Tâm lý học trong quan lý báo chí

Điều 2 trong 10 điều Quy định đạo đức nghề nghiệp người làm báo Việt Nam được Ban Chấp hành Hội Nhà báo Việt Nam thông qua năm 2016, có hiệu lực từ ngày 1.1.2017 cùng với Luật Báo chí đề cập rõ tới vấn đề bản quyền: “Nghiêm chỉnh thực hiện hiến pháp, luật báo chí, luật bản quyền và các quy định của pháp luật; Thực hiện đúng tôn chỉ, mục đích, nội quy, quy chế của nơi đang công tác”[1]. Những văn bản luật, quy định, các quy tắc của cộng đồng… đã góp phần hình thành và củng cố các chuẩn mực xã hội về bản quyền nói chung và bản quyền báo chí - truyền thông nói riêng. Điều đó cũng đồng thời đặt ra yêu cầu cần phải nhìn nhận vấn đề này dưới góc độ của đạo đức và tâm lý học.

Vi phạm bản quyền trong hoạt động báo chí - hành vi xã hội sai lệch

Tại diễn đàn “Bảo vệ bản quyền các tác phẩm báo chí” do Bộ Thông tin và Truyền thông tổ chức [5.11.2020], nhiều lãnh đạo cơ quan báo chí đã lên tiếng vì bản quyền tác phẩm trên ấn phẩm của mình bị vi phạm nghiêm trọng. Theo thống kê của báo Pháp Luật TP. HCM, rất nhiều trong số hàng trăm sản phẩm báo chí xuất bản mỗi ngày của Báo đã bị các trang web khác, các tài khoản mạng xã hội tự ý lấy, khai thác sử dụng trái phép mà không trích dẫn nguồn, dẫn link. “Thậm chí có khi báo vừa xuất bản một phóng sự điều tra độc quyền thì ngay sau đó đã có những trang tin tức trên mạng lấy và xuất bản trái phép trên trang của họ để câu view. Chưa kể, trên mạng từng xuất hiện cả những trang web giả mạo, mạo danh logo của báo Pháp Luật TP.HCM, những fanpage trên mạng xã hội giả danh là fanpage của báo...”[2].

Có thể nói, hành vi vi phạm bản quyền nói chung và vi phạm bản quyền trong lĩnh vực báo chí - truyền thông nói riêng là một trong những hành vi sai lệch chuẩn mực xã hội. Chuẩn mực xã hội theo tác giả Nguyễn Quang Uẩn trong cuốn “Tâm lý học đại cương” là “những quy tắc, yêu cầu của xã hội đối với cá nhân. Các quy tắc, yêu cầu này có thể được ghi thành các văn bản: đạo luật, điều lệ, văn bản pháp quy… hoặc là những yêu cầu có tính chất ước lệ trong một cộng đồng nào đó mà mọi người đều thừa nhận. Bất kỳ một chuẩn mực xã hội nào cũng có 3 thuộc tính là tính ích lợi, tính bắt buộc và sự thực hiện thực tế trong hành vi của con người”[3]. Thêm vào đó, hành vi sai lệch được định nghĩa là “những hành vi không phù hợp chuẩn mực”[4].

