Theo quan điểm của chủ nghĩa mác-lênin gia đình là gì

 Có thể nói, nắm vững quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, hơn 80 năm qua, dù trong hoàn cảnh chiến tranh hay hoà bình, Đảng ta luôn nhất quán quan điểm nhằm phát huy vai trò của phụ nữ, vì sự tiến bộ của phụ nữ, đồng thời thúc đẩy bình đẳng giới trong gia đình và xã hội. Trong suốt 65 năm qua, đội ngũ cán bộ nữ ngày càng đông đảo, trưởng thành ở các cấp, các ngành, các lĩnh vực; đặc biệt, những thành tích về chỉ số phát triển con người Việt Nam [HDI] là 0,725, xếp ở vị trí 116/182 quốc gia và vùng lãnh thổ; chỉ số phát triển giới [GDI] xếp vị trí 94/155 nước [theo Báo cáo phát triển con người của Liên hợp quốc năm 2009] là những minh chứng sinh động về sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam./. 

Tiểu Luận Quan Điểm Của Chủ Nghĩa Mác-Lê Nin Về Vấn Đề Gia Đình . Sau đây mình xin giới thiệu đến cho các bạn một bài tiểu luận với đề tài là tiểu luận quan điểm của chủ nghĩa mác lê nin về vấn đề gia đình hoàn toàn hay . Đồng thời đây cũng là một trong những đề tài tiểu luận được nhiều bạn sinh viên lựa chọn nhất từ trước tới nay . Vì thế , các bạn hãy cùng mình xem và theo dõi bài tiểu luận bổ ích này nhé.

Có phải bạn đang cần viết thuê tiểu luận? Bạn chưa biết phải chọn đề tài như thế nào để viết bài tiểu luận cho phù hợp? Thì ngay bây giờ đây hãy liên hệ với dịch vụ viết thuê tiểu luận của chúng tôi qua zalo 0932091562 để được hỗ trợ tư vấn chọn đề tài và báo giá nhé.

Mục lục ẩn

1 I. QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊ NIN VỀ VẤN ĐỀ GIA ĐÌNH

1.1 1.1. Quan điểm phi mác-xít về vấn đề gia đình

1.2 1.2. Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lê nin về vấn đề gia đình

2 II. THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ GIA ĐÌNH VÀ MỘT SỐ ĐỊNH HƯỚNG VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM CHỦ NGHĨA MÁC-LÊ NIN VÀO GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ GIA ĐÌNH Ở NƯỚC TA HIỆN NAY

2.1 2.1. Thực trạng vấn đề gia đình ở nước ta hiện nay

3 KẾT LUẬN

I. QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊ NIN VỀ VẤN ĐỀ GIA ĐÌNH

1.1. Quan điểm phi mác-xít về vấn đề gia đình

Tiểu Luận Quan Điểm Của Chủ Nghĩa Mác-Lê Nin Về Vấn Đề Gia Đình Trong học thuyết Nho giáo, gia đình là đơn vị kết cấu cơ bản nhất của xã hội, có vị trí và vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự ổn định của xã hội, với đạo đức và cuộc sống của con người. Nho giáo cho rằng: “Gốc của thiên hạ ở nước; gốc của nước ở nhà; gốc của nhà ở mỗi người [Thiên hạ chi bản tại quốc, quốc chi bản tại gia, gia chi bản tại thân]”. Đi tìm cơ sở tự nhiên của con người, Nho giáo đã chỉ ra những quan hệ cơ bản rường cột gọi là tam cương gồm có: quan hệ quân – thần, quan hệ phu – thê, quan hệ phụ – tử; năm quan hệ cơ bản gọi là ngũ luân: bao gồm ba quan hệ trên cộng thêm quan hệ huynh – đệ, quan hệ bằng hữu. Như vậy, hơn nửa các mối quan hệ ấy thuộc phạm vi quan hệ gia đình. Thực hiện tốt những nghĩa vụ, trách nhiệm tương ứng với các quan hệ xã hội ấy là đi trên con đường chính đạo. Trung – hiếu – nhân – nghĩa – lễ – trí – tín cũng từ ấy mà ra. Gia đình là nơi tu dưỡng, rèn luyện những đức căn bản của con người. Trong gia đình con người ứng xử, hành động tuân theo lễ. Qua lễ, con người mới có thể biết được như thế nào là có hiếu với cha mẹ, là kính với người trên, là từ đễ với anh em thân thích, là bạn hiền của bằng hữu, là nhân với người xung quanh, là tín thực với thân thuộc. Như vậy, gia đình là nơi rèn luyện đạo làm người.

