hoạt động trong suốt 97 năm kể từ ngày thành lập cho đến khi nó bị Cuộc Đại Khủng hoảng buộc nó và Hiệp hội Các Tổ chức Từ thiện ở New York phải sát nhập vào năm 1939 để thành lập nên Hiệp hội Các Tổ Chức Dịch Vụ Cộng Đồng ở New York [Community Service Society of New York] ngày nay6. Năm 1869: Hiệp hội Các Tổ chức Từ thiện [Charity Organization Society -COS] đầu tiên được thành lập ở Luân Đôn, Anh Quốc. Những ý tưởng của Thomas Chalmers, sau 50 được bắt đầu bằng những hoạt động tiên phong của ông ở Glasgow, đã được những nhà hoạt động từ thiện ở Anh đón nhận. Họ kết hợp cả hai ý tưởng, cá nhân hóa sự giúp đỡ và giúp đỡ các nhân trong quan hệ cộng đồng, vào hoạt động tiếp cận mà họ áp dụng trong việc giúp đỡ những người nghèo. Hiệp hội các tổ chức từ thiện London đã vận hành một chương trình cứu trợ dựa trên ý tưởng của Chalmer, đặt nền móng cho sự phát triển của CTXH cá nhân như là một phương pháp cho việc giúp đỡ người nghèo. Họ xây dựng một chính sách trợ giúp được mở rộng trên cơ sở từng đối tượng một tùy thuộc vào từng hoàn cảnh cá nhân. Ngay sau đó, một số các Hiệp hội tương tự đã xuất hiện tại Anh. Các tình nguyện viên có kỹ năng được tuyển dụng để trợ giúp cho các gia đình nghèo và giúp người nghèo phát huy những khả năng tự xoay sở để vượt khó của họ7. Năm 1877: Hiệp hội các Tổ chức Từ thiện [Charity Organization Society -COS] đầu tiên của Mỹ được thành lập ở Buffalo, New York và cũng hoạt động theo mô hình của Hiệp Hội Các Tổ chức Từ Thiện ở Anh. Họ hoạt động dưới hình thức một tổ chức thiện nguyện, và cũng thúc đNy thêm việc tiếp cận theo cá nhân và CTXH với các trường hợp riêng biệt/ 6 Barbara Levy Simon: Association for Improving the Condition of the Poor [United States] in Encyclopedia of Social Welfare History in North America by John M. Herrick&Paul H. Stuart [2005, 2007] , SAGE Publications, Inc. , //knowledge.sagepub.com/view/socialwelfarehistory/n15.xml 7 Erlinda Albaracin and Dolores Rubia [2010]: Social Work with Individuals and Families [CFSI-ULSA project] 5 với các cá nhân8. Khoảng một thập kỷ tiếp theo sau đó, hàng loạt Các Hiệp hội Tổ chức Từ thiện như vậy cũng được thành lập ở các thành phố lớn của Mỹ, và nhiều tổ chức trong số này thực hiện việc hỗ trợ người nghèo bằng các trợ cấp về tài chính. Tuy nhiên, ở New York, Hiệp hội này hoạt động theo cách hơi khác với các thành phố khác là tập trung cung cấp những lời tư vấn cho người nghèo hơn là phân phát quà bố thí hoặc cứu trợ9. 2.2.2. Phương pháp thực hành CTXH với cá nhân và gia đình và quá trình phát triển của nó 2.2.2.1. Phương thức hoạt động của các tổ chức tiền thân của hoạt động CTXH Trong thời gian đầu, nhân viên của các Tổ chức Từ thiện, phần lớn là các tình nguyện viên làm việc từ thiện và thường đóng vai trò là những người “người khách thân thiện” và tìm đến các cộng đồng nghèo để phân phát các món quà cứu trợ hoặc những hỗ trợ về tài chánh, vật chất và tinh thần cho các gia đình nghèo. Các tình nguyện viên xã hội trong thời kỳ này thường cho rằng lý do khiến những người này trở nên nghèo đói là do lười biếng, thất học, hoặc đang sống một cách trụy lạc, sa đọa, do gặp thất bại của bản thân và do bản thân họ thiếu niềm tin. Vì vậy, mục tiêu của việc viếng thăm thân thiện trước tiên là tập trung vào tư vấn giúp cho một cá nhân có thể thực hiện những nỗ lực tốt nhất, để làm việc thật chăm chỉ nhằm kiếm sống đủ cho chính bản thân của cá nhân và nhu cầu của gia đình cá nhân họ, cũng như tư vấn để giúp nâng đỡ cuộc sống tinh thần của họ. Tuy nhiên, sau một thời gian dài hoạt động, những nhân viên tình nguyện xã hội này đã phát hiện ra rằng, nguyên nhân nghèo đói không phải là những vấn đề như họ đã từng nghĩ trước đây mà là do nhiều nguyên nhân khác nhau. Họ đã tiến hành tìm hiểu và ssau đó phát hiện của họ cho thấy những nguyên nhân gây cảnh khốn khó không nằm ở khiếm khuyết về tính cách của cá nhân người ta mà là ở những điều kiện xã hội trong môi trường sống của những cá nhân đó: như bệnh tật, đông con, nhà ở chật chội, trình độ học vấn thấp, lương thấp, thiếu kỹ năng làm việc, thiếu cơ hội làm việc,… Từ đó, họ rút ra kết luận rằng môi trường có ảnh hưởng lớn đến các vấn đề của các cá nhân10 và đã đề xuất rằng việc phân tích những nguyên nhân từ phía môi trường xã hội cần phải được chú trọng trong quá trình giúp đỡ khách hàng [thân chủ] Những tình nguyện viên xã hội này cũng lo lắng rằng việc chấp nhận các khoản cứu trợ cộng đồng sẽ là suy giảm lòng tự trọng của những người cần sự trợ giúp và làm cho họ trở nên phụ thuộc vào sự trợ giúp. Vì vậy, các tình nguyên viên xã hội cho rằng những người nghèo cần phải nỗ lực để tự giải quyết vấn đề của mình và họ đã có những kế hoạch điều tra hoàn cảnh từng cá nhân riêng lẻ để xác định nhu cầu và có biệp pháp hỗ trợ hợp lý. Ngoài ra, các tình nguyện viên đã được yêu cầu là phải tạo được những ảnh hưởng tốt về phương diện đạo đức đối với người nghèo, do vậy người nghèo cũng được tư vấn để thay đổi thái độ và hành vi. Các Tổ chức Từ thiện ngày càng trở nên phổ biến ở Anh và đã hoạt động hiệu quả thông qua việc sử dụng những khách thăm viếng thân thiện này và để điều tra hoàn cảnh, xác định nhu cầu. Những hoạt động theo phương pháp này đã đặt nền móng cho công tác xã hội với cá nhân [làm việc với trường hợp cá nhân]. 8 Social Work Practice with Individuals: www.csub.edu/ 9 //www.socialworkers.org/profession/centennial/milestones_1.htm 10 Social Work Practice with Individuals: www.csub.edu/ 6 2.2.2.2. Sự ra đời của lý thuyết về CTXH với cá nhân và quá trình phát triển của công tác xã hội với cá nhân và gia đình ở Mỹ qua các thời kỳ 11 Trước năm 1920 “Người khách viếng thăm thân thiện”, theo cách gọi trước đây khi đề cập đến nhân viên xã hội, đã giúp những người mới đến định cư ở Mỹ trong thời gian đầu, họ giúp những người đã không thể thích nghi với nền văn hóa mới hay đang sống trong hoàn cảnh nghèo đói. Trong giai đoạn này, Mary Richmond, tác giả của tác phNm ChNn đoán Xã Hội [1917] đã cung cấp cho các nhà hoạt động tình nguyện này một mô hình lý thuyết công tác xã hội. Lý thuyết này cho rằng việc thu thập thông tin cNn thận sẽ giúp những người tình nguyện viên xã hội hiểu rõ được các nguyên nhân của vấn đề và từ đó có thể đưa ra biện pháp khắc phục. Vào thời điểm đó, xã hội học đã có những ảnh hưởng lớn đối với các kiến thức công tác xã hội. Những giải thích của tâm lý học vào thời điểm này chưa xuất hiện. Sự ra đời của của trường đào tạo nhân viên xã hội đàu tiên ở Mỹ vào năm 1898 – Trường New York School of Philanthropy [tạm dịch là Trường Bác Ái của New York] sau này đổi tên thành Columbia University School of Social Work [Trường CTXH của Đại học Columbia] – đã đánh đấu một sự tiến bộ của CTXH trong việc đào tạo nhân viên xã hội và việc áp dụng một các chuyên nghiệp những kiến thức và kỹ năng CTXH một cách chuyên nghiệp vào các hoạt động giúp đỡ khách hàng [thân chủ]. 