Các nhà tâm lý học phân chia chuẩn mực xã hội thành 5 hệ thống bao gồm: Hệ thống chuẩn mực luật pháp, hệ thống chuẩn mực đạo đức, hệ thống chuẩn mực thẩm mỹ, hệ thống chuẩn mực phong tục tập quán, tín ngưỡng, tôn giáo và hệ thống chuẩn mực chính trị[5]. Có thể nhận thấy, hành vi vi phạm bản quyền được thể hiện một cách rõ ràng nhất trong hai hệ thống chuẩn mực xã hội quan trọng là hệ thống chuẩn mực luật pháp và hệ thống chuẩn mực đạo đức. Phần thứ 2, Luật Sở hữu trí tuệ đề cập rõ quyền tác giả và các quyền liên quan, trong đó, điều 14 quy định rõ các loại hình tác phẩm được bảo hộ quyền tác giả trong đó có tác phẩm báo chí; điều 28 quy định 16 hành vi xâm phạm quyền tác giả, trong đó chỉ rõ nhiều hành vi vi phạm phổ biến nhất hiện nay là: Mạo danh tác giả; Sao chép tác phẩm mà không được phép của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả,… Nhân bản, sản xuất bản sao, phân phối, trưng bày hoặc truyền đạt tác phẩm đến công chúng qua mạng truyền thông và các phương tiện kỹ thuật số mà không được phép của chủ sở hữu quyền tác giả;...[6]. Các giá trị về tính trung thực và liêm khiết trong việc thu thập, xử lý và truyền tải thông tin cũng được xã hội thừa nhận như một quy tắc, nền tảng cơ bản vững chắc trong hoạt động báo chí - truyền thông. Bên cạnh vi phạm về việc sao chép, dẫn lại, sử dụng các bài viết mà không được sự cho phép của tác giả, cơ quan báo chí - truyền thông thì việc tự ý sử dụng ảnh là hành vi vi phạm bản quyền phổ biến nhất hiện nay, gây nhiều bức xúc đối với những người hoạt động trong lĩnh vực báo chí - truyền thông[7].

Vi phạm bản quyền là hành vi xâm phạm đến các giá trị do người khác tạo ra, nhìn rộng hơn chính là hành vi xâm phạm đến quyền và lợi ích của người khác, xâm phạm đến các giá trị của nhân loại. Nó làm mờ đi về ranh giới nhận thức về các giá trị tốt đẹp, giá trị về cái “thiện” ở trong đời sống của các chủ thể truyền thông. Trong đạo đức học, phạm trù “thiện” dùng để chỉ một hành vi tốt đẹp, vì lợi ích của con người, phù hợp với sự tiến bộ xã hội, thông qua tiêu chuẩn hạnh phúc được đánh giá bởi con người, các đảng phái, giai cấp, các nhóm xã hội riêng biệt”[8]. Đó là các giá trị đảm bảo cho sự phát triển của xã hội. Khi các giá trị này bị xâm phạm hoặc không được đề cao ắt sẽ dẫn tới sự suy thoái của loài người.

Hạt nhân của suy thoái nhân cách

Vi phạm bản quyền là một hành vi sai lệch chuẩn mực, tạo ra các hệ quả xấu ảnh hưởng đến những mối quan hệ, yếu tố bên trong của phẩm chất nghề nghiệp, làm méo mó, lệch lạc nhận thức, thế giới quan của người hoạt động trong lĩnh vực truyền thông. PGS, TS Nguyễn Văn Dững trong cuốn “Cơ sở lý luận báo chí” mô tả đạo đức nghề nghiệp bên cạnh trách nhiệm xã hội như một yếu tố quan trọng có tính bao trùm trong phẩm chất nghề nghiệp của những người làm báo nói riêng và những người làm trong lĩnh vực truyền thông nói chung. Trong đó, đạo đức nghề nghiệp được thể hiện như những chuẩn mực ứng xử với các mối quan hệ tác nghiệp luôn phong phú, đa dạng và phức tạp của nhà báo[9]. Những sự vụ vi phạm bản quyền nếu không được phát lộ và xử lý nghiêm sẽ tạo ra những tiền lệ về mặt nhận thức của người làm truyền thông, lâu dần hình thành nên một thái độ dửng dưng vô cảm, chấp nhận nó như một hành vi mặc nhiên bình thường trong một xã hội công khai thông tin; và ở một mức độ nào đó, tự cho mình quyền thực hiện hành vi tương tự. Vi phạm bản quyền với tư cách là một biểu hiện suy thoái đạo đức nghề nghiệp báo chí - truyền thông, là một yếu tố ảnh hưởng nghiêm trọng đến nhân cách nhà truyền thông.

