Tại sao nghiệp vụ chiết khấu giấy tờ có giá hiện đang được áp dụng hạn chế tại việt nam?

Những hạn chế của pháp luật điều chỉnh hoạt động đầu tư trái phiếu doanh nghiệp và hoạt động chiết khấu giấy tờ có giá của ngân hàng thương mại

01/07/2014

ThS. NGUYỄN NGỌC LƯƠNG

Đoàn khối Các cơ quan trung ương

PGS.TS. PHẠM THỊ GIANG THU

Đại học Luật Hà Nội

Từ viết tắt In trang Gửi tới bạn

(LTS). Sau một quá trình nghiên cứu và đánh giá việc thực thi pháp luật điều chỉnh hoạt động các ngân hàng thương mại hiện nay[1], các tác giả đề cập đến những hạn chế của pháp luật khi điều chỉnh hoạt động đầu tư của ngân hàng thương mại và hoạt động chiết khấu giấy tờ có giá trong bài viết này.

Tại sao nghiệp vụ chiết khấu giấy tờ có giá hiện đang được áp dụng hạn chế tại việt nam?

Ảnh minh họa: nguồn internet

1. Quy định pháp luật gắn với hoạt động đầu tư trái phiếu doanh nghiệp và thực hiện chiết khấu giấy tờ có giá của ngân hàng thương mại

Theo khoản 1, 2, 3 tại Điều 3 Luật Đầu tư 2005, “đầu tư” được hiểu là việc bỏ vốn để hình thành tài sản nhằm tiến hành hoạt động đầu tư; đầu tư có thể là đầu tư trực tiếp hoặc đầu tư gián tiếp, theo đó, đầu tư gián tiếp là “đầu tư thông qua việc mua cổ phần, cổ phiếu, trái phiếu, các giấy tờ có giá khác… mà nhà đầu tư không trực tiếp tham gia quản lý hoạt động đầu tư”. Như vậy, hoạt động đầu tư này có thể là đầu tư vào chứng khoán vốn hoặc chứng khoán nợ và có thể trực tiếp tham gia hay không trực tiếp tham gia quản lý vốn đầu tư.

Theo Điều 107 Luật các Tổ chức tín dụng 2010, hoạt động kinh doanh khác của ngân hàng có nội dung “mua, bán trái phiếu Chính phủ, trái phiếu doanh nghiệp”. Như vậy, đối chiếu với Luật Đầu tư, đây là hoạt động đầu tư của ngân hàng thương mại và trường hợp này được hiểu là đầu tư gián tiếp theo khoản 3 Điều 3 Luật Đầu tư. Điểm chúng tôi muốn nhấn mạnh và chỉ rõ ngay là: Điều 107 Luật các Tổ chức tín dụng 2010 không quy định việc ngân hàng thương mại được mua, bán trái phiếu doanh nghiệp trong thời gian bao lâu và cách thức mua bán như thế nào. Điều 26 Luật Đầu tư cũng không quy định thời gian tối thiểu được cho từng hoạt động đầu tư gián tiếp.

Theo Điều 4, khoản 19 Luật các Tổ chức tín dụng 2010, chiết khấu giấy tờ có giá là mua bán có kỳ hạn hoặc mua bán có bảo lưu quyền truy đòi các công cụ chuyển nhượng, các giấy tờ có giá khác của người thụ hưởng trước khi đến hạn thanh toán. Ngoài các công cụ chuyển nhượng theo Luật Công cụ chuyển nhượng 2005 (hối phiếu đòi nợ, hối phiếu nhận nợ, séc, các công cụ chuyển nhượng khác được chiết khấu), các giấy tờ có giá khác được Ngân hàng Nhà nước quy định rõ: Tín phiếu Ngân hàng Nhà nước, trái phiếu Chính phủ, kỳ phiếu, tín phiếu, trái phiếu của tổ chức tín dụng, tổ chức khác phát hành[1]. Như vậy, nếu bản chất chiết khấu là mua bán, thì có sự xâm thực giữa hoạt động chiết khấu giấy tờ có giá với hoạt động mua bán các chứng khoán nợ là trái phiếu Chính phủ và trái phiếu doanh nghiệp.

Chính từ những điểm còn chưa rõ, thậm chí chồng lấn nêu trên, một loạt các vấn đề đang đặt ra cho các ngân hàng thương mại cũng như cho Nhà nước. Ít nhất, chúng tôi có thể chỉ ra ba điểm lớn: việc cấp phép hoạt động; giới hạn hoạt động; nghĩa vụ thuế giá trị gia tăng và thuế thu nhập doanh nghiệp của ngân hàng thương mại đối với hoạt động mua bán trái phiếu của doanh nghiệp và hoạt động chiết khấu các giấy tờ có giá của ngân hàng thương mại.