Xem Thêm : Dịch Vụ Viết Thuê Tiểu Luận

Mặt khác, Nho giáo cũng nhấn mạnh việc mọi nhà ổn định, xây dựng gia đình lành mạnh là cơ sở để củng cố đất nước. Nho giáo quan niệm, gia là cái nhà nhỏ, nước là cái nhà to; gia đình là xã hội thu nhỏ, là gốc của quốc gia. Do đó, một xã hội muốn thanh bình thì trước hết cần phải có những gia đình hòa thuận. Kinh sách đạo Nho viết: “Một nhà nhân hậu thì cả nước dấy lên nhân hậu. Một nhà lễ nhượng thì cả nước dấy lên lễ nhượng [Nhất gia nhân, nhất quốc hưng nhân; nhất gia nhượng, nhất quốc hưng nhượng]”. Vì thế, muốn trị quốc thì trước hết phải yên nhà.

Gia đình là nơi tu dưỡng, rèn luyện và cũng là nơi thử thách đối với người quân tử. Người quân tử muốn “trị quốc” thì trước hết phải “tu thân” và “tề gia”, tức là bậc quân tử trước hết phải làm cho nhà mình tề chỉnh thì dân chúng mới làm theo, do đó mà tề chỉnh được mọi nhà dân, trị yên được cả nước. Nho giáo là một học thuyết lấy căn cứ vào gia đình làm xuất phát điểm để hình dung thế giới, với mục tiêu xây dựng mô hình gia đình êm ấm để đạt được xã hội lý tưởng. Gia đình trong quan niệm Nho giáo là gia đình phụ quyền, Nho giáo không bàn tới gia đình có phụ nữ làm chủ.

Khác với triết học phương Đông, các nhà triết học phương Tây cổ, trung đại ít đề cập đến vấn đề gia đình, và cũng có những quan niệm khác nhau về vấn đề này. Chẳng hạn, Platon cho rằng, để khắc phục tình trạng phân chia giàu nghèo thì cần phải xóa bỏ gia đình và tư hữu. Ngược lại, Arixtốt lại đề cao vai trò của gia đình đối với nhà nước, xã hội và con người. Ông cho rằng, nhà nước chỉ xuất hiện khi có sự giao tiếp về lợi ích giữa nhiều gia đình và họ hàng về một cuộc sống đầy đủ và hoàn thiện. Gia đình và cá nhân là “thiên chức tự nhiên” của nhà nước, vì vậy con người về bản chất phải thuộc về nhà nước, vượt ra ngoài khuôn khổ nhà nước thì con người không phải là con người phát triển về đạo đức hoặc đó là động vật, hoặc đó là thượng đế. Ông cho rằng, nhà nước ra đời trên cơ sở gia đình, chính quyền nhà nước là sự tiếp tục chính quyền trong gia đình.

Xôcrát cũng đề cao vai trò của gia đình khi ông so sánh việc quản lý nhà nước cũng như quản lý gia đình. Theo ông, “khi không biết cai quản một gia đình thì làm sao có thể cai quản được cả vạn hộ”

Nhà triết học cổ điển Đức Hê-ghen cũng gắn vai trò của gia đình với nhà nước. Ông cho rằng, gia đình và xã hội công dân chịu sự chỉ đạo của nhà nước, chỉ có nhà nước là sự thực hiện tự do. Nhờ nó, gia đình và xã hội công dân được bảo tồn, đời sống xã hội cũng như mâu thuẫn giai cấp mới được điều hòa. Tiểu Luận Quan Điểm Của Chủ Nghĩa Mác-Lê Nin Về Vấn Đề Gia Đình

Nhìn chung, các nhà triết học phương Tây ít chú ý đến vấn đề gia đình, hoặc chỉ đề cập đến gia đình và vai trò của nó khi bàn đến nhà nước, hôn nhân và chế độ sở hữu.