1921-1930 Giai đoạn này đánh dấu một sự phát triển mới trong hoạt động CTXH với sự ra đời của lý thuyết phân tâm học do Sigmund Freud phát triển sau những nghiên cứu về phân tích tâm lý của ông. Các hoạt động CTXH với các cá nhân đã có sự thay đổi đáng kể và tập trung vào việc phân tích những vấn đề tâm lý của khách hàng [thân chủ]. Những khách hàng mà gặp khó khăn trong việc điều chỉnh bản thân họ được nghiên cứu theo những quan điểm phân tâm học của Freud. “Những hiểu biết về cảm xúc, thái độ, những sự mâu thuẫn bị dồn nén, và sự đấu tranh trong vô thức của khách hàng [thân chủ] đã trở thành một phần không thể thiếu được trong yêu cầu về kiến thức và phương pháp làm việc của nhân viên CTXH với các trường hợp cá nhân. Hoạt đông CTXH với cá nhân thời kỳ này tập trung vào các vấn đề tâm lý và cảm xúc do những ảnh hưởng bởi các khám phá của S. Freud [phân tâm học và tâm lý học năng động], và các công trình nghiên cứu của Otto Rank, Carl Jung, Alfred Adler, v.v ”12. Phương pháp xử lý vấn đề tâm lý của khách được thực hiện thông quá các biện pháp tương tự trong y khoa là can thiệp giúp đỡ và xử lý theo cách điều trị [hay còn được gọi là trị liệu]. Chiến tranh Thế giới lần thứ I cũng đã tạo ra những tác động đối với sư phát triển lý thuyết về CTXH với cá nhân. Trong quá trình làm việc để giúp các các cựu chiến binh hoặc nạn nhân bị thương vong và gia đình của họ, ngoài làm việc trực tiếp với khách 11 Phần lớn nội dung của đoạn này được trích dẫn từ Danao, I. [2000]. Working with individuals. Philippine Encyclopedia of Social Work. Q.C., Phil.: Megabook Co. ; phần trích dẫn trong tài liệu tập huấn được biên soạn bởi Erlinda Albaracin and Dolores Rubia [2010]: Social Work with Individuals and Families [CFSI-ULSA project] 12 Social Work Practice with Individuals: www.csub.edu/ 7 hàng [thân chủ], CTXH với cá nhân còn phải làm việc với những người khác , CTXH với gia đình đã bắt đầu được phát triển trên cơ sở này. 13 Các đặc điểm khác biệt của thực hành CTXH cá nhân trong giai đoạn so với giai đoạn trước gồm có: 1] xử lý [trị liệu] nhằm giúp cho thân chủ tự “điều chỉnh”; 2] các quy trình cơ bản được sử dụng là: sử dụng các nguồn tài nguyên; giúp cho thân chủ tự hiểu biết về bản thân và phát triển khả năng “tự giải quyết các vấn đề xã hội của mình”; 3] tập trung vào các cá nhân và nghiên cứu chi tiết về các hành vi cá nhân, thái độ và các mối quan hệ chủ yếu là tập trung vào những kinh nghiệm thời thơ ấu; 4] chủ yếu là dựa vào các cá nhân để thu thập thông tin trong quá trình tìm hiểu ý nghĩa của những điều đã trải qua đối với họ; và 5] chú trọng đến việc giáo dục và phát triển lý thuyết. 1930-1945 Do tác động của suy thoái kinh tế, vấn đề nghèo đói và lệch lạc xã hội đã được nhìn nhận theo nhiều cách thức khác nhau. Những vấn đề xã hội không còn được xem là sản phNm của những khiếm khuyết của cá nhân mà còn là do ảnh hưởng của hoàn cảnh xã hội của môi trường mà họ sống. Cách tiếp cận theo chức năng được phát triển trong những năm 1930 bởi các giảng viên của Trường đào tạo Công tác Xã hội ở Pennsylvania. Khái niệm này đã được giới thiệu bởi Jessie Taft, trong khi đó Virginia Robinson xác định các kỹ năng cần thiết cho các phương pháp tiếp cận. Theo cách tiếp cận này, nhân viên xã hội và khách hàng [thân chủ] cùng quyết định nếu xem thử họ có thể phối hợp làm việc với nhau trên cơ sở những vấn đề/nhu cầu/vấn đề của khách hàng [thân chủ] và các chương trình hoặc dịch vụ có sẵn tại cơ sở xã hội hay không. Sự sử dụng những chức năng của cơ sở xã hội cũng là một phần không thể tách rời của những kỹ năng công tác xã hội. Năm 1937, Gordon Hamilton đã công bố một báo cáo về cách tiếp cận chNn đoán và chủ yếu là dựa vào lý thuyết của Freud trong tìm hiểu các vấn đề trong những mối quan hệ tương tác giữa các cá nhân. Báo cáo chNn đoán này thường mang tính diễn giải và dự kiến. Nó có thể bao gồm cách thức giải quyết những sự khiếm khuyết/ thiếu hụt bằng các nguồn lực xã hội, bằng việc sửa đổi chương trình, điều chỉnh nguồn lực cũng như việc tư vấn hoặc điều trị. Những nhân vật hàng đầu đã có nhiều đóng góp vào sự phát triển của trường phái tư tưởng tâm lý xã hội bao gồm Richmond, Charlotte Towle, Annette Garrett và một số người khác. Cách tiếp cận tâm lý xã hội là xem xét các cá nhân trong hoàn cảnh của họ, tức là, xem xét các cá nhân trong sự tương tác với những người khác trong các gia đình, cộng đồng, nhà thờ, trường học và các hoàn cảnh xã hội khác. Phương pháp này cố gắng huy động nguồn lực bên trong cũng như bên ngoài của khách hàng [thân chủ] để giúp họ thực hiện những chức năng của cá nhân và tương tác với người khác có hiệu quả hơn. Các hoạt động giúp đỡ khách hàng [thân chủ] trong giai đoạn này đã có những thay đổi đáng kể và đã có sự chuyển hướng từ việc chỉ tập trung vào giải quyết các vấn 13 Maria Lyre del Castillo [August 2011]: Lecture Slides for Social Work with Individuals: Historical Background of Case Work in US, University of Philippines 8 đề của từng khách hàng sang việc mở rộng các hoạt động giải quyết vấn đề bao gồm luôn cả các thành viên trong gia đình, giúp đỡ các thành viên này thay đổi hoặc điều chỉnh hành vi hoặc lối sống của họ. Công tác xã hội với gia đình được phát triển và được công nhận từ giai đoạn này và gia đình đã bắt đầu được các nhân viên xã hội xem xét đến như là một hệ thống khách hàng [thân chủ] 14. 1945-1960 Trong thời kỳ này, nhóm khách hàng [thân chủ] của công tác xã hội không còn giới hạn trong những người nghèo nữa mà còn có cả những người thuộc tầng lớp trung lưu đang gặp các vấn đề rắc rối trong gia đình hoặc trong việc tự điều chỉnh bản thân. Chính trong giai đoạn này, những vấn đề liên quan đến sự thực hiện chức năng xã hội đã trở thành mối quan tâm chính của công tác xã hội. Thời kỳ này ngành công tác xã hội cũng chứng khiến những sự thay đổi trong các vấn đề mà cá nhân gặp phải. Trước đây, các vấn đề của khách hàng thường là những vấn đề liên quan đến kinh tế, thu nhập và những vấn đề liên quan đến các lĩnh vực xã hội học. Tuy nhiên trong giai đoạn này các sự kiện của Chiến tranh Thế giới lần thứ II đã làm gia tăng các vấn đề cá nhân, vì vậy hoạt động CTXH đã tập trung vào các dịch vụ dành cho các cá nhân có vấn đề về nhân cách, và do đó đã làm tăng nhu cầu về nhân viên CTXH được đào tạo chuyên nghiệp về tâm thần học và y khoa15. Năm 1957, Felix Bestek đã viết cuốn sách “Mối quan hệ trong CTXH cá nhân” trong đó ông định nghĩa mối quan hệ CTXH cá nhân là “sự tương tác năng động giữa thái độ và cảm xúc của các nhân viên xã hội [người quản lý ca] và khách hàng [thân chủ] để đạt được sự thích nghi giữa các cá nhân đó với môi trường sống của họ. Ông cũng xác định bảy nguyên tắc trong mối quan hệ nói trên. Gần cuối thời kỳ này, Helen Harris Perlman đã phát hành “ CTXH với cá nhân: Quy trình giải quyết vấn đề”. Cuốn sách này đã đánh dấu sự kết thúc những cuộc tranh luận giữa hai cách tiếp cận chNn đoán - chức năng, bởi vì các khái niệm quan trọng của cả hai cách tiếp cận đã hợp nhất vào quá trình giải quyết vấn đề. Trong phương pháp tiếp cận này, các yếu tố chính của CTXH với cá nhân là: một cá nhân có vấn đề tìm đến một địa điểm mà ở đó có người đại diện giúp họ thông qua một quá trình trợ giúp. Perlman đã sử dụng thuật ngữ chNn đoán đồng nghĩa với việc đánh giá. Quá trình này được xem như là cách suy nghĩ về việc giải quyết vấn đề bằng cách xem xét vấn đề một cách xuyên suốt từ những nguồn lực tương tác bên trong những tình huống vấn đề của khách hàng; mối quan hệ chuyên nghiệp được xem là một yếu tổ quan trọng trong quá trình này và khái niệm về vấn đề rắc rối, đã chuyển từ khái niệm bệnh lý sang khái niệm là một phần bình thường trong cuộc sống. 1961-1975 Trong giai đoạn này, lý thuyết CTXH tập trung vào việc tiếp tục phát triển các phương pháp truyền thống, phát triển các cách tiếp cận tổng quát hoặc tích