Mặt khác, nhân cách tiếp cận dưới góc độ của tâm lý học là “tổ hợp những đặc điểm, những phẩm chất tâm lý của cá nhân, quy định giá trị xã hội và hành vi xã hội của họ [biểu hiện bản sắc và giá trị xã hội của con người]… Nhân cách con người được phân tích trên ba bình diện và do đó cũng được xem xét, đánh giá trên ba cấp độ: 1] Bên trong cá nhân; 2] Biểu hiện ra ở hoạt động lao động và kết quả của nó; 3] Sự hình dung, đánh giá của người khác về cá nhân đó”[10]. Như vậy, có thể thấy các phẩm chất tâm lý, các hành vi xã hội của con người là những yếu tố cấu thành nên nhân cách. Nhân cách của một cá nhân hoạt động trong lĩnh vực báo chí truyền thông sẽ được thể hiện ra bên ngoài bởi hành vi nghề nghiệp và những hành vi đó tiếp tục tác động ngược trở lại trong việc hình thành nhân cách nghề nghiệp. Bản thân việc xâm phạm đến bản quyền là một hành vi sai lệch chuẩn mực xã hội, nó là yếu tố tác động vô cùng tiêu cực đến nhân cách của người làm truyền thông. Hành vi xâm phạm bản quyền dần kiến tạo nên ham muốn sai lệch thường trục bên trong mỗi cá nhân người làm truyền thông, qua đó hình thành nên động cơ thực hiện hành vi sai lệch này một cách liên tục.   

Thêm vào đó, nhân cách có thể được đánh giá dựa trên hai mặt: đức và tài. “Trong cuộc sống, nhân cách đảm bảo sự thành công thì tuỳ mức độ hoàn thành mà xác định tài năng, còn trong quan hệ với người khác, với công việc tương quan được xác định sẽ nói lên cái đức của người đó”[11]. Về cơ bản, hành vi vi phạm bản quyền dù vô tình hay cố ý cũng tác động tiêu cực đến sự đánh giá của xã hội về đức và tài của mỗi cá nhân. Đó là biểu hiện của sự khuyết thiếu về mặt nhận thức, kỹ năng, tính trung thực và trách nhiệm. Trong nhiều trường hợp mặt “đức” được đặt lên trước và được xem như một điều kiện tiên quyết, một thang đo chuẩn mực về nhân cách của mỗi cá nhân.

Mặt khác, nhân cách có tính giao lưu, thông qua giao lưu, con người gia nhập vào các quan hệ xã hội, lĩnh hội các chuẩn mực đạo đức và hệ thống giá trị xã hội. Thông qua giao lưu, con người đóng góp các giá trị phẩm chất nhân cách của mình cho người khác, cho xã hội và như vậy, nhân cách về cơ bản được hình thành trong mối quan hệ giao lưu và hoạt động tập thể[12]. Vì thế, sự méo mó về mặt hành vi không những có thể lây lan giữa các cá nhân trong tập thể như một loại vi rút mà còn có thể “di truyền” qua các thế hệ và gây ra sự suy thoái nghiêm trọng về nhân cách. Tác giả Nguyễn Quang Uẩn trong cuốn “Tâm lý học đại cương” nhấn mạnh vai trò của giáo dục và tự giáo dục, trong đó, một cấu trúc nhân cách tương đối ổn định sẽ dần được hình thành thông qua giáo dục và ý thức, rèn luyện, tự giáo dục, tự hoàn thiện nhân cách. Bên cạnh đó, “cá nhân có thể có những chệch hướng trong sự biến đổi những nét nhân cách so với chuẩn mực chung, thang giá trị chung của xã hội, có thể đưa đến sự phân ly, suy thoái nhân cách, đòi hỏi cá nhân phải tự điều khiển, tự điều chỉnh, tự rèn luyện theo những chuẩn mực chân chính, phù hợp với quy luật khách quan của xã hội để tự điều khiển, tự điều chỉnh nhân cách của mình. Vì thế, vai trò của tự giáo dục, tự rèn luyện có ý nghĩa đặc biệt trong việc hoàn thiện nhân cách”[13]. Như vậy, giáo dục như một phương thức khởi nguồn chủ đạo hình thành nhân cách. Giáo dục trong tâm lý học được mô tả như một quá trình “xây dựng, phát triển và hoàn thiện nhân cách”[14], nó là yếu tố có trước, đóng vai trò quyết định; dựa trên nền tảng đó, quá trình tự giáo dục là yếu tố có sau, thông qua môi trường và điều kiện khách quan để bồi đắp, uốn nắn nhân cách phù hợp với xã hội.