Từ thế kỷ XVIII cho đến thế kỷ XX, khi các phong trào nữ quyền, các học thuyết triết học nữ quyền xuất hiện và lan rộng, quan niệm về bình đẳng giới trong gia đình và xã hội, về vai trò của người phụ nữ trong gia đình được quan tâm thì vấn đề vai trò của gia đình cũng được đề cập đến nhiều hơn. Các nhà nữ quyền đã dùng cách tiếp cận giới là phương pháp then chốt để nghiên cứu gia đình. Gia đình được coi là thiết chế trung tâm của sự áp bức giới và là cội nguồn của các hình thức áp bức khác đối với phụ nữ trong xã hội. Khác với phương pháp tiếp cận truyền thống coi gia đình là một thiết chế phổ biến, một yếu tố tự nhiên mang tính sinh học, một đơn vị thống nhất và cùng có chung một lợi ích trong đó sinh đẻ, nuôi con, làm việc nhà, chăm sóc các thành viên là “thiên chức” của người phụ nữ, các nhà nữ quyền đã đi sâu phân tích những mối quan hệ bên trong gia đình và những trải nghiệm của phụ nữ trong phạm vi gia đình. Do vậy, gia đình có vai trò to lớn ảnh hưởng đến vấn đề bình đẳng giới và vai trò của người phụ nữ.

Theo chủ nghĩa nữ quyền, gia đình phục vụ lợi ích của chế độ gia trưởng, lợi ích của đàn ông. Người đầu tiên đưa ra quan điểm gia đình phục vụ lợi ích của chế độ gia trưởng là nhà triết học và xã hội học người Pháp Simone de Beauvoir. Theo ông, thiết chế gia đình, đơn vị cơ sở của xã hội là một thiết chế có tính gia trưởng nhất, và gia đình cũng có một vị trí quan trọng trong việc xã hội hóa thế hệ tiếp theo về các giá trị gia trưởng.

Tiểu Luận Quan Điểm Của Chủ Nghĩa Mác-Lê Nin Về Vấn Đề Gia Đình Đối với các nhà nữ quyền, gia đình không phải là một nguyên khối thống nhất. Mỗi thành viên gia đình có những trải nghiệm khác nhau về cuộc sống gia đình do vị trí, vai trò khác nhau của họ trong gia đình. Những thành viên đó với những hoạt động và quyền lợi khác nhau trong quá trình tương tác sẽ tiến tới xung đột, mâu thuẫn với nhau. Gia đình cũng không phải là một yếu tố tự nhiên mang tính chất sinh học có tính phổ biến mà là kết quả của quan hệ xã hội và hoàn toàn có thể thay đổi.

Như vậy, xem xét gia đình với những quan điểm khác nhau, từ các góc độ khác nhau, mục đích khác nhau… trong lịch sử cho thấy vai trò của gia đình là vô cùng quan trọng.

1.2. Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lê nin về vấn đề gia đình

Quan niệm của chủ nghĩa Mác – Lênin về gia đình và vai trò của gia đình là sự kế thừa có bổ sung những tư tưởng trước đó, vì vậy cái nhìn về vai trò của gia đình ở đây trở nên khách quan, toàn diện hơn, phản ánh chân thực về sự vận động, biến đổi cũng như vai trò của gia đình trong xã hội. Tiểu Luận Quan Điểm Của Chủ Nghĩa Mác-Lê Nin

1.2.1. Về khái niệm gia đình

Trong tác phẩm “Hệ tư tưởng Đức”, C.Mác đã đưa ra quan niệm về gia đình: “Hàng ngày tái tạo ra đời sống của bản thân mình con người còn tạo ra những người khác, sinh sôi nảy nở – đó là quan hệ giữa chồng và vợ, cha mẹ và con cái, đó là gia đình… Sự sản xuất ra đời sống – ra đời sống của bản thân mình bằng lao động, cũng như ra đời sống của người khác bằng việc sinh con đẻ cái – biểu hiện ra là một quan hệ song trùng; một mặt là quan hệ tự nhiên, mặt khác là quan hệ xã hội, quan hệ xã hội với ý nghĩa đó là hoạt động kết hợp của nhiều cá nhân, không kể là trong những điều kiện nào, theo cách nào và nhằm mục đích gì”.