2. Việc cấp phép hoạt động đầu tư gián tiếp và cấp phép hoạt động chiết khấu giấy tờ có giá của ngân hàng thương mại

Kiên trì với quan điểm chủ đạo được ghi nhận tại Điều 90 Luật các Tổ chức tín dụng 2010[2], hoạt động đầu tư trái phiếu và hoạt động chiết khấu giấy tờ có giá của ngân hàng thương mại đều phải được Ngân hàng Nhà nước cấp phép “cho từng tổ chức tín dụng”. Trong thực tiễn, Ngân hàng Nhà nước cấp phép không giống nhau cho các hoạt động kinh doanh ngân hàng không khác nhau.

Đối với hoạt động chiết khấu giấy tờ có giá, trong đó có chiết khấu trái phiếu doanh nghiệp, Điều 4 khoản 3 Thông tư 04/2013/TT-NHNN ngày 1/3/2013 của Ngân hàng Nhà nước có quy định rõ “trong giấy phép thành lập và hoạt động do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cấp có ghi nội dung cấp tín dụng dưới hình thức chiết khấu công cụ chuyển nhượng, giấy tờ có giá khác”. Đối với hoạt động mua bán trái phiếu doanh nghiệp, Điều 5 Thông tư 28/2011/TT-NHNN ngày 1/9/2011 của Ngân hàng Nhà nước quy định “Trong giấy phép thành lập và hoạt động do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cấp có ghi nội dung mua trái phiếu doanh nghiệp”[3]. Tuy nhiên, việc mua trái phiếu doanh nghiệp này cần phải được phân định rõ ràng, cụ thể hơn.

Thông tư 28/2012/TT-NHNN ngày 1/9/2011 của Ngân hàng Nhà nước ghi nhận, trái phiếu ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng có thể mua là “trái phiếu doanh nghiệp phát hành để bán lần đầu cho các đối tượng mua trên thị trường sơ cấp”. Ngoài ra, đương nhiên trái phiếu đã phát hành sẽ được mua bán tiếp trên thị trường thứ cấp. Các ngân hàng thương mại nếu có kế hoạch đầu tư gián tiếp thông qua việc sở hữu trái phiếu doanh nghiệp, có thể mua trái phiếu doanh nghiệp trên thị trường sơ cấp hoặc mua trái phiếu doanh nghiệp trên thị trường thứ cấp. Về lý thuyết, theo quy định tại Điều 90 Luật các Tổ chức tín dụng, hoạt động mua trái phiếu cả ở thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp đều phải xin Ngân hàng Nhà nước cấp giấy phép. Câu hỏi đặt ra là: vậy hoạt động mua bán trái phiếu doanh nghiệp trên thị trường thứ cấp có cần phải xin phép Ngân hàng Nhà nước hay không? Nếu phải xin phép Ngân hàng Nhà nước thì xin phép thực hiện hoạt động mua bán trái phiếu doanh nghiệp hay xin phép thực hiện hoạt động chiết khấu giấy tờ có giá, hay xin phép thực hiện hoạt động kinh doanh chứng khoán, hoặc không cần xin phép Ngân hàng Nhà nước? Chúng tôi đưa ra tình hình thực tế đang được thực hiện ở các ngân hàng thương mại hiện nay: Ngân hàng thương mại cổ phần Quân đội (MB) đã có giấy phép hoạt động ngân hàng thực hiện hoạt động “kinh doanh chứng khoán” và hoạt động “mua trái phiếu doanh nghiệp” theo Giấy phép 0054/NH-GP ngày 14/09/1994 của Ngân hàng Nhà nước cấp. Theo giấy phép này, Ngân hàng cổ phần Quân đội đã và đang thực hiện hoạt động mua bán trái phiếu doanh nghiệp trên cơ sở nội dung được “mua trái phiếu doanh nghiệp” và mua bán lại trái phiếu trên cơ sở nội dung được “kinh doanh chứng khoán”[4]. Còn với Ngân hàng China Construction Bank Corporation - Chi nhánh thành phố Hồ Chí Minh, thì ngày 13/02/2014, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước đã ban hành Quyết định số 187/QĐ-NHNN về việc bổ sung nội dung hoạt động vào Giấy phép của Ngân hàng China Construction Bank Corporation – Chi nhánh thành phố Hồ Chí Minh, chấp thuận việc bổ sung và thay thế nội dung hoạt động “Chiết khấu giấy tờ có giá” ghi tại Tiết b Khoản 1 Điều 5 Giấy phép mở Chi nhánh ngân hàng nước ngoài số 271/GP-NHNN ngày 10/12/2009 do Thống đốc Ngân hàng Nhà nước cấp cho Ngân hàng China Construction Bank Corporation – Chi nhánh thành phố Hồ Chí Minh thành: “Chiết khấu, tái chiết khấu công cụ chuyển nhượng và giấy tờ có giá khác”[5]. Hoặc như đối với trường hợp của Tiền phong Bank, ngân hàng này lại xin giấy phép thực hiện hoạt động mua bán và mua bán lại trái phiếu doanh nghiệp. Ngoài ra, rất nhiều ngân hàng thương mại khác vẫn tiến hành mua bán trái phiếu doanh nghiệp đã phát hành mà không xin phép Ngân hàng Nhà nước với lý do tại Thông tư 28/2011/TT-NHNN ngày 1/9/2011 không quy định phải xin cấp phép[6] cho việc mua bán lại trái phiếu doanh nghiệp đã phát hành. Các ví dụ trên cho thấy, không có chuẩn mực hay hướng dẫn cụ thể nào cho hoạt động mua bán/mua bán lại/đầu tư gián tiếp/chiết khấu trái phiếu doanh nghiệp của ngân hàng thương mại. Như vậy, sẽ rất khó cho của Ngân hàng Nhà nước khi xác định tính tuân thủ của ngân hàng thương mại liên quan đến trái phiếu doanh nghiệp và nếu Cơ quan Thanh tra giám sát ngân hàng có các phán quyết không có lợi cho ngân hàng thương mại, thì khó có thể nhận được sự đồng thuận của ngân hàng thương mại.