hợp trong thực hành và phát triển các cách tiếp cận mới trong thực hành để sử dụng trong các dịch vụ hỗ trợ 14 Janzen, Curtis và Harris, Oliver” [1980] Family Treatment in Social Work Practice, F.E. Peacock Publishers, Inc., Itasca, Illinois 60143 [p.3] 15 Maria Lyre del Castillo [August 2011]: Lecture Slides for Social Work with Individuals: Historical Background of Case Work in US, University of Philippines 9 cho các nhóm khách hàng [thân chủ] cụ thể như phân tích sự giải quyết vấn đề, sự điều chỉnh hành vi, sự trị liệu thực tế, sự giải quyết khủng hoảng và cách làm việc với các nhân thông qua cách giao nhiệm vụ. Trong những năm 1960, cả hai cách tiếp cận chNn đoán [giờ đây được gọi là cách tiếp cận tâm lý xã hội bởi Florence Hollis] và cách tiếp cận chức năng đã được tiếp tục mở rộng và cập nhật. Các hệ thống xã hội và lý thuyết giao tiếp đã được áp dụng trong thực hành công tác xã hội. Trong những năm 1970, các phương pháp tích hợp hoặc thực hành tổng quát được phát triển cho một nghề nghiệp công tác xã hội đồng nhất và để đáp ứng các vấn đề / nhu cầu phức tạp của khách hàng [thân chủ]. Các tác giả sau đây đã có những đóng góp vào sự phát triển của thực hành tổng quát: 1] Carol Meyer với cuốn sách “Thực hành Công tác Xã hội, Sự phản ứng trước khủng hoảng đô thị”: Bà đã coi quá trình chNn đoán là một công cụ đánh giá và can thiệp, có nhiều khả năng được biết đến như là hành động can thiệp. 2] Harriet Bartlett và cuốn sách “Cơ sở chung của thực hành công tác xã hội”, cùng với những nỗ lực của Hamilton bà đã đưa ra một khuôn khổ thống nhất về khái niệm [bao gồm mục đích, các giá trị, sự thừa nhận, kiến thức và các kỹ năng thông thường] để giúp phát triển những quan điểm tổng quát về công tác xã hội.3] Allen Pincus vào Anne Minahan với cuốn “Thực hành công tác xã hội: Mô hình và phương pháp” coi công tác xã hội như là phương pháp tạo sự thay đổi theo kế hoạch với kế hoạch can thiệp giúp đỡ được xậy dựng trên cơ sở đánh giá vấn đề. 1976-1990 Trong thời kỳ này, khách hàng [thân chủ] có thể là bất kỳ cá nhân hoặc gia đình nào cần được giúp đỡ trong việc thực hiện chức năng xã hội. Khách hàng [thân chủ] tham gia trong các bước giải quyết vấn đề: từ đánh giá , đến xác định và lựa chọn giải pháp hỗ trợ. Việc đào tạo về CTXH trong thời gian này đã quan tâm đến các via trò khác nhau của những nhân viên CTXH được đào tạo ở cấp cử nhân và cấp Thạc sSỹ, các chuyên ngành tại thời điểm tốt nghiệp, và xây dựng các khái niệm cho sự thực hành CTXH tổng quát. Đây cũng là thời kỳ mà ngành CTXH đang gặp phải nhiều thách đố với những vấn đề xã hội như tình trạng vô gia cư, AIDS, lạm dụng các chất gây nghiện, hòa bình và công lý cũng như các vấn đề phân biệt đối xử trong xã hội, phụ nữ và các nhóm dân tộc thiểu số. Sau đây là một số các khái niệm chính được sử dụng trong quá trình giúp đỡ công tác xã hội: 1] Đánh giá, được coi như là một quá trình phát triển sự hiểu biết về cá nhân con người trong hoàn cảnh/ môi trường làm cơ sở cho kế hoạch trợ giúp; 2] Con người-trong hoàn cảnh/ môi trường: sử dụng các mạng lưới hỗ trợ xã hội như là một phần của quá trình giúp đỡ và của cách tiếp cận hệ thống xã hội. 3] Mối quan hệ mà thông qua đó có thể xác định các mối quan hệ với các hệ thống xã hội quan trọng và với những những người có ảnh hưởng trong các hệ thống đó. 4] Quá trình đề cập đến các bước giải quyết vấn đề theo định kỳ để tạo sự thay đổi theo thời gian. 5] Hoạt động giúp đỡ không phải chỉ có một giải pháp can thiệp duy nhất, mà nên sử dụng giải pháp nào có thể phù hợp với mọi tình huống. 10 CHƯƠNG II: MỘT SỐ ĐNNH NGHĨA VÀ KHÁI NIỆM LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC XÃ HỘI VỚI CÁC CÁ NHÂN VÀ GIA ĐÌNH 1. Các định nghĩa và khái niệm Do đặc điểm lịch sử của ngành công tác xã hội là có nguồn gốc xuất phát từ các hoạt động từ thiện ở Anh và Mỹ và dần dần được tổ chức khoa học hơn, đào tạo chuyên môn có bài bản hơn để trở thành một nghề chuyên nghiệp, phần lớn các khái niệm, định nghĩa, thuật ngữ và lý thuyết của ngành đều có nguồn gốc từ tiếng Anh và ảnh hưởng của văn hóa Anh-Mỹ. Phần sau đây sẽ đề cập đến là một số khái niệm liên quan đến CTXH với cá nhân và gia đình. - CTXH với trường hợp [Social Casework]: là phương pháp hoạt động CTXH để giúp đỡ các trường hợp cụ thể. Các trường hợp đó có thể là các cá nhân riêng lẻ hoặc các gia đình cần được giúp đỡ. Từ thời kỳ sơ khai của ngành công tác xã hội, khái niệm CTXH với trường hợp [social casework] được dùng để nói về phương pháp giúp đỡ khách hàng theo cách tiếp cận với từng cá nhân riêng lẻ. Tùy theo các các tiếp cận và giúp đỡ với các đối tượng khách hàng khác nhau, các tác giả viết về CTXH với cá nhân và gia đình đã đưa ra nhiều cách định nghĩa khác nhau về CTXH với trường hợp [đôi khi được một số người dịch là CTXH với cá nhân] . Sau đây là một vài định nghĩa được chọn lọc16 để giới thiệu đến người học từ một số tác giả đã được áp dụng và có nhiều ảnh hưởng trong bối cảnh hoạt động của CTXH ở Việt Nam Mary Ellen RICHMOND [1915, 1917 và 1920]: Các định nghĩa của Mary Richmond theo từng thời điểm đã có thay đổi theo những kinh nghiệm mà bà và các đồng nghiệp đã tích lũy từ quá trình hoạt động CTXH. Các yếu tố liên quan đến quan hệ xã hội và môi trường xã hội đã được thêm vào trong định nghĩa về hoạt động này tương ứng với những thay đổi và phát triển trong hoạt động CTXH theo thời gian. - CTXH với trường hợp có thể được định nghĩa là nghệ thuật thực hiện những công việc khác nhau với những con người khác nhau, cùng phối hợp với họ để đạt đến việc làm cho bản thân họ và xã hội trở nên tốt đẹp hơn [Richmond, 1915] - CTXH với trường hợp là một nghệ thuật nhằm đem đến một sự điều chỉnh để thích nghi trong mối quan hệ xã hội của các cá nhân bao gồm, nam giới, phụ nữ và trẻ em. [Richmond,1917], và - CTXH với trường hợp có nghĩa là những quá trình hoạt động giúp phát triển tính cách cá nhân [nhân cách] thông qua việc điều chỉnh một cách có ý thức những cá nhân có vấn đề trong quan hệ giữa từng cá nhân đó với những người xung quanh và môi trường xã hội mà họ đang sống [Richmond, 1922]. Jessie TAFT [1920] đưa ra một định nghĩa cụ thể hơn: 16 Rengasamy, S. [2011]: Social Case Work – Working with Individuals , Bài giảng. 11 Công tác xã hội với trường hợp có nghĩa là sự hỗ trợ điều trị về mặt xã hội cho một cá nhân gặp khó khăn trong việc điều chỉnh để thích nghi bao gồm những cố gắng để hiểu về cá tính, hành vi và các quan hệ xã hội của người đó và để giúp đỡ cho họ thực hiện việc điều chỉnh cá nhân và xã hội tốt hơn. Bertha REYNOLDS [1935] cung cấp một định nghĩa khác: CTXH với trường hợp là một hình thức CTXH giúp đỡ cá nhân khi người đó gặp khó khăn trong việc tạo lập quan hệ với người trong nhà họ, với những nhóm người chung quanh hoặc với cộng đồng của họ. Florence HOLLIS [1956] giải thích: CTXH với trường hợp là một phương pháp được các nhân viên xã hội thực hiện để giúp các cá nhân tìm kiếm những giải pháp cho các vấn đề về việc thích nghi với xã hội mà họ không thể nào tự giải quyết được một cách thỏa đáng bằng những cố gắng tự thân của họ. Gordon HAMILTON [1956] thì quan tâm đến sự tham gia của khách hàng và những nguồn lực hỗ trợ: Trong CTXH với trường hợp, khách hàng được khuyến khích tham gia vào việc nghiên cứu về hoàn cảnh của họ, chia sẻ các kế hoạch, và thực hiện những cố gắng tích cực để giải quyết những