Quan niệm này đã chỉ rõ: thứ nhất, gia đình ra đời cùng với sự ra đời và tồn tại của xã hội loài người, cùng với quá trình tái tạo ra chính bản thân con người; thứ hai, gia đình được tạo ra bởi hai quan hệ cơ bản [quan hệ hôn nhân và quan hệ huyết thống]; thứ ba, gia đình có hai nhiệm vụ chính [sản xuất ra của cải vật chất đáp ứng nhu cầu cho cá nhân, gia đình, đóng góp vào sự phát triển xã hội, đồng thời tái sản xuất con người để duy trì nòi giống – đảm bảo cho sự trường tồn của xã hội].

XEM THÊM : Đề Tài Tiểu Luận Môn Triết Học Và Bài Mẫu

Tiểu Luận Quan Điểm Của Chủ Nghĩa Mác Lê Nin Về Vấn Đề Gia Đình

1.2.2. Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lê nin về nguồn gốc, sự hình thành và phát triển của gia đình

Dựa trên quan niệm duy vật về lịch sử, Ăng-ghen đã xem xét, nghiên cứu sự phát triển gia đình trong sự phát triển của sản xuất vật chất. Ông cho rằng: “Nhân tố quyết định trong lịch sử, quy cho đến cùng, là sản xuất và tái sản xuất ra đời sống trực tiếp. Nhưng bản thân sự sản xuất đó lại có hai loại. Một mặt là sản xuất ra tư liệu sinh hoạt, ra thức ăn, quần áo và nhà ở và những công cụ cần thiết để sản xuất ra những thứ đó; mặt khác, là sự sản xuất ra bản thân con người, là sự truyền nòi giống. Những thiết chế xã hội, trong đó những con người của một thời đại lịch sử nhất định và của một nước nhất định đang sống, là do hai loại sản xuất đó quyết định: một mặt là do trình độ phát triển của lao động và mặt khác là do trình độ phát triển của gia đình”. Luận điểm trên của Ăng-ghen đã chỉ ra mối quan hệ biện chứng giữa sự phát triển của sản xuất và sự phát triển của gia đình; trong đó, các quan hệ gia đình bị chi phối bởi sự phát triển của sản xuất và ngược lại, các quan hệ gia đình có ảnh hưởng đến các quan hệ xã hội. Tư tưởng trên của Ăng-ghen chính là sự phản ánh, đúc kết thực tiễn của lịch sử phát triển gia đình.

Quan hệ gia đình và hôn nhân trong buổi bình minh của lịch sử loài người là chế độ quần hôn. Trong chế độ này, người ta không thể xác định được chính xác ai là người cha đích thực của những đứa con sinh ra. Cho nên, về mặt tự nhiên, người mẹ là tiêu chuẩn xác định quan hệ với con cái. Nói cách khác, đặc trưng của quan hệ gia đình trong giai đoạn này là chế độ mẫu quyền.
Cùng với sự phát triển của sản xuất, con người dần thoát khỏi chế độ quần hôn. Người đàn ông, với những tố chất tự nhiên như có sức mạnh cơ bắp, nhanh nhẹn, dũng cảm… đã tỏ ra thích hợp hơn trong việc đảm trách các công việc này. Điều đó dẫn đến việc người đàn ông đóng vai trò chủ đạo trong sản xuất và địa vị của họ trong gia đình cũng ngày càng tăng lên. Đó là tiền đề kinh tế quan trọng để quan hệ gia đình chuyển dần sang chế độ phụ quyền.Tiểu Luận Quan Điểm Của Chủ Nghĩa Mác-Lê Nin