3. Các giới hạn cấp tín dụng của hoạt động mua bán trái phiếu doanh nghiệp và chiết khấu giấy tờ có giá là trái phiếu doanh nghiệp

Cấp tín dụng luôn được gắn với với các giới hạn an toàn vì nguồn vốn sử dụng để cấp tín dụng chủ yếu từ huy động của người dân và các tổ chức kinh tế. Câu hỏi đặt ra là: hoạt động mua bán trái phiếu doanh nghiệp và chiết khấu công cụ chuyển nhượng và các giấy tờ có giá khác được quy định thế nào và cần hiểu thế nào cho đúng?

Khoản 1 Điều 128 Luật các Tổ chức tín dụng 2010 quy định: “Tổng mức dư nợ cấp tín dụng đối với một khách hàng không vượt quá 15% vốn tự có của ngân hàng thương mại” và cấp tín dụng bao gồm “cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính, bao thanh toán bảo lãnh ngân hàng và các nghiệp vụ cấp tín dụng khác”[7]. Bên cạnh đó, khoản 4 Điều 128 Luật các Tổ chức tín dụng cũng quy định “mức dư nợ cấp tín dụng bao gồm cả tổng mức đầu tư vào trái phiếu do khách hàng phát hành”. Với những quy định pháp luật này, các vấn đề tiếp theo cần phải làm rõ là:

- Nếu ngân hàng mua trái phiếu sơ cấp, bản chất là cho vay đối với tổ chức phát hành trái phiếu, nên quy định giới hạn mua trái phiếu sơ cấp nằm trong giới hạn cấp tín dụng là phù hợp với yêu cầu của việc quy định hạn mức.

- Nếu chiết khấu giấy tờ có giá là trái phiếu doanh nghiệp cũng nằm trong nội hàm của hoạt động cấp tín dụng thì nó cùng nằm trong giới hạn cấp tín dụng của ngân hàng cho một khách hàng

- Nếu mua lại trái phiếu doanh nghiệp dưới hình thức kinh doanh chứng khoán hoặc do hình thức đầu tư trái phiếu không nằm trong phạm vi điều chỉnh của Điều 1, khoản 1, điểm b Thông tư 28/2011/TT-NHNN ngày 1/9/2011 của Ngân hàng Nhà nước như đã dẫn, thì nó có nằm trong giới hạn cấp tín dụng theo Điều 128, khoản 1, 2, 4 hay không, điều này chưa được quy định rõ.