Có thể nói, hành vi vi phạm bản quyền như một yếu tố hạt nhân làm suy thoái nhân cách người làm báo, có thể gây ra những hậu quả nghiêm trọng về lâu dài. Việc giáo dục đạo đức và nhân cách ngay từ bước đầu đóng vai trò quyết định quan trọng trong việc hình thành nhân cách của mỗi cá nhân nhà truyền thông và loại bỏ hành vi này trong hoạt động báo chí - truyền thông.

Giáo dục lương tâm và nghĩa vụ đạo đức nghề nghiệp

Cốt lõi của sự hình thành nên nhân cách và hành vi của con người là xây dựng được yếu tố nền móng bên trong. Đó là những mong muốn, khao khát tạo thành động cơ thúc đẩy bên trong, khiến cho cá nhân thực hiện hành vi một cách tự nguyện. Cơ chế hình thành nên hành vi và thói quen đạo đức bao gồm cơ chế bắt chước, cơ chế củng cố và học tập xã hội[15]. Đây cũng chính là các cơ chế của giáo dục tác động mỗi cá nhân. Trong việc giáo dục đạo đức đối với những người hoạt động báo chí, truyền thông, có hai phạm trù cần được quan tâm nhiều nhất đó là lương tâm nghề nghiệp và đạo đức nghề nghiệp. “Nếu lương tâm được hiểu là năng lực mang tính tự giác của con người tự giám sát bản thân, tự đề ra cho mình nghĩa vụ đạo đức phải hoàn thành, tự đánh giá hành vi của mình thì lương tâm nghề nghiệp được biểu hiện cụ thể ở chính: Ý thức trách nhiệm của con người với hành vi của mình trong nghề nghiệp, là thái độ và cách ứng xử của họ trước lợi ích của người khác, của xã hội; là sự tự phán xử về các hành vi nghề nghiệp của mình. Lương tâm nghề nghiệp ở mỗi người không phải là thứ cảm xúc xuất hiện nhất thời, hời hợt mà chỉ có được thông qua quá trình hoạt động nghề nghiệp lâu dài của mỗi cá nhân dựa trên những yêu cầu do chính nghề nghiệp cũng như sự phát triển của xã hội đặt ra”[16]. Bên cạnh đó, trong cấu trúc của đạo đức, lương tâm là ý thức, là tình cảm, là sự thôi thúc bên trong của con người trước hạnh phúc của mình. Lương tâm giữ chức năng tình cảm của nghĩa vụ đạo đức… Trong hoạt động nghề nghiệp, nghĩa vụ đạo đức đòi hỏi mỗi cá nhân phải giải quyết hài hoà mối quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội. Chính lương tâm nghề nghiệp đã tạo nên tính tích cực của con người trong hoạt động nghề nghiệp, nó không chỉ khiến cho con người làm tròn trách nhiệm đạo đức, nghĩa vụ đạo đức nghề nghiệp mà còn khiến cho con người tin tưởng vào bản thân trong quá trình hoạt động nghề nghiệp của chính mình để vươn tới những giá trị tốt đẹp, loại trừ cái xấu, sự ích kỷ, nhỏ nhen[17].

Như vậy, có thể coi trách nhiệm đạo đức và lương tâm như những nền tảng bên trong tạo dựng nên hành vi của hoạt động nghề ngiệp. Chúng là những yếu tố cốt lõi ngăn chặn hành vi sai trái cũng như thúc đẩy hành vi tốt đẹp của chủ thể. Nhìn nhận trong hoạt động báo chí, truyền thông, trách nhiệm đạo đức và lương tâm nghề nghiệp báo chí là những hạt nhân cốt lõi hình thành nên nhân cách nghề nghiệp, giúp mỗi cá nhân vượt qua rào cản của lợi ích cá nhân hay sự thoả mãn những nhu cầu nhất thời trước mắt để hướng đến các giá trị cao đẹp của nghề nghiệp.