Về mặt lịch sử, các hình thức gia đình phát triển dần từ gia đình cùng dòng máu trong chế độ quần hôn sang gia đình cặp đôi rồi đến gia đình gia trưởng. Nét đặc trưng của gia đình gia trưởng chính là việc người đàn ông chính thức nắm giữ vai trò thống trị trong gia đình. Trong hình thức gia đình đó, người đàn ông giữ vai trò chủ đạo về kinh tế, họ có thể có nhiều vợ, con cái mang họ cha. Khi luận giải bước chuyển từ gia đình cặp đôi sang gia đình gia trưởng, Ăng-ghen đã nhấn mạnh đến sự tích luỹ của cải về phía người đàn ông và xem nó như một yếu tố cơ bản dẫn đến sự chuyển biến từ chế độ mẫu quyền sang chế độ phụ quyền.

Thời đại tư bản chủ nghĩa, với đặc trưng là nền kinh tế phát triển nhanh hơn bất cứ một giai đoạn nào trước đó trong lịch sử, đã sản sinh ra hình thức gia đình một vợ một chồng. Theo quan niệm tư sản, “hôn nhân là một hợp đồng, một công việc có tính pháp lý, hơn nữa lại là một công việc quan trọng nhất trong tất cả các công việc, vì nó định đoạt cả thể xác lẫn tinh thần của hai con người trong suốt cả cuộc đời họ”. Theo Ăng-ghen, hôn nhân tư sản thực tế không dựa trên tình yêu mà do những nhân tố kinh tế quyết định. Qua phân tích những nghịch lý trong chế độ hôn nhân và sự bất bình đẳng giới tính xuất phát từ chế độ tư hữu, ông đã đưa ra kết luận nổi tiếng về chế độ hôn nhân: “Nhưng vì do bản chất của nó, tình yêu là không thể chia sẻ được […] cho nên hôn nhân dựa trên tình yêu giữa nam nữ, do ngay bản chất của nó, là hôn nhân một vợ một chồng”.

Những tư tưởng cơ bản trên đây của Ph.Ăng-ghen không chỉ vạch ra nguồn gốc và sự hình thành gia đình trên tinh thần biện chứng duy vật, mà còn cung cấp cho chúng ta những nguyên lý mang tính phương pháp luận trong nghiên cứu gia đình hiện đại.

1.2.3. Quan điểm chủ nghĩa Mác-Lê nin về các hình thức của gia đình

Cũng như các hình thức cộng đồng xã hội khác, gia đình tồn tại, phát triển thông qua các hình thức của mình, gắn liền với điều kiện kinh tế – xã hội và do điều kiện  kinh tế – xã hội quy định. Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-lê nin, xét toàn bộ lịch sử phát triển của xã hội loài người, có các loại hình gia đình cơ bản: gia đình quần hôn, gia đình đối ngẫu [cặp đôi], gia đình một vợ một chồng. Ph.Ăngghen cho rằng: “Có ba hình thức hôn nhân chính, tương ứng về đại thể với ba giai đoạn phát triển chính của nhân loại. ở thời đại mông muội, có chế độ quần hôn; ở thời đại dã man, có chế độ hôn nhân cặp đôi; ở thời đại văn minh, có chế độ hôn nhân một vợ một chồng được bổ sung bằng tệ ngoại tình và nạn mại dâm”.

Tiểu Luận Quan Điểm Của Chủ Nghĩa Mác-Lê Nin Gia đình quần hôn ra đời trong chế độ công xã nguyên thuỷ, khi mà trình độ lực lượng sản xuất còn rất thấp, cá nhân không tách rời tập thể trong mọi hoạt động lao động sản xuất, tổ chức bảo đảm cuộc sống và sinh đẻ con cái; chế độ chồng chung, vợ chung, nên con cái sinh ra không phân biệt được đâu là cha đẻ của chúng. Chỉ đến khi có bước phát triển mới của lực lượng sản xuất thì tất cả những vấn đề đó mới dần dần được thực hiện chặt chẽ hơn.