Chúng tôi cho rằng, khoản 4 Điều 128 khi đề cập đến “tổng mức đầu tư vào trái phiếu do khách hàng phát hành” là nói đến việc ngân hàng thương mại đầu tư gián tiếp vào doanh nghiệp phát hành trái phiếu mà không cần biết việc đầu tư đó thực hiện trên thị trường trái phiếu sơ cấp hay thị trường thứ cấp. Tuy nhiên, gắn với cụm từ khách hàng phát hành, lại dẫn đến câu chuyện: việc nhận diện khách hàng có áp dụng đối với doanh nghiệp phát hành chứng khoán hay không, việc nhận diện khách hàng như thế có được hiểu như việc đánh giá xếp hạng tín dụng nội bộ đối với khách hàng theo Điều 93 khoản 2 Luật các Tổ chức tín dụng 2010 hay không? Tất cả những nội dung này, hiện nay pháp luật chưa quy định, làm rõ. Chính sự thiếu rõ ràng và quy định “các hoạt động ngân hàng, hoạt động kinh doanh khác của tổ chức tín dụng quy định tại Luật này và thực hiện theo hướng dẫn của Ngân hàng Nhà nước”[8], nên các ngân hàng thương mại rất dễ lâm vào tình trạng làm trái khi thực hiện hoạt động kinh doanh mà chưa có hướng dẫn cụ thể của Ngân hàng Nhà nước.

4. Nghĩa vụ thuế giá trị gia tăng của ngân hàng thương mại đối với hoạt động mua bán trái phiếu của doanh nghiêp và hoạt động chiết khấu các giấy tờ có giá của ngân hàng thương mại

Ngân hàng thương mại luôn là chủ thể nộp thuế với số tiền thuế rất cao so với các chủ thể là tổ chức kinh tế khác. Đối tượng tính thuế của thuế giá trị gia tăng áp dụng cho ngân hàng thương mại có phần dịch vụ không chịu thuế giá trị gia tăng. Chúng tôi muốn đề cập và làm rõ nội dung này khi phân tích hai hoạt động: chiết khấu giấy tờ có giá và đầu tư vào trái phiếu doanh nghiệp.

Điều 5 khoản 8 Luật Thuế giá trị gia tăng 2008 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2013)[9] quy định, đối tượng không nộp thuế giá trị gia tăng là các dịch vụ tài chính ngân hàng, trong đó dịch vụ cấp tín dụng gồm “cho vay, chiết khấu, tái chiết khấu công cụ chuyển nhượng và các giấy tờ có giá khác; bảo lãnh; cho thuê tài chính; phát hành thẻ tín dụng; bao thanh toán trong nước; bao thanh toán quốc tế; hình thức cấp tín dụng khác theo quy định của pháp luật”. Như vậy, có thể thấy rõ, hoạt động đầu tư trái phiếu doanh nghiệp của ngân hàng thương mại theo Điều 107 Luật các Tổ chức tín dụng 2010 không được quy định trong Luật thuế này như một hình thức cấp tín dụng, bao gồm cả hoạt động mua bán lại ngắn hạn trái phiếu doanh nghiệp còn thời hạn thanh toán (là hình thức chiết khấu giấy tờ có giá). Điều này dẫn đến hệ quả là:

- Nếu hoạt động chiết khấu giấy tờ có giá trong đó có trái phiếu doanh nghiệp, thì ngân hàng thương mại không phải kê khai thuế giá trị gia tăng đối với kết quả hoạt động chiết khấu giấy tờ có giá là trái phiếu doanh nghiệp

- Đối phần thuế giá trị gia tăng đầu vào của hàng hóa dịch vụ sử dụng đồng thời cho hoạt động chịu thuế và hoạt động chiết khấu giấy tờ có giá, thì chỉ được khấu trừ đối với phần tương ứng với tỷ lệ giá trị của kết quả kinh doanh chịu thuế giá trị gia tăng

- Đối với hoạt động đầu tư gián tiếp vào trái phiếu doanh nghiệp, do không phải là hoạt động cấp tín dụng nên sẽ kê khai và nộp thuế giá trị gia tăng bình thường.

Những phân tích này dẫn cho người đọc suy nghĩ: sự không nhất quán trong các quy định pháp luật làm cho việc thực thi quy định pháp luật về thuế không được tôn nghiêm. Đây không phải là sự không nhất quán của hệ thống pháp luật thuế, mà chính là sự không rõ ràng của hệ thống pháp luật ngân hàng, cần được sửa đổi, giải thích rõ ràng và chi tiết hơn so với hệ thống quy định hiện tại./.