vấn đề của họ, bằng cách sử dụng những tiềm lực của bản thân họ, và những nguồn lực có sẵn và phù hợp trong cộng đồng. Helen Harris PERLMAN [1957] là người có ảnh hưởng lớn nhất đối với CTXH hiện nay, đưa ra định nghĩa như sau: CTXH với trường hợp là một tiến trình được sử dụng bởi bất kỳ các cơ quan phúc lợi của con người nào trong việc giúp đỡ các cá nhân đối phó với một cách có hiệu quả hơn với các vấn đề mà họ gặp phải trong sự thực hiện chức năng xã hội của họ. Cho dù các định nghĩa này có những điểm khác nhau tùy theo cách nhìn của mỗi một chuyên gia, chúng ta có thể thấy rõ được điểm chung của các định nghĩa này là như sau17: - CTXH với trường hợp cụ thể/ với cá nhân [hoặc Social Casework – hoặc Social work with individuals] là một phương pháp giúp mọi người giải quyết vấn đề. Đây là một công việc mang tính khoa học, nghệ thuật và hướng đến những cá nhân/ hoặc trường hợp riêng biệt. - Nó giúp các cá nhân đang gặp các vấn đề về bản thân cá nhân họ cũng như điều chỉnh để thích nghi với những rắc rối bên ngoài và trong môi trường xung quanh. - Đây là một phương pháp giúp các cá nhân giải quyết vấn đề trong các mối quan hệ giữa các cá nhân với môi trường sống và những người xung quanh họ, thông qua một mối quan hệ mà có thể giúp tận dụng các nguồn tài nguyên từ cá nhân và các nguồn khác để đối phó với những vấn đề rắc rối. - Đây là một quá trình kết hợp các phương diện sinh lý –tâm lý- xã hội. 17 Social Work Practice with Individuals: www.csub.edu/ 12 - Những công cụ chính trong hoạt động CTXH với cá nhân là phỏng vấn và đánh giá. Khái niệm CTXH với trường hợp sau đó đã được mở rộng để bao gồm luôn cả trường hợp của các gia đình gặp khó khăn và cần sự giúp đỡ. Các gia đình được xem xét với tư cách là một hệ thống khách hàng. Phương pháp CTXH với các gia đình cũng áp dụng những lý thuyết tương tự như với việc giúp đỡ các cá nhân, mặc dù có đôi chút khác biệt nhưng không đáng kể. Sự khác nhau giữa CTXH với cá nhân và với gia đình trong định nghĩa của các hoạt động đã được Pearson18 làm rõ như sau: 1.1. CTXH với các cá nhân: Tùy theo bối cảnh, nhiều nhân viên xã hội cung cấp dịch vụ chủ yếu là phục vụ cho các cá nhân con người. Các nhân viên xã hội làm việc với các cá nhân có thể cung cấp các dịch vụ quản lý trường hợp, trị liệu tâm lý, và bênh vực/ bảo vệ - thông thường là kết hợp cả ba dịch vụ. CTXH với các cá nhân trong lịch sử được đề cập đến như là làm việc với “trường hợp cụ thể” hoặc là “CTXH với trường hợp cụ thể”. CTXH với trường hợp cụ thể, theo định nghĩa của nó, là bao gồm việc sử dụng kiến thức CTXH, các giá trị, và các kỹ năng trong các mối quan hệ trực diện [face-to-face relationship] để giúp giải quyết hoặc giảm thiểu những khó khăn “phát sinh so sự mất cân bằng giữa con người và môi trường của họ”. Quá trình hỗ trợ này gồm có việc giúp cho con người điều chỉnh cho phù hợp với môi trường của họ, cũng như hỗ trợ trong việc thay đổi các yếu tố trong môi trường của từng cá nhân. CTXH với các cá nhân là gồm có việc giúp đỡ con người với những vấn đề thực tế cụ thể, với những thiếu hụt và áp lực của môi trường, và với những sự khó khăn trong tương tác với người khác và trong chính bản thân họ. 1.2. CTXH với các gia đình CTXH với gia đình trở nên là một lĩnh vực nổi bật trong thực hành CTXH trong thời gian cuối của thập kỷ 50 và thời gian đầu của thập kỷ 60 của thế kỷ trước. Các nhân viên xã hội làm việc với các gia đình giúp cho các thành viên của gia đình cải thiện những cách thức tương tác với nhau để đáp ứng các nhu cầu của mọi thành viên trong gia đình. Nói theo cách khác, các nhân viên xã hội hoạt động để giúp cho các gia đình có vấn đề về hành vi, tình cảm, và tương tác với nhau. Quá trình giúp đỡ thường được xem là một cách giải quyết vấn đề trong bối cảnh của một hệ thống – hệ thống trong trường hợp này chính là gia đình. Theo thời gian, trong nội bộ các gia đình có thể phát triển những sự liên minh hoặc liên kết không bình thường bên trong hệ thống gia đình. Những nhân viên xã hội, đôi khi là những người được các cơ sở xã hội thuê làm việc như là những “người trị liệu gia đình” [hoặc “người xử lý các vấn đề gia đình”], sẽ giúp các gia đình thay đổi những cấu trúc gia đình có vấn đề. Những công việc này sẽ không những đem lại những sự chuyến biến tích cực cho gia đình mà còn đem lại những thay đổi tích cực trong các thành viên của gia đình. 18 Social Work as a profession: //www.pearsonhighered.com/ 13 Những nhân viên xã hội làm việc với các gia đình đã học hỏi được từ các lý thuyết về cách các gia đình vận hành như thế nào và làm sao để thay đổi các gia đình. Để làm được điều đó, các nhân viên xã hội phải sử dụng nhiều kỹ thuật và thực hiện nhiều vai trò khác nhau. Một số người sẽ tập trung vào những mối quan hệ cụ thể như những quan hệ giữa cha mẹ và con cái, hoặc cũng có thể mở rộng phạm vi tiếp cận ra tới những thành viên trong gia đình mở rộng. Đôi lúc nhân viên xã hội có thể quay phim video về những tương tác giữa các thành viên trong gia đình trong quá trình trị liệu/ xử lý vấn đề. Cũng có thể họ sẽ áp dụng phương pháp phản chiếu theo một chiều để cho các thành viên trong cũng một gia đình có thể quan sát những phương thức tương tác trong gia đình. Ngoài ra, việc sắm vai cũng có thể được áp dụng với các gia đình khi muốn các thành viên diễn lại tình huống trước khi có mâu thuẫn. Nhiều khi, một người trị liệu [người xử lý] cũng phải thực hiện công việc tạo ra những khuôn mẫu ứng xử có hiệu quả hơn khi giải quyết mâu thuẫn cho các gia đình. 2. Mục đích và đặc điểm của CTXH với các cá nhân và gia đình 2.1. Mục đích của thực hành CTXH với cá nhân và gia đình Căn cứ vào cách định nghĩa nêu trên về CTXH với các cá nhân và gia đình, chúng ta có thể thấy được rằng đó là những phương pháp can thiệp CTXH đầu tiên do các nhà tiên phong về CTXH phát triển nên nhằm các mục đích như sau: - Giúp cho các cá nhân và gia đình ngăn ngừa hoặc cải thiện những vấn đề khó khăn của họ. Những khó khăn này có thể do họ không thể tự thích nghi được với những thay đổi trong môi trường sống của họ hoặc trong quan hệ của họ với môi trường xã hội xung quanh. Do vậy việc ngăn ngừa hoặc cải thiện những vấn đề khó khăn có nghĩa là nhân viên xã hội phải xem xét kỹ đến các nguyên nhân chính gây ra những khó khăn đó, các nguyên nhân liên quan mà có thể gây ra những mâu thuẫn hoặc phá vỡ những mối quan hệ xã hội đang lành mạnh để có hướng giải quyết phù hợp. - Giúp cho các cá nhân và các gia đình xác định và giải quyết các vấn đề trong mối quan hệ của họ hoặc giúp giảm thiểu các tác động tiêu cực đến cuộc sống hoặc đến những mối quan hệ xã hội của họ với môi trường xung quanh bằng cách tự điều chỉnh những suy nghĩ của bản thân họ và những hành vi ứng xử của họ sao cho thích nghi với môi trường. - Giúp cho các cá nhân và các gia đình trở nên mạnh mẽ hơn, thông qua việc hỗ trợ họ xác định và phát huy được những tiềm năng của cá nhân, của gia đình và tận dụng được những nguồn lực hỗ trợ từ các nhóm phù hợp và từ cộng đồng để phát triển cuộc sống của họ và giải quyết những khó khăn của họ một cách bền vững. 2.2. Những đặc điểm của thực hành CTXH với các cá nhân và gia đình: CTXH với các cá nhân và gia đình là một trong những phần chính của một phương pháp tiếp cận tổng quát để thực hành CTXH hay còn được gọi là phương pháp thực 14 hành CTXH tổng quát. Theo các định nghĩa đã nêu