Gia đình đối ngẫu [cặp đôi] xuất hiện ở vào giai đoạn cuối chế độ công xã nguyên thuỷ và đầu chế độ chiếm hữu nô lệ. Trong gia đình đối ngẫu, việc kết hôn đã thành từng cặp nhưng đó mới chỉ là sự sàng lọc tự nhiên, nên còn lỏng lẻo. Ngoài những người chồng chính và vợ chính ra, họ còn vô số những người chồng, người vợ khác. Theo đó, con cái sinh ra mang dòng họ của người mẹ, hay còn gọi là chế độ mẫu hệ. Thực chất gia đình đối ngẫu chỉ là hình thức quá độ từ gia đình quần hôn chuyển sang gia đình một vợ một chồng.

Tiểu Luận Quan Điểm Của Chủ Nghĩa Mác-Lê Nin Gia đình một vợ một chồng [cá thể, phụ hệ, phụ quyền] ra đời dưới chế độ tư hữu và tồn tại đến ngày nay. Dưới chế độ tư hữu, công cụ sản xuất ngày càng phát triển, của cải ngày càng dư thừa nhiều và tập trung vào tay một số người, thậm chí một người. Do đó, việc kế thừa tài sản được đặt ra trực tiếp. Mặt khác, do sản xuất phát triển nên chỉ có người đàn ông mới có đủ khả năng thuận lợi để tổ chức, quản lý điều hành sản xuất. Cả hai việc đó đều được nhà nước thừa nhận và bảo vệ, đồng thời là nguyên nhân ra đời gia đình một vợ một chồng.

Gia đình một vợ một chồng trải qua các chế độ xã hội khác nhau, có những nét riêng đặc thù. Trong chế độ tư hữu, một vợ một chồng chỉ là hình thức và có ý nghĩa đối với người vợ mà thôi. Trong xã hội phong kiến, “trai năm thê bảy thiếp, gái chính chuyên chỉ có một chồng”. Trong xã hội tư bản, người vợ trong gia đình tư sản được xem như một thứ công cụ, một thứ đồ chơi trong tay giai cấp tư sản. Ph.Ăngghen viết: “Trong gia đình, người chồng là nhà tư sản, người vợ đại biểu cho giai cấp vô sản”. Cũng trong xã hội tư bản, gia đình của những người công nhân và lao động khác dựa trên sự thương yêu đùm bọc, cùng nhau lao động duy trì sự sống, đấu tranh chống áp bức, bóc lột vì hạnh phúc gia đình và sự phát triển xã hội. Chỉ có trong chủ nghĩa xã hội, gia đình một vợ một chồng mới dựa trên hôn nhân tự nguyện, tự do, tiến bộ và được bảo vệ bằng pháp luật. C.Mác và Ph.Ăngghen chỉ rõ: “Chỉ có trong giai cấp vô sản, thì tình yêu nam nữ mới có thể trở thành một quy tắc trong các quan hệ đối với người phụ nữ… Hơn nữa, từ ngày đại công nghiệp đã giật được người đàn bà ra khỏi nhà, đem họ ra thị trường lao động và vào công xưởng, và thường biến họ thành người nuôi dưỡng của gia đình, thì trong gia đình người vô sản những tàn tích cuối cùng của quyền thống trị của người đàn ông đã mất mọi cơ sở”.

1.2.4. Quan điểm của chủ nghĩa Mác-lê nin về vai trò, chức năng của gia đình

Thứ nhất, gia đình là tế bào của xã hội, là đơn vị nhỏ nhất trong các hình thức cộng đồng xã hội, đơn vị xã hội đầu tiên in dấu ấn xã hội đối với mỗi con người, là cầu nối liền giữa con người với xã hội.