[1]Xem thêm: Thực thi pháp luật về giao dịch bảo đảm trong hoạt động cấp tín dụng của ngân hàng thương mại – một số vướng mắc pháp lý và đề xuất hoàn thiện, Tạp chí Luật học, 10/2011; Một vài ý kiến về pháp luật điều chỉnh hoạt động góp vốn, mua cổ phần của ngân hàng thương mại, Tạp chí Dân chủ & Pháp luật, 1/2013 của cùng các tác giả.


[1]Xem Điều 6 Thông tư 04/2013/TT-NHNN ngày 1/3/2013 của Ngân hàng Nhà nước quy định về hoạt động chiết khấu công cụ chuyển nhượng, giấy tờ có giá khác của tổ chức tín dụng, chi nhành ngân hàng nước ngoài đối với khách hàng.

[2]Điều 90, khoản 2 Luật các Tổ chức tín dụng 2010 quy định: Tổ chức tín dụng không được tiến hành bất kỳ hoạt động kinh doanh nào ngoài các hoạt động ngân hàng, hoạt động kinh doanh khác ghi trong Giấy phép được Ngân hàng Nhà nước cấp cho tổ chức tín dụng.

[3]Xem: Thông tư 28/2011/TT-NHNN ngày 1/9/2011 quy định việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua trái phiếu doanh nghiệp

[4]Xem: https://www.mbbank.com.vn

[5] Xem :http://www.sbv.gov.vn/portal/faces/vi/vilinks/videtail/

[6] Điều 1 khoản 1 điểm b Thông tư 28/2011/TT-NHNN ngày 1/9/2011 quy định: Thông tư này không quy định việc mua, bán trái phiếu do tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài phát hành; mua, bán lại trái phiếu doanh nghiệp giữa các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài với nhau; mua, bán lại trái phiếu doanh nghiệp giữa tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài với cá nhân và tổ chức không phải là tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; mua, bán trái phiếu phát hành trên thị trường quốc tế.

[7] Xem Điều 4, khoản 14 Luật các Tổ chức tín dụng 2010.

[8] Điều 90, khoản 3 Luật các Tổ chức tín dụng 2010.

[9] Luật này có hiệu lực từ 1/1/2014 (trừ quy định về thuế suất 5% đối với bán, cho thuê, cho thuê mua nhà ở xã hội tại khoản 3 Luật Thuế giá trị gia tăngsửa đổi, bổ sung 2013.

(Nguồn tin: Bài viết đăng tải trên Ấn phẩm Nghiên cứu lập pháp số 14(270), tháng 7/2014)

Chiết khấu (Discount)

Khái niệm

Chiết khấu trong tiếng Anh gọi là Discount.

Chiết khấu là một nghiệp vụ tín dụng ngắn hạn của ngân hàng thương mại, trong đó khách hàng chuyển nhượng quyền sở hữu những giấy tờ có giá chưa đến hạn thanh toán cho ngân hàng thương mại để nhận lấy một khoản tiền bằng giá trị đến hạn trừ đi lợi tức chiết khấu và hoa hồng phí.

Theo Luật các tổ chức tín dụng 47/2010/QH12: "Chiết khấu là việc mua có kì hạn hoặc mua có bảo lưu quyền truy đòi các công cụ chuyển nhượng, giấy tờ có giá khác của người thụ hưởng trước khi đến hạn thanh toán".

Các loại giấy tờ có giá thực hiện chiết khấu

- Các công cụ chuyển nhượng

Theo Luật các công cụ chuyển nhượng năm 2005: "Công cụ chuyển nhượng là giấy tờ có giá ghi nhận lệnh thanh toán hoặc cam kết thanh toán không điều kiện một số tiền xác định vào một thời điểm nhất định".

Công cụ chuyển nhượng được thực hiện chiết khấu bao gồm:

Hối phiếu: Là công cụ của tín dụng thương mại, là một giấy nợ phát sinh trong quan hệ thương mại, dùng để xác nhận cho người cầm nó (người thụ hưởng) một trái quyền ngắn hạn về tiền đối với người thụ lệnh khi giấy nợ đến hạn.

Hối phiếu có hai loại cơ bản: Hối phiếu đòi nợ và hối phiếu nhận nợ.

Các giấy tờ có giá khác

- Tín phiếu Ngân hàng Nhà nước

- Trái phiếu Chính phủ

- Trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh

-Trái phiếu Chính quyền địa phương

- Kì phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu do tổ chức tín dụng phát hành theo qui định Ngân hàng Nhà nước.