Mặt khác, yếu tố quan trọng thôi thúc thực hiện hành vi của con người là động cơ thúc đẩy, là “các quá trình liên quan tới việc khởi động, định hướng và duy trì những hoạt động sinh lý và tâm lý”[18]. Động cơ thúc đẩy của một hành vi nào đó có thể xuất phát từ một mong muốn, cảm xúc, cách nhìn nhận,… của mỗi cá nhân. Có thể kể đến một số động cơ thúc đẩy hành vi vi phạm bản quyền trong hoạt động báo chí - truyền thông như sau:

- Mong muốn có được những lợi ích từ sản phẩm của người khác mà không cần phải trả chi phí;

- Mong muốn sở hữu tư duy, ý tưởng của người khác một cách vụng trộm, không qua trao đổi, thoả thuận;

- Sức ép công việc [về chỉ tiêu, áp lực thời gian,…] khiến cho cá nhân tìm các phương cách đáp ứng yêu cầu một cách bất chấp;

- Khuyết thiếu trong nhận thức về pháp luật và đạo đức về hành vi vi phạm bản quyền;…

Như vậy muốn ngăn chặn hành vi vi phạm bản quyền của người làm báo thì cần triệt tiêu những động cơ thúc đẩy này. Giáo dục trách nhiệm đạo đức và lương tâm nghề nghiệp chính là phương thức quan trọng và thiết thực nhất để loại bỏ những động cơ thúc đẩy hành vi vi phạm bản quyền. Tuy nhiên, hoạt động giáo dục trách nhiệm đạo đức và lương tâm nghề nghiệp cần thực hiện trong môi trường tập thể và thực tế. Bởi lẽ, “Sự trái ngược giữa mong muốn và thực tại có thể thúc đẩy một cá nhân thực hiện những hành vi chính xác… Chẳng hạn nếu bạn nhận thấy những hành vi của chính bạn không thích hợp với những tiêu chuẩn hoặc đánh giá của một nhóm mà bạn phụ thuộc, bạn có thể bị thúc đẩy để thay đổi những hành vi của mình nhằm có được sự thích nghi tốt hơn với một nhóm”[19]. Vì thế, có thể nói, môi trường xã hội là yếu tố bên ngoài tác động mạnh mẽ nhất hình thành nên nhân cách của những người làm truyền thông. “Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng thì yếu tố môi trường xã hội có vai trò góp phần tạo nên động cơ, mục đích, cung cấp điều kiện, phương tiện cho hoạt động và giao tiếp, qua đó, tác động vào sự phát triển nhân cách”[20]. Cần tạo dựng một môi trường và cộng đồng những người làm truyền thông có nhận thức đầy đủ, có lương tâm và trách nhiệm đối với xã hội để hình thành nên nhân cách, trách nhiệm đạo đức và lương tâm nghề nghiệp cũng như thúc đẩy quá trình rèn luyện và từ giáo dục của các cá nhân tham gia vào hoạt động báo chí - truyền thông. Muốn vậy, thì cần khắc phục một số hạn chế còn tồn tại hiện nay như sau:

Thứ nhất, cần quy định rõ ràng và tăng nặng những hình thức xử phạt hành vi vi phạm về sở hữu trí tuệ cũng như quyền tác giả. Các mức xử phạt hiện nay được nhiều cơ quan báo chí cho là quá nhẹ và không đủ sức răn đe. Theo đánh giá của một số cơ quan báo chí tại diễn đàn “Bảo vệ bản quyền các tác phẩm báo chí” do Bộ Thông tin và Truyền thông tổ chức, mức xử phạt hiện nay vẫn còn tương đối thấp [chỉ từ 5 đến 30 triệu đồng]. Vì thế, các cơ quan này đề nghị, để chống vấn nạn xâm phạm bản quyền báo chí, cần tăng mức xử phạt gấp ba, gấp năm lần mới đủ tính răn đe đối với tổ chức, cá nhân vi phạm[21].

Thứ hai, phát huy hơn nữa vai trò của toà soạn và Hội Nhà báo trong việc nâng cao nhận thức của những người hoạt động trong lĩnh vực báo chí, truyền thông cũng như tạo dựng sự kiên kết giữa các cơ quan báo chí để cùng nhau khắc phục tình trạng này. Trong những thảo luận gần đây, các nhà quản lý báo chí cho rằng cần tạo dựng sự liên kết giữa các cơ quan báo chí trong bối cảnh hiện nay để cùng nhau cam kết và khắc phục tình trạng vi phạm bản quyền đang ngày càng tràn lan và phức tạp.