trên, chúng ta có thể thấy được hoạt động CTXH với các cá nhân và gia đình có những đặc điểm chính như sau: - Tập trung vào xem xét các khả năng của cá nhân và gia đình trong việc xử lý thích đáng tình huống cá nhân của họ do tác động bởi nhiều nhân tố về tâm lý, gia đình, và xã hội trong môi trường sống của họ. Công việc này đòi hỏi phải có sự đánh giá cNn thận về các khía cạnh tâm lý-sinh lý- và các quan hệ xã hội, quan hệ tinh thần của các khách hàng là cá nhân và các thành viên trong gia đình. - Tập trung chủ yếu vào sự điều chỉnh, sự cải thiện cách thức mà những ngoại lực, mâu thuẫn của môi trường đang tương tác với những cảm xúc, hành vi của các cá nhân hoặc các thành viên của gia đình, mà có thể dẫn đến kết quả có thể là giúp tăng cường hoặc làm giảm khả năng thực hiện chức năng xã hội của các cá nhân hoặc của các gia đình. Những sự điều chỉnh này là nhằm vào việc giúp cho khách hàng [cá nhân và gia đình] tự điều chỉnh để thích nghi tốt hơn với môi trường xung quanh và cũng để phát huy sự thực hiện các vai trò và chức năng xã hội của khách hàng được tốt hơn và theo hướng tich cực hơn. - Tập trung vào cấu trúc về con người-trong-tình huống hay còn gọi là con người–trong-môi trường. Đây là cách làm việc hướng đến gia đình. Các vấn đề của một cá nhân có thể là do những mâu thuẫn hoặc do khả năng thích nghi kém giữa các cá nhân và các gia đình đối với môi trường xung quanh họ. Những thay đổi trong điều kiện sống và sinh hoạt do sự phát triển của xã hội [bao gồm cả sự phát triển về kinh tế, thay đổi về chính trị, ….] cũng tạo ra những áp lực đối với các cá nhân và gia đình và khiến họ trở nên kém thích nghi. Tập trung và cấu trúc con người trong tình huống sẽ giúp cho nhân viên xã hội đánh giá được những tác động từ bên ngoài xã hội ảnh hưởng đến hành vi hoặc sự thực hiện chức năng xã hội của các cá nhân và gia đình. Về bản chất đó là là một quá trình tổng hợp của nhiều phương pháp, kỹ năng và các lý thuyết CTXH trong quá trình giúp khách hàng giải quyết vấn đề của họ và để tạo ra những thay đổi trong môi trường theo hướng có lợi cho khả năng thích nghi của khách hàng. - Tập trung vào việc tìm cách cải thiện năng lực của hệ thống khách hàng [các cá nhân và gia đình] nhằm giúp đỡ họ cải thiện cuộc sống và tự vươn lên để vượt ra khỏi những tình huống khó khăn mà có thể xảy ra xung quanh họ hoặc có tác động trực tiếp đối với họ. Trọng tâm chính của CTXH với các cá nhân và gia đình là giúp cho khách hàng tự giúp mình. - Các phương pháp hỗ trợ truyền thống [hỗ trợ vật chất, tài chính, vv…] thường được kết hợp sử dụng trong quá trình thực hành khi người nhân viên CTXH làm việc với các cá nhân và gia đình để giúp khách hàng giải quyết những nhu cầu và những vấn đề cơ bản và cùng với khách hàng đặt ra các mục tiêu và kế hoạch để giải quyết vấn đề của họ và huy động những sự nỗ lực hỗ trợ của gia đình hay của cộng đồng. 3. Các nguyên tắc và ý nghĩa của CTXH với các cá nhân và gia đình 3.1. Các giá trị và ý nghĩa của chúng trong CTXH với các cá nhân và gia đình 15 CTXH xem ba giá trị nghề nghiệp sau đây là quan trọng và cần được lưu ý trong quá trình giúp đỡ khách hàng:  Thừa nhận những giá trị có sẵn và tầm quan trọng của cá nhân cũng như có sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các cá nhân và xã hội: Ý nghĩa của giá trị này các giá trị nhân cách hoặc vấn đề của khách hàng có thể được hình thành hoặc bị thay đổi từ những tác động của môi trường xã hội. Do vậy, các hệ thống khách hàng phải được đặt trong những mối quan hệ tương tác với các hệ thống xã hội khác trong quá trình phân tích, đánh giá và giải quyết vấn đề.  Nhấn mạnh tầm quan trọng của việc tôn trọng phNm giá của cá nhân và những khả năng của họ trong việc thực hiện những quyết định quan trọng: Ý nghĩa của giá trị này là công nhận rằng mỗi khách hàng có những phNm giá và những khả năng đáng để tôn trọng. Họ phải được tôn trọng hơn các đối tượng mục tiêu hoặc các thực thể khác và xứng đáng được chăm sóc bởi vì họ là những cá thể có giá trị và đáng được tôn trọng. Việc tôn trọng phNm giá và năng lực của khách hàng cũng có nghĩa là hoạt động CTXH phải hướng đến việc tạo cơ hội cho khách hàng thể hiện được những cá tính, những năng lực của họ và phải hướng đến việc bảo vệ nhân phNm của khách hàng.  Công nhận sự tự quyết là một quyền cơ bản của cá nhân Ý nghĩa về "giá trị" này cho rằng mỗi cá nhân khách hàng đều có khả năng để hướng dẫn hành động của họ và có khả năng tiềm tàng trong việc xác định mục tiêu và tạo lập những sự thành công cho bản thân của họ. Khách hàng sẽ tự quyết định liệu họ có nên tham gia vào quá trình làm việc giải quyết vấn đề hay không. Sự tự quyết được khẳng định, giải thích và thực hiện ngay từ lúc bắt đầu, trong quá trình và vào thời điểm cuối của quá trình làm việc với các khách hàng. Những sự áp đặt trong quá trình làm việc với khách hàng sẽ dẫn đến sự tước mất quyền tự do lựa chọn và tự quyết của họ và có thể phá vỡ mối quan hệ giữa nhân viên xã hội với khách hàng cũng như có thể làm suy giảm hiêu quả giải quyết vấn đề của khách hàng và những sự thực hiện chức năng xã hội của họ.  Công nhận tính độc đáo của khách hàng: Chính niềm tin vào tính độc đáo của cá nhân và cá tính của họ đã đem lại một phương pháp tiếp cận mới cho CTXH với các trường hợp cá nhân. Đó là việc chấp nhận và xem sự khác biệt là những giá trị đáng quý trọng và có ý nghĩa. Chính sự khác biệt và tính độc đáo này của khách hàng sẽ tạo ra những thế mạnh cho họ trong việc thực hiện các vai trò và chức năng xã hội cũng như qua việc thể hiện sự khẳng định về bản thân họ trong các mối quan hệ xã hội. 3.2. Những nguyên tắc thực hành trong CTXH với các cá nhân và gia đình Để bảo đảm việc tôn trọng các giá trị nghề nghiệp của CTXH nói trên, một bộ nguyên tắc ứng xử đã được xậy dựng lên để hướng dẫn việc thực hành CTXH cho các nhân viên xã hội. Có nhiều nguyên tắc đã được đưa ra, tuy nhiên, 7 nguyên tắc sau đây được xem là quan trọng nhất mà mỗi một nhân viên xã hội cần phải tuân thủ và thực hiện. [1]- Chấp nhận khách hàng [thân chủ] 16 Khách hàng phải được chấp nhận với mọi phNm chất tốt và xấu, những điểm mạnh và yếu mà không có sự phán xét đến các hành vi của họ là đúng hay sai, hoặc không có một điều kiện nào cả. Điều này thể hiện sự tôn trọng những giá trị bản thân của các nhân khách hàng bất kể địa vị xã hội, thành phần xuất thân hoặc hành vi của họ là như thế nào. Tuy nhiên, việc chấp nhận khách hàng không đồng nghĩa với việc tha thứ cho những hành vi mà xã hội không chấp nhận. Sự chấp nhận này chỉ có nghĩa là thể hiện sự quan tâm và thiện chí muốn giúp đỡ khách hàng với tư cách là một con người cần được giúp đỡ chứ không phải vì hành vi của họ19. [2] - Thái độ không kết án khách hàng Thái độ không kết án thể hiện qua việc không tỏ vẻ bất bình, buộc tội hoặc đưa ra những lời phê phán về hành vi của khách hàng. Thái độ kết án và xem thường khách hàng là những thái độ không được chấp nhận trong thực hành CTXH nói chung và với các cá nhân hoặc các gia đình nói riêng. Tuy nhiên, điều này cũng không có nghĩa là nhân viên xã hội biện hộ hay bảo vệ cho khách hàng. Việc giữ quan điểm trung lập, không phê phán này sẽ giúp cho nhân viên xã hội tạo được niềm tin ở khách hàng để họ có thể cảm thấy thoải mái khi bày tỏ vấn đề của họ trong quá trình xác định và đánh giá vấn đề ban đầu của khách hàng20. [3] – Tôn trọng