- Kì phiếu, tín phiếu, trái phiếu do tổ chức khác phát hành và được chiết khấu theo qui định của pháp luật hiện hành.

Các hình thức chiết khấu

- Mua có kì hạn giấy tờ có giá: Là việc ngân hàng mua và nhận chuyển nhượng quyền sở hữu giấy tờ có giá chưa đến hạn thanh toán từ khách hàng đồng thời khách hàng cam kết sẽ mua lại giấy tờ có giá đó sau một khoảng thời gian xác định tại hợp đồng chiết khấu.

- Mua có bảo lưu quyền truy đòi giấy tờ có giá: Là việc ngân hàng mua và nhận quyền sở hữu giấy tờ có giá chưa đến hạn thanh toán từ khách hàng, khách hàng có trách nhiệm hoàn trả đối với số tiền chiết khấu, lãi chiết khấu và các chi phí hợp pháp khác có liên quan đến hoạt động chiết khấu.

Trong trường hợp ngân hàng không nhận đầy đủ số tiền thanh toán từ người có trách nhiệm thanh toán giấy tờ có giá.

Ưu điểm

- Chiết khấu là nghiệp vụ ít rủi ro, khả năng thu hồi nợ của ngân hàng là khá chắc chắn. Ưu điểm này xuất phát từ đặc điểm của hối phiếu là có tính đảm bảo cao cho người thụ hưởng.

- Đây là hình thức tín dụng khá đơn giản, ít phiền phức đối với ngân hàng, bởi thủ tục và quy trình cho vay khá đơn giản.Chiết khấu không làm "đóng băng vốn" của ngân hàng và thời hạn chiết khấu ngắn (thường nhỏ hơn 90 ngày) và ngân hàng thương mại có thể khá dễ dàng xin tái chiết khấu hối phiếu ở Ngân hàng có nhu cầu về vốn.

- Tiền cấp cho khách hàng khi chiết khấu thường được chuyển vào tài khoản tiền gửi của khách hàng, bởi vậy nó lại tạo nguồn vốn cho ngân hàng.

Hạn chế:

Thứ nhất, Ngân hàng nhận chiết khấu nhứng hối phiếu giả mạo, tức là những hối phiếu không thực sự xuất phát từ một quan hệ thương mại nào mà do một số người tự ý phát hành giả dể lừa đảo ngân hàng.

- Thứ hai, người chịu trách nhiệm thanh toán giấy tờ có giá bị mất khả năng thanh toán trước khi và khi giấy tờ có giá đến hạn thanh toán (rủi ro tín dụng).

(Tài liệu tham khảo: Giáo trình tín dụng Ngân hàng, Học viện Ngân hàng, NXB Lao động- Xã hội).

Tại sao nghiệp vụ chiết khấu giấy tờ có giá hiện đang được áp dụng hạn chế tại việt nam?
Nguyên tắc tín dụng (Credit principle) là gì? Điều kiện vay vốn

14-08-2019 Rủi ro lãi suất (Interest Rate Risk) là gì? Đo lường rủi ro lãi suất

11-08-2019 Qui trình tín dụng (Credit Procedures) là gì? Sơ đồ qui trình tín dụng

1. Cưỡng chế thi hành án dân sự đối với tài sản là giấy tờ có giá

Điều82 Luật thi hành án dân sự năm 2008quy định về việc cưỡng chế thi hành án dân sự đối với tài sản là giấy tờ có giá bằng hình thức thu giữ giấy tờ có giá

Xem thêm: Tài sản thương hiệu đối với doanh nghiệp là gì? Tài sản thương hiệu đối với khách hàng là gì?

“1. Trường hợp phát hiện người phải thi hành án hoặc cơ quan, tổ chức, cá nhân đang giữ giấy tờ có giá của người phải thi hành án thì Chấp hành viên ra quyết định thu giữ giấy tờ đó để thi hành án.

2. Người phải thi hành án hoặc cơ quan, tổ chức, cá nhân giữ giấy tờ có giá của người phải thi hành án phải chuyển giao giấy tờ đó cho cơ quan thi hành án dân sự theo quy định của pháp luật.”

Trường hợp người phải thi hành án hoặc cơ quan, tổ chức, cá nhân giữ giấy tờ có giá không giao giấy tờ cho cơ quan thi hành án dân sự thì Chấp hành viên yêu cầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền chuyển giao giá trị của giấy tờ đó để thi hành án.