Thứ ba, chú trọng hơn nữa công tác đào tạo nền tảng về pháp luật và đạo đức ngay trong các trường đại học về báo chí - truyền thông. Kết quả khảo sát sinh viên tại Học viện Báo chí và Tuyên truyền trong nghiên cứu mới đây về “Giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên báo chí ở Việt Nam hiện nay” đã chỉ ra rằng: “Thời lượng giảng dạy của các môn học chuyên ngành về đạo đức nghề báo còn chưa đủ để giáo dục đạt hiệu quả tốt. Đặc biệt khi điều chỉnh chương trình từ niên chế sang tín chỉ thì số tín chỉ cho môn này bị cắt giảm, kết hợp với việc tổ chức giảng dạy theo lớp đông dẫn đến khó khăn khi tổ chức thảo luận, thực hành cho sinh viên, dẫn đến kết quả học tập chưa cao, giảm hiệu quả, chất lượng của việc giảng dạy các môn này”[22].

Sự chuyển mình của thời cuộc đòi hỏi ở những người hoạt động báo chí - truyền thông những nhận thức mới; những kỹ năng mới để thích nghi và đáp ứng những yêu cầu ngày càng cao của xã hội. Trong bối cảnh thông tin xã hội lan toả và mạng xã hội kết nối không ngừng như hiện nay, sở hữu trí tuệ nói chung và vấn đề bản quyền trong lĩnh vực báo chí - truyền thông nói riêng là một trong những vấn đề quan trọng cần được bàn luận và nghiên cứu, đặc biệt dưới góc độ của đạo đức và tâm lý học./.

 ______________________________________

[1] Lê Tú [2016], Công bố quy định 10 điều về Đạo đức nghề nghiệp người làm báo Việt Nam,//nhandan.com.vn/tin-tuc-su-kien/cong-bo-quy-dinh-10-dieu-ve-dao-duc-nghe-nghiep-nguoi-lam-bao-viet-nam-280743.

[2], [21] Ngân Nga [2020], Lập liên minh bảo vệ bản quyền tác phẩm báo chí, //plo.vn/phap-luat/lap-lien-minh-bao-ve-ban-quyen-tac-pham-bao-chi-948350.

[3], [12], [13] Nguyễn Quang Uẩn [2015], Tâm lý học đại cương, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, tr.192, 157, 192.

[4] Quốc Dũng [2020], Xử lý vi phạm bản quyền báo chí, //vnanet.vn/vi/anh/anh-thoi-su-trong-nuoc-1014/xu-ly-vi-pham-ban-quyen-bao-chi-4660458.

[5], [8] Dương Văn Duyên [chủ biên] [2013], Giáo trình Đạo đức học đại cương; Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, tr. 310, 125.

[6] Quốc hội [2005], Luật Sở hữu trí tuệ, Hà Nội.

[7] Hoàng Tuyết [2020], Ngăn chặn vi phạm bản quyền tác phẩm báo chí, //baotintuc.vn/xa-hoi/ngan-chan-vi-pham-ban-quyen-tac-pham-bao-chi-20200621221634398.htm.

[9] Nguyễn Văn Dững [2018], Cơ sở Lý luận báo chí, Nxb. Thông tin và Truyền thông, tr. 417.

[10], [11], [14], [15], [20] Nguyễn Đức Sơn - Lê Minh Nguyệt - Nguyễn Thị Huệ - Đỗ Thị Hạnh Phúc - Trần Quốc Thành - Trần Thị Lệ Thu [2017], Giáo trình Tâm lý học giáo dục, Nxb. Đại học Sư phạm, tr. 222, 225, 226, 254, 232.

[16], [17], [22] Trần Hải Minh - Phạm Hương Trà [chủ biên] [2019], Giáo dục đạo đức cho sinh viên báo chí ở Việt Nam hiện nay; Nxb. Lý luận chính trị, tr. 20, 21, 121.

[18], [19] Richard J. Gerrig - Philip G. Zimbardo [2018], Tâm lý học và đời sống, Nxb. Hồng Đức, tr.394, 232.

Video liên quan

Chủ Đề