quyền tự quyết của khách hàng Nguyên tắc này cho rằng các cá nhân khách hàng hoặc các gia đình có quyền đưa ra những quyết định có liên quan đến vấn đề và cuộc sống của họ và gia đình họ. Người khác không có quyền quyết định thay cho họ. Tuy nhiên, trong những trường hợp khách hàng gặp khó khăn trong việc tự quyết định thì nhân viên xã hội có thể hướng dẫn và giúp đỡ họ để họ có thể tự đưa ra quyết định. Tuy nhiên, quyền tự quyết cũng không phải là một quyền tuyệt đối. Những quyết định mà khách hàng đưa ra phải nằm trong phạm vi quy định của xã hội và không gây tổn hại đến người khách hoặc có hại cho chính bản thân khách hàng. Khách hàng phải tự chịu trách nhiệm về những quyết định do bản thân họ đưa ra21. Việc tôn trọng quyền tự quyết của khách hàng cũng chính là cách để khuyến khích khách hàng tham gia tích cực và thể hiện trách nhiệm của họ trong quá trình giải quyết vấn đề của họ22. [4] – Khuyến khích khách hàng tham gia giải quyết vấn đề Khách hàng sẽ cảm thấy tự tin để tham gia giải quyết vấn đề của họ khi được khuyến khích hoặc hướng dẫn để đưa ra những quyết định liên quan đến quá trình giải quyết vấn đề. Không ai có thể hiểu được những nguyên nhân gây ra vấn đề khó khăn của khách hàng bằng họ. Nhân viên xã hội không ở trong hoàn cảnh của khách hàng để có thể hiểu được rõ ràng những vấn đề đó. Việc khuyến khích khách hàng tham gia vào quá trình giải quyết vấn đề của họ cũng sẽ giúp 19 Lê Chí An [2006]: Công tác Xã hội Cá nhân, Tài liệu giảng dạy [lưu hành nội bộ] – Trường Đại học Mở thành phố Hồ Chí Minh, [trang 16-20] 20 - như trên- 21 - như trên- 22 Tôn-Nữ Ái-Phương [2011]: Bài giảng Công tác Xã hội với Cá nhân, Trường Đại học Mở thành phố Hồ Chí Minh 17 nhân viên xã hội có những đánh giá đúng đắn về vấn đề của khách hàng về những khả năng của khách hàng để có thể giúp đưa ra những biện pháp giải quyết phù hợp với nhu cầu và hoàn cảnh của khách hàng23. [5] – Cá nhân hóa khách hàng Mỗi khách hàng [cho dù là cá nhân hay gia đình] đều có những cá tính hoặc những đặc điểm riêng của họ. Những đặc điểm này là khác nhau giữa người và người, giữa các gia đình với nhau bởi chúng xuất phát từ những hoàn cảnh xã hội, kinh nghiệm sống riêng của họ. Những vấn đề và nhu cầu cần giúp đỡ của khách hàng cũng sẽ khác nhau bởi vì chúng xuất phát từ những hoàn cảnh khác nhau của khách hàng. Trong thực hành CTXH không có một khuôn mẫu nào để giải quyết những vấn đề cũng như các nhu cầu khác nhau của khách hàng. Các nhân hóa khách hàng là tôn trọng những sự khác biệt của họ và cũng sẽ giúp nhân viên xã hội có thể phát hiện ra những điểm mạnh của khách hàng để phát huy trong quá trình cùng khách hàng tham gia giải quyết vấn đề24. [6] - Bảo vệ bí mật cho khách hàng Bảo vệ bí mật cho khách hàng là yêu cầu đạo đức đối với nghề CTXH. Nhân viên xã hội có nhiệm vụ phải tôn trong và bảo vệ bí mật tuyệt đối tất cả những thông tin liên quan đến khách hàng hoặc được khách hàng cung cấp trong quá trình giúp đỡ họ. Những thông tin của khách hàng chỉ có thể chia sẻ với những người có liên quan đến việc hỗ trợ giải quyết vấn đề của chính khách hàng đó với điều kiện khách hàng sẽ được thông báo, được giải thích và hiểu rõ lý do cần phải chia sẻ thông tin, và bản thân khách hàng đồng ý với việc đó. Tuy nhiên, trong những trường hợp khNn cấp, thông tin bí mật của khách hàng vẫn có thể được bộc lộ và chia sẻ với các cơ quan chức năng có thNm quyền nếu nhân viên xã hội xét thấy việc giữ bí mật thông tin đó sẽ khiến cho sự an toàn của cộng đồng, người khác hoặc bản thân của khách bị nguy hiểm25. [7] – Can thiệp/ giúp đỡ có sự kiểm soát Trong quá trình hỗ trợ, nhân viên xã hội phải thiết lập được mối quan hệ tốt với khách hàng để có thể tạo được niềm tin của khách hàng và từ đó khách hàng mới có thể cảm thấy thoái mái và tự tin khi trình bày vấn đề của mình. Nhân viên xã hội có thể đặt mình vào vị trí của khách hàng để hiểu được những hành vi và cảm xúc của khách hàng. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là nhân viên xã hội sẽ chia sẻ và đồng lòng với những hành vi và cảm xúc đó của khách hàng mà cần phải giữ một khoảng cách để có thể có những nhận định khách quan về vấn đề của khách hàng. Do vậy, mối quan hệ giữa nhân viên xã hội và khách hàng phải là quan hệ được xây dựng trên cơ sở là một mối quan hệ nghề nghiệp và nhân viên xã hội phải biết cách để tự kiểm soát cảm xúc của mình trong quá trình hỗ trợ khách hàng. 4. Các thành phần và mối quan hệ trong CTXH với các cá nhân và gia đình 23 - như trên- 24 Tôn-Nữ Ái-Phương [2011]: Bài giảng Công tác Xã hội với Cá nhân, Trường Đại học Mở thành phố Hồ Chí Minh 25 - như trên- 18 4.1. Các thành phần [hay còn gọi là các nhân tổ] trong CTXH với các cá nhân và gia đình CTXH với các cá nhân và gia đình được Helen Harris Perlman định nghĩa là: “ một tiến trình được sử dụng bởi bất kỳ các cơ quan phúc lợi của con người nào trong việc giúp đỡ các cá nhân đối phó với một cách có hiệu quả hơn với các vấn đề mà họ gặp phải trong sự thực hiện chức năng xã hội của họ” 26. Theo định nghĩa này, chúng ta có thể thấy rõ có 4 thành phần [nhân tố] cơ bản trong thực hành CTXH với các cá nhân và gia đình, cụ thể là như sau: 1. Con người: gồm có khách hàng là các cá nhân hoặc gia đình cần sự trợ giúp và NVXH 2. Vấn đề: khó khăn trở ngại mà các cá nhân hoặc gia đình đang gặp phải 3. Cơ quan: tổ chức cung cấp dịch vụ, đại diện cho tổ chức là NVXH người có chuyên môn CTXH 4. Phương pháp/Tiến trình: là các hoạt động đi theo các bước tuần tự với các hoạt động nhằm nâng cao sự thực hiện chức năng XH của các cá nhân hoặc gia đình để nâng cao khả năng tự giải quyết vấn đề của họ. 4.1.1 Con người Trong CTXH với cá nhân, yếu tố con người được đề cập ở đây là khách hàng [thân chủ] [clients] và nhân viên CTXH [hoặc gọi tắt là NVXH] [social workers] Khách hàng [thân chủ]: là cá nhân hoặc gia đình có vấn đề hoặc đang gặp khó khăn. Họ đang cần sự giúp đỡ bởi nhiều lý do khác nhau, họ có những mối quan tâm, mong muốn và những nhu cầu không đáp ứng được do sự suy giảm khả năng thực hiện chức năng xã hội của bản thân của cá nhân hoặc của gia đình và họ tìm đến nhân viên xã hội để nhờ giúp đỡ. Nhân viên xã hội [NVXH]: là người có trách nhiệm giúp đỡ khách hàng. Họ có thể là những người làm việc trong các cơ sở của nhà nước, đoàn thể xã hội, tôn giáo, tư nhân và được đào tạo về chuyên ngành CTXH Lưu ý: Mỗi cá nhân luôn thay đổi và hoàn chỉnh qua quá trình đời sống của họ, các vấn đề của họ và cách thức giải quyết vấn đề cũng sẽ chịu ảnh hưởng của những quá trình thay đổi này. Khi làm việc với các cá nhân có vấn đề về tâm lý xã hội, việc đánh giá thế mạnh của cá nhân và năng lực để giải quyết vấn đề của họ là hết sức quan trọng. 