2. Phân biệt chiết khấu giấy tờ có giá và mua bán giấy tờ có giá

Chiết khấu giấy tờ có giá là một quan hệ hợp đồng theo đó tổ chức tín dụng mua lại các giấy tờ có giá chưa đến hạn thanh toán của khách hàng.

Mua bán giấy tờ có giá là việc thực hiện một quan hệ hợp đồng với bên mua và bên bán.

Sự khác biệt giữa chiết khấu giấy tờ có giá và mua bán giấy tờ có giá

1. Chủ thể

Chiết khấu giấy tờ có giá: tổ chức tín dụng chiết khấu là mua lại.

Xem thêm: Quyền chọn phụ thuộc vào quỹ đạo của giá tài sản cơ sở là gì?

– Mua bán giấy tờ có giá: Tổ chức có thẩm quyền xem xét mua bán.

2 .Bản chất

– Chiết khấu giấy tờ có giá: cấp tín dụng

– Mua bán giấy tờ có giá: quan hệ mua bán dân sự thông thường.

3 .Thời hạn

– Chiết khấu giấy tờ có giá: phải thể hiện rõ trong hợp đồng

– Quan hệ mua bán dân sự thông thường: tại thời điểm chuyển giao, mọi thứ chấm dứt.

4. Mục đích sử dụng

Xem thêm: Tỉ lệ vòng quay tổng tài sản là gì? Công thức và các bước tính

– Chiết khấu giấy tờ có giá: sẽ quan tâm về sử dụng tiền bán như thế nào

– Mua bán giấy tờ có giá: không quan tâm về sử dụng tiền bán như thế nào

5. Giá mua

– Chiết khấu giấy tờ có giá: tính theo công thức luôn thấp hơn giá trị của giấy tờ có giá.

– Mua bán giấy tờ có giá: phụ thuộc vào thỏa thuận và nhu cầu của thị trường.

6. Hình thức

– Chiết khấu giấy tờ có giá: thể hiện thông qua hợp đồng chiết khấu bằng văn bản.

– Mua bán giấy tờ có giá: Phụ thuộc vào thỏa thuận có thể hợp đồng bằng văn bản, bằng lời nói hoặc có thể bằng hành vi.

Xem thêm: Chiếm giữ không sở hữu là gì? Hoạt động của tài sản Chiếm giữ không sở hữu

7. Quyền của các bên

– Chiết khấu giấy tờ có giá: bên mua lại có quyền truy đổi, có quyền yêu cầu mua lại.

– Mua bán giấy tờ có giá: các nên không có quyền đổi hay mua lại.

3. Chuyển khoản chứng khoán là giấy tờ có giá

Theo quy định tại Điều 23 Quy chế hoạt động lưu ký chứng khoán ban hành kèm theo Quyết định số 26/QĐ-VSD ngày 13 tháng 3 năm 2015 của Tổng Giám đốc Trung tâm Lưu ký Chứng khoán Việt Nam đã quy định về quy trình ký gửi chứng khoán tại Trung tâm Lưu ký Chứng khoán Việt Nam thì vấn đề về chuyển khoản chứng khoán là giấy tờ có giá được xác định như sau:

Trung tâm Lưu ký Chứng khoán Việt Nam thực hiện chuyển khoản chứng khoán từ tài khoản của khách hàng, tài khoản của chính thành viên lưu ký mở tại thành viên lưu ký/ tài khoản của tổ chức mở tài khoản trực tiếp mở tại Trung tâm Lưu ký Chứng khoán Việt Nam sang tài khoản của khách hàng/ thành viên lưu ký /tổ chức mở tài khoản trực tiếp mở tại Ngân hàng Nhà nước và ngược lại để phục vụ giao dịch giấy tờ có giá trên thị trường tiền tệ.

Trường hợp chuyển khoản chứng khoán từ thành viên lưu ký /tổ chức mở tài khoản trực tiếp sang Ngân hàng Nhà nước, thành viên lưu ký /tổ chức mở tài khoản trực tiếp bên chuyển khoản nộp hồ sơ cho Trung tâm Lưu ký Chứng khoán Việt Nam, hồ sơ bao gồm:

– Yêu cầu chuyển khoản chứng khoán (Mẫu 28/LK của Quy chế hoạt động lưu ký chứng khoán) (03 liên).

– Văn bản đề nghị chuyển khoản chứng khoán của nhà đầu tư (đối với trường hợp chuyển khoản cho khách hàng của thành viên lưu ký).