4.1.2 Vấn đề 26 Xem mục 3.1 của bài này 19 Vấn đề: là tình huống gây khó khăn, cản trở khách hàng [thân chủ] trong việc thực hiện các chức năng và vai trò xã hội của họ mà bản thân họ không thể tự vượt qua được. Những vấn đề khó khăn mà các cá nhân và gia đình thường gặp là:  Nhu cầu cơ bản không được đáp ứng  Khó khăn trong mối quan hệ với cá nhân hoặc gia đình  Khó khăn do thiếu kỹ năng, thiếu tài nguyên, trình độ học vấn thấp  Khó khăn về cảm xúc trước một thử thách nặng nề hay các nhân tố tâm lý xã hội liên quan đến sức khỏe bệnh tật Vấn đề của các cá nhân và các gia đình xảy ra là khi nhu cầu của họ không được đáp ứng, họ gặp phải những trở ngại, họ bị thất vọng về một điều gì đó trong cuộc sống hoặc không thích nghi được với môi trường mà tự bản thân họ không thể vượt qua. Những yếu tố này đe dọa cuộc sống của họ, khiến họ hoạt động không hiệu quả, kém thích nghi. Lưu ý: Vấn đề của thân chủ thường phức tạp và đa dạng. Do vậy cần "chia nhỏ" vấn đề để giải quyết. Thân chủ và NVXH cần cùng làm việc để xác định vấn đề ưu tiên, vấn đề trọng tâm để giải quyết trong các vấn đề thân chủ đang gặp phải. 4.1.3 Cơ quan/ Địa điểm Địa điểm: là nơi có thể giúp khách hàng trình bày vấn đề của họ để tìm ra hướng giải quyết vấn đề, thường là nơi cung cấp các dịch vụ hỗ trợ, như là văn phòng của các cơ quan xã hội, phòng tư vấn,… Tổ chức / cơ quan xã hội: là nơi cung cấp các dịch vụ giúp cá nhân hoặc gia đình vượt qua khó khăn. Đây là các cơ quan, tổ chức xã hội được thiết lập để giải quyết các vấn đề xã hội của con người, giúp những người đang gặp phải những vấn đề trong cuộc sống. Các cơ quan, tổ chức xã hội ấy có thể là chính phủ, phi chính phủ, cơ sở tư nhân. Lưu ý: - Mỗi tổ chức xã hội đều có những quan điểm, chức năng riêng biệt và phục vụ cho một hoặc nhiều loại đối tượng khác nhau [trẻ đường phố, trẻ khuyết tật, người già neo đơn, phụ nữ nghèo,…]. Các dịch vụ do tổ chức xã hội cung cấp, hỗ trợ thân chủ trong phạm vị chức năng và nguồn lực của gia đình. - Tổ chức xã hội đôi khi cũng đóng vai trò giới thiệu thân chủ đến những tổ chức xã hội khác khi họ có nhiều vấn đề khác nhau. 4.1.4. Phương pháp / Quy trình hỗ trợ khách hàng [thân chủ] Một công việc bất kỳ nào đó nếu muốn thực hiện có hiệu quả đều cần phải có phương pháp làm việc tốt và có trình tự thực hiện hợp lý. Thực hiện CTXH với các cá nhân và gia đình cũng không phải là một ngoại lệ. Để công việc giúp đỡ các cá nhân và gia đình giải quyết những vấn đề của họ được thực hiện tốt, NVXH phải thực hiện các công việc sau tuần tự theo từng bước một: tìm hiểu vấn đề [thông tin các nguyên nhân hoặc sự kiện liên quan đến vấn đề], phân tích vấn để [sắp xếp các thông tin tìm hiểu được, đánh 20 giá/chNn đoán mức độ nguy hại của vấn đề,…] và đưa ra các biện pháp và thực hiện việc chữa trị/ xử lý vấn đề [phân tích, chọn lựa các giải pháp khả thi, lập kế hoạch và thực hiện các giải pháp được chọn, và tìm kiếm các nguồn lực hỗ trợ. Trong số các phương pháp và quy trình giải quyết vấn đề đã được đưa ra trong thực hành, quy trình giải quyết vấn đề do Helen Harris Perlman tổng hợp sau nhiều năm kinh nghiệm trong thực hành CTXH với các cá nhân và gia đình được đánh giá là một quy trình hoàn chỉnh và đã có ảnh hưởng rất lớn trong việc thực hiện CTXH với các cá nhân và gia đình và đã được áp dụng rộng rãi trong hấu hết tất cả các hoạt động CTXH tổng quát trên thế giới. Ở Viêt Nam, quy trình này cũng được sử dụng rộng rãi trong hoạt động CTXH với các các nhân và gia đình trong suốt hơn 5 thập kỷ vừa qua. Quy trình này sẽ được giới thiệu chi tiết trong phần tiếp sau đây. 4.2. Mối quan hệ giữa nhân viên xã hội với khách hàng Mối quan hệ giữa NVXH với khách hàng là quan hệ mang tính nghề nghiệp và có tính tích cực, trong đó NVXH đóng các vai trò như sau trong quá trình hỗ trợ khách hàng27: [1] - Người giáo dục [teacher/ educator]: vai trò của người giáo dục là tìm phương cách chuyển thông tin đến thân chủ một cách tốt nhất; giáo dục gây ý thức, giúp họ thay đổi nhận thức và hành vi. [2] - Người trung gian/ cầu nối [broker]: đây là vai trò mà nhân viên xã hội giúp cho một hay nhiều đối tường cùng thấy một quan điểm chung và giúp cho họ cùng hiểu quan điểm của nhau. Nhân viên xã hội là người hiểu rõ nhu cầu của thân chủ và các nguồn tài nguyên trong cộng đồng. Vì vậy, nhân viên xã hội phải tích cực nối kết thân chủ với các nguồn tài nguyên phù hợp. [3] - Người hỗ trợ/ tạo điều kiện thuận lợi [facilitator]: là người thực hiện vai trò hỗ trợ và tạo điều kiên chon khách hàng thực hiện những khả năng bào luận, chọn lựa, đưa ra quyết đinh và tự hành động để giải quyết vấn đề theo hoàn cảnh, khả năng và kiến thức riêng của họ [4] - Người bênh vực/ biện hộ [advocator]: đây là một trong những vai trò quan trọng của nhân viên xã hội. Với tư cách là người đại diện cho tiếng nói của khách hàng [thân chủ], NVXH sẽ đề đạt đến các cơ quan thNm quyền và các tổ chức xã hội những vấn đề bức xúc của thân chủ để đòi hỏi những lợi ích hợp pháp của thân chủ. NVXH thực hiện vai trò này với sự ủy quyền của khách hàng [thân chủ] [5] - Người tư vấn [hay còn gọi là tham vấn] [counselor]: NVXH cũng cung cấp những sự hỗ trợ và tư vấn về tâm lý, giúp cho thân chủ bộc lộ vấn đề và quan điểm của mình, giải tỏa được những vướng mắc về tâm lý và có thể vượt qua khó khăn bằng chính sức mạnh của mình. CHƯƠNG 5: QUY TRÌNH GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ TRONG CTXH VỚI CÁC CÁ NHÂN VÀ GIA ĐÌNH 27 Nguyễn Thị Thu Hà [2009]: Tài liệu giảng dạy: Công tác xã hội cá nhân 21 Helen Harris Perlman [1906-2004] là người xây dựng một phương pháp CTXH với các cá nhân và gia đình từ những kinh nghiệm thực hành CTXH của bản thân sau một thời gian dài làm việc trong ngành CTXH. Phương pháp làm việc do bà đưa ra đã được công nhân và áp dụng rộng rãi trên thế giới trong nhiều thập kỷ qua. Theo Perlman, phương pháp này được thực hiện theo một quy trình giải quyết vấn đề gồm có 7 bước như sau28: [1] - Xác định vấn đề ban đầu Vấn đề phải được xác định bởi khách hàng [với sự giúp đỡ của NVXH nếu cần], phải được nhận biết, gọi tên và đặt vào vị trí trung tâm của sự chú ý. [2] Thu thập thông tin Thông tin liên quan đến những kinh nghiệm chủ quan của khách hàng về vấn đề mà họ gặp phải được xác định: khách hàng cảm thấy thế nào, khách hàng nhìn nhận vấn đề và diễn dịch nó như thế nào, vấn đề đó đã ảnh hưởng việc gây ra vấn đề, làm nó trở nên trầm trọng, trốn tránh nó hoặc giải quyết nó của khách hàng là như thế nào. [3] Đánh giá tầm quan trọng hoặc mức độ nguy hiểm của vấn đề Những sự kiện liên quan đến những nguyên nhân và hậu quả của vấn đề và cách thức mà nó thâm nhập hoặc ảnh hưởng đến con người khách hàng trong không gian cuộc sống của họ cũng phải được xác định và kiểm tra. [4] Lên kế hoạch can thiệp / giúp đỡ Tìm kiếm những phương tiện có thể có và các cách giải quyết vấn đề phải được vạch ra và được xem xét, những chọn lựa khác nhau phải được cân nhắc hoặc làm thử để trao đổi những ý kiến và những phản ứng trước khi thật sự thực hiện hành động can thiệp/ giúp đỡ. [5] Thực hiện kế hoạch can thiệp/ giúp đỡ Một sự chọn lựa hoặc một quyết định nào đó sẽ được đưa ra như là kết quả của những suy nghĩ và cảm nhận thông qua việc nhận biết những hành vi hoặc những phương tiện vật chất nào đó đã tạo ra những tác động đối với vấn đề hoặc đối với cách thức mà khách hàng đề cập đến vấn đề khó khăn của họ. [6] Giám sát và lượng giá Thực hiện hành động trên cơ sở của việc đánh giá này sẽ giúp kiểm tra xem thử quyết định được đưa ra có thực hiện được hay không. Các bước hành động tiếp theo sẽ được xem xét đề củng cố hoặc mở rộng những cố gắng, hoặc nếu thấy cần thiết, thì có thể thảo luận các hành động thay thể khác, hoặc thay đổi các hoạt động hoặc quyết định tiếp tục. Việc giám sát và lượng giá là rất quan trọng trong việc quyết định hướng đi của các hoạt động giải quyết vấn đề. 28 Erlinda Albaracin and Dolores Rubia [2010]: Social Work with Individuals and Families [CFSI-ULSA project] 22 [7] Chấm dứt Thực hiện những sự chuNn bị cho khách hàng để chấm dứt sụ giúp đỡ khi thấy rằng sự giúp đỡ đã có hiệu quả đối với khách hàng và khách hàng đã có thể tự giải quyết được vấn đề của họ hoặc đã vượt qua được những khó khăn của họ. Sự chấm dứt hoạt động hỗ trợ cũng diễn ra nếu khách hàng quyết định không muốn tiếp tục sử dụng dịch vụ nữa, hoặc là khách hàng đã chết vì một lý do nào đó và NVXH không thể tiếp tục giúp đỡ họ nữa. Perlman cũng lưu ý rằng khi áp dụng quy trình này trong việc thực hiện CTXH với khách hàng là các cá nhân và gia đình, NVXH cần chú trọng đến những điều sau đây:  Vấn đề là những khó khăn, trở ngại cá nhân khách hàng gặp phải, nó cần được xác định bởi cá nhân khách hàng [thân chủ] và NVXH.  Những kinh nghiệm chủ quan của cá nhân cần phải được xác định ví dụ như khách hàng [thân chủ] cảm thấy thế nào, họ đánh giá và diễn tả các cảm xúc ra sao. Chúng đã tác động như thế nào tới khách hàng [thân chủ] .  Các sự kiện liên quan đến nguyên nhân và ảnh hưởng của vấn đề tới cuộc sống của khách hàng [thân chủ] phải được xác định và kiểm tra.  Cần xác định các giải pháp khả thi, các phương tiện và phương thức thay thế phải được cân nhắc và thảo luận với khách hàng [thân chủ].  Những lựa chọn hay quyết định được thực hiện chỉ sau khi có thảo luận, cân nhắc nhiều khía cạnh như khả năng của khách hàng [thân chủ] những phương tiện hay cộng cụ cần có…  Cần kiểm tra tính khả thi của quyết định, các bước tiếp theo cũng cần được kiểm tra, theo dõi, nếu có sự tiến bộ cần được củng cố. Bên cạnh đó cũng cần xem xét những giải pháp thay thế, thậm chí thay đổi những quyết định trước đây nếu không phù hợp.  Hoạt động giám sát và đánh giá, rất cần thiết cho việc xem xét kết quả, đánh giá những tiến bộ, và phòng ngừa những lệch lạc trong quá trình giải quyết vấn đề. CHƯƠNG 6: NHỮNG LÝ THUYẾT VÀ CÔNG CỤ CƠ BẢN CẦN THIẾT CHO THỰC HÀNH CTXH VỚI CÁC CÁ NHÂN VÀ GIA ĐÌNH Để thực hiện CTXH với các cá nhân và gia đình có hiệu quả, NVXH cần phải được đào tạo một cách bài bản để có thể hành động mộtc cách chuyên nghiệp. Phần sau đây sẽ giới thiệu một số lý thuyết và công cụ cơ bản cần thiết cho thực hành CTXH với các cá nhân và gia đình. Các lý thuyết cơ bản nhất và thường được sử dụng ở Việt Nam gồm có: - Các lý thuyết về các hệ thống xã hội và môi trường sinh thái, lý thuyết con-người trong môi trường - Các lý thuyết về tâm lý năng động, hành vi và tâm lý xã hội - Các lý thuyết về sức mạnh và khả năng phục hồi 23 1. Các lý thuyết về hệ thống xã hội và môi trường sinh thái 29 Các quan điểm về các hệ thống đóng vai trò quan trọng trong công tác xã hội bởi vì các quan điểm này tập trung vào khía cạnh xã hội, tương phản với tham vấn, trị liệu tâm lý hay nhiều hoạt động chuyên nghiệp về chăm sóc giúp đỡ vốn chỉ chú trọng vào cá nhân bệnh nhân hay khách hàng. Tuy nhiên, cách tiếp cận của các quan điểm này với các vấn đề xã hội chủ yếu là làm việc với cá nhân, giúp cá nhân thích hợp với trật tự xã hội hiện tại, vì thế các quan điểm này chủ yếu là hướng vào việc làm thay đổi cá nhân. Công tác xã hội quan tâm tới sự nối kết xã hội của con người và các mối quan hệ xã hội của họ, và các mục tiêu xã hội như công bằng xã hội hoặc thay đổi xã hội cũng như công việc liên quan đến sự tương tác giữa người và người. Điều này có nghĩa là chúng ta cần phải suy nghĩ về những yếu tố con người và xã hội trong bất kỳ tình huống xã hội nào và đồng thời cũng xem những yếu tố đó tương tác với nhau ra sao để gắn kết lại thành một tổng thể. Lý thuyết hệ thống nhấn mạnh đến quá trình tức là các mối quan hệ và tương tác xảy ra như thế nào, nội dung và kết quả ra sao. Nhân viên xã hội có thể nhận diện những kỹ năng và những mối quan hệ tích cực là một phần cuộc sống của ai đó mà có thể được chuyển biến sang những tình huống khác ở nơi đang có khó khăn. Cũng sẽ có ích nếu chúng ta có thể xác định được làm thế nào mà những tương tác giữa các hệ thống với nhau tạo ra những vấn đề đối với một lĩnh vực không mong muốn trong cuộc sống. Ví dụ, mối quan hệ tiêu cực trong gia đình làm giảm sút ảnh hưởng của gia đình trong việc giúp trẻ vượt qua khó khăn ở trường.  Làm việc với người khác là một phần quan trọng của lý thuyết về các hệ thống. Điều này nhấn mạnh đến cách làm việc gián tiếp với các cơ quan khác hay với những gia đình và mạng lưới sẽ cho phép tạo ra những ảnh hưởng như thế nào đến thân chủ.  Làm việc chung cũng là một sản phNm của ý tưởng hệ thống; nhân viên được xem là một tác nhân tương tác với những mạng lưới nối kết với thân chủ, với những đồng nghiệp và với các cơ quan. Lý thuyết về các hệ thống có tác động quan trọng đến ngành công tác xã hội trong những năm 1970 và là một chủ đề từng được tranh cãi trong một thời gian dài. Lý thuyết hệ thống nổi tiếng trong CTXH với các cá nhân và gia đình là: - Lý thuyết gia đình - Lý thuyết hệ thống sinh thái - Lý thuyết con người-trong-môi trường [hay còn gọi là con người trong hoàn cảnh] 1.1 – Lý thuyết gia đình: Lý thuyết gia đình xuất phát từ quan điểm xã hội học cho rằng “gia đình là một thể chế của xã hội”. 29 Malcom Payne [2005, 3rd edition]: Modern Social Work Theory [p.142-147] [trích dịch] 24 “Điều đó có nghĩa là mỗi con người ngày từ lúc sinh ra đã bị đặt vào trong những quan hệ gia đình nhất định. Nói cách khác, đời sống xã hội của mỗi con người thường bắt đầu diễn ra trong phạm vi gia đình. Và trong suốt cuộc sống của mỗi người, gia đình luôn luôn là một môi trường xã hội tác động mạnh mẽ đến những định hướng xã hội, những hành vi xã hội của mình” 30 Các nhà xã hội học cũng đều thừa nhân rằng gia đình là một cơ thể sống, nằm trong một quá trinh phát triển không ngừng, gắn chặt với sự phát triển chung của xã hội….do vậy các chức năng của gia đình cũng sẽ có những biến đổi gắn liền theo sự biến đổi của xã hội. Lý thuyết này được sử dụng trong công tác xã hội để đánh giá những mối quan hệ tương tác giữa hệ thống gia đình với các cá nhân trong gia đình và những ảnh hưởng của gia đình [bao gồm nguồn gốc, văn hóa gia đình và sự thực hiện chức năng xã hội] tạo ra đối với các thành viên trong gia đình. Trong những năm 1970s, Tiến sỹ Murray Bowen đã xây dựng mô hình các hệ thống gia đình trong những công trình nghiên cứu của ông và từ đó đã phát triển khái niệm sơ đồ phả hệ hay còn được gọi là sơ đồ thế hệ. Sơ đồ phả hệ đến này đã trờ thành một công cụ được sử dụng phố biến trong công tác xã hội với các cá nhân và gia đình để miêu tả cấu trúc của một gia đình và những mối quan hệ tương tác trong hệ thống gia đình của khách hàng, và để đánh giá nguồn gốc của một số vấn đề liên quan như đặc điểm di truyền, sự phát triển của hành vi, quan hệ xung đột,… Theo một số quan điểm về ứng dụng của sơ đồ này trong CTXH với các các nhân và gia đình khi trong quá trình đánh giá và phân tích nguồn gốc vấn đề của gia đình thì sơ đồ này nên thể hiện ít nhất là ba thế hệ. Sơ đồ phả hệ: Sau đây là một mẫu sơ đồ phả hệ của một gia đình khách hàng trong thực hành CTXH với cá nhân. 30 Thanh Lê , Tuệ Nhân [2000]: Xã hội học chuyên biệt, Nhà Xuất bàn Khoa học Xã hội. 25 Một số các ký hiệu thường được sử dụng trong sơ đồ phả hệ gia đình Các thành viên trong gia đình nam giới nữ giới những cá nhân [nam/ nữ] là khách hàng chính/ trực tiếp Mang thai SNy thai mắc bệnh Phá thai con nuôi song sinh khác trứng song sinh cùng trứng Liên kết Kết hôn Ly hôn Ly thân Cặp đôi không kết hôn Kết hôn nhiều lần

Video liên quan

Chủ Đề