Trường hợp chuyển khoản chứng khoán từ Ngân hàng Nhà nước sang thành viên lưu ký /tổ chức mở tài khoản trực tiếp, Ngân hàng Nhà nước gửi cho Trung tâm Lưu ký Chứng khoán Việt Nam Yêu cầu chuyển khoản chứng khoán (Mẫu 28/LK củaQuy chế hoạt động lưu ký chứng khoán) (02 liên).

Việc chuyển khoản chứng khoán là giấy tờ có giá giữa Trung tâm Lưu ký Chứng khoán Việt Nam và Sở giao dịch Ngân hàng nhà nước được thực hiện dưới dạng chứng từ điện tử. Hiệu lực chuyển khoản chứng khoán là giấy tờ có giá được xác định tại ngày Trung tâm Lưu ký Chứng khoán Việt Nam và Sở giao dịch Ngân hàng Nhà nước xác nhận giao dịch trên hệ thống.

Thời gian Trung tâm Lưu ký Chứng khoán Việt Nam xử lý hồ sơ chuyển khoản chứng khoán là giấy tờ có giá là 01 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ đầy đủ và hợp lệ; hồ sơ chuyển khoản bản gốc được Trung tâm Lưu ký Chứng khoán Việt Nam chuyển cho Ngân hàng nhà nước trong vòng 01 ngày làm việc sau ngày hiệu lực chuyển khoản.

4. Vé số có phải là giấy tờ có giá không?

Tóm tắt câu hỏi:

Anh A mua 5 tờ vé số, sau đó cho anh B. Trong 5 tờ đó có 2 tờ trúng giải đặc biệt. Anh A có ý định đòi lại 2 tờ vé số có giải này. Tuy nhiên khi đòi thì anh B không trả và cho rằng anh A đã cho mình rồi. Vậy trong trường hợp này anh A có quyền kiện đòi lại không? Tờ vé số có phải là giấy tờ có giá không?

Luật sư tư vấn:

Điều 457 Bộ luật Dân sự 2015 quy định, Hợp đồng tặng cho tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên tặng cho giao tài sản của mình và chuyển quyền sở hữu cho bên được tặng cho mà không yêu cầu đền bù, bên được tặng cho đồng ý nhận.

Như vậy, khi anh A tặng cho anh B năm tờ vé số thì tại thời điểm anh B nhận năm tờ vé số từ anh A, anh A đã chuyển quyền sở hữu của mình sang cho anh B và chấm quyền sở hữu của mình đối với năm tờ vé số đó. Đồng nghĩa, anh A không có quyền lấy lạitrừ trường hợp hai bên đã có thỏa thuận khác.

Tại sao nghiệp vụ chiết khấu giấy tờ có giá hiện đang được áp dụng hạn chế tại việt nam?

Luật sư tư vấn vé số có phải là giấy tờ có giá không:1900.6568

Khoản 8 Điều 6 Luật Ngân hàng nhà nước 2010 quy địnhGiấy tờ có giálà bằng chứng xác nhận nghĩa vụ trả nợ giữa tổ chức phát hành giấy tờ có giá với người sở hữu giấy tờ có giá trong một thời hạn nhất định, điều kiện trả lãi và các điều kiện khác. Ngoài ra,Công văn 141/TANDTC-KHXX hướng dẫnthẩm quyền giải quyết các yêu cầu trả lại giấy chứng nhận quyền sở hữu tài sản gửi tới tòa án nhân dân các cấp xác địnhgiấy tờ có giá bao gồm:

– Hối phiếu đòi nợ, hối phiếu nhận nợ, séc, công cụ chuyển nhượng khác (Điều 1Luật các công cụ chuyển nhượng năm 2005);

– Trái phiếu Chính phủ, trái phiếu công ty, kỳ phiếu, cổ phiếu (điểm c khoản 1 Điều 4Pháp lệnh ngoại hối năm 2005);

– Tín phiếu, hối phiếu, trái phiếu, công trái và công cụ khác làm phát sinh nghĩa vụ trả nợ (điểm 16 Điều 3 Luật quản lý nợ công năm 2009);

–Các loại chứng khoán (khoản 1 Điều 6 của Luật chứng khoán năm 2006 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2010);

– Trái phiếu doanh nghiệp (Điều 2 của Nghị định số 52/2006/NĐ-CPngày 19/5/2006 của Chính phủ về “Phát hành trái phiếu doanh nghiệp”)

Do đó, tờ vé số không phải là giấy tờ có giá nên không thể kiện đòi để lấy lại.