Với tư cách là tế bào xã hội, gia đình thực sự là một nhân tố cơ bản của sự tồn tại và phát triển của xã hội. Bởi vì, chủ nghĩa xã hội cũng như bất cứ chế độ xã hội nào, muốn tồn tại và phát triển đều phải cần đến hai loại sản xuất: một là, sản xuất ra thức ăn, vật dụng… và những công cụ cần thiết để sản xuất ra những thứ đó; hai là, sản xuất ra con người để duy trì nòi giống và tái sản xuất lực lượng lao động. Gia đình với chức năng tái tạo ra con người, tái tạo ra sức lao động đã tham gia ngay từ đầu vào cả hai quá trình sản xuất đó. Ph.Ăngghen cho rằng: “Theo quan điểm duy vật, nhân tố quyết định trong lịch sử, quy đến cùng, là sản xuất và tái sản xuất ra đời sống trực tiếp. Nhưng bản thân sự sản xuất đó lại có hai loại. Một mặt là sản xuất ra tư liệu sinh hoạt, thực phẩm, quần áo, nhà ở và những công cụ cần thiết để sản xuất ra những thứ đó; mặt khác là sự sản xuất ra bản thân con người, là sự truyền nòi giống. Những trật tự xã hội, trong đó những con người của một thời đại lịch sử nhất định và của một nước nhất định đang sống, là do hai loại sản xuất quyết định, một mặt là do trình độ phát triển của lao động và mặt khác là do trình độ phát triển của gia đình”.

Thứ hai, đối với sự phát triển của cá nhân, gia đình là tổ ấm thân yêu đem lại hạnh phúc cho mỗi người.

Tiểu Luận Quan Điểm Của Chủ Nghĩa Mác-Lê Nin Trong gia đình, cá nhân được đùm bọc và giáo dục, trẻ thơ có điều kiện an toàn để khôn lớn, người già có nơi nương tựa, người lao động được phục hồi sức khoẻ và thoái mái về tinh thần; quan hệ sâu đậm giữa vợ – chồng, cha mẹ – con cái, anh – chị – em, những người đồng tâm, đồng cảm, nâng đỡ nhau suốt cả cuộc đời. Có rất nhiều vấn đề ngoài môi trường gia đình không ở đâu có thể đáp ứng và giải quyết có hiệu quả. Chỉ khi nào được yên ấm trong gia đình và hữu ái trong xã hội, cá nhân mới thực sự yên tâm lao động và làm việc sáng tạo. Ngược lại, sự bất hạnh lớn nhất của con người là lâm vào cảnh vô gia cư, gia đình lục đục, tan vỡ, hoặc đói nghèo, khốn quẫn.

Thứ ba, trong mối quan hệ với xã hội, gia đình có vai trò đặc biệt quan trọng

Khi phân tích tiến trình phát triển của lịch sử nhân loại, C.Mác khẳng định gia đình là một trong ba mối quan hệ của con người đã được hình thành trong lịch sử nhân loại: quan hệ thứ nhất là giữa con người với tự nhiên; quan hệ thứ hai là giữa con người với con người trong quá trình sản xuất; và quan hệ thứ ba là gia đình. Ba quan hệ này tồn tại đan xen với nhau, hòa quyện vào nhau, cùng tồn tại bên nhau.

Dựa trên quan điểm duy vật lịch sử khi nghiên cứu sự phát triển của gia đình ở các hình thái kinh tế – xã hội khác nhau, C.Mác và Ph.Ăng ghen đã làm sáng tỏ vai trò quan trọng của gia đình trong mối quan hệ biện chứng với xã hội: “Theo quan điểm duy vật, nhân tố quyết định trong lịch sử, suy đến cùng, là sản xuất và tái sản xuất ra đời sống trực tiếp. Nhưng bản thân sự sản xuất đó lại có hai loại. Một mặt là sản xuất ra tư liệu sinh hoạt: thực phẩm, quần áo, nhà ở và những công cụ cần thiết để sản xuất ra những thứ đó; mặt khác là sự sản xuất ra bản thân con người, là sự truyền nòi giống. Những trật tự xã hội, trong đó những con người của một thời đại lịch sử nhất định và của một nước nhất định đang sống, là do hai loại sản xuất quyết định: một mặt là do trình độ phát triển của lao động và mặt khác là do trình độ phát triển của gia đình”.

Nhấn mạnh vai trò to lớn của gia đình đối với sự phát triển của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, C.Mác cho rằng, gia đình chính là “quan hệ xã hội duy nhất” trong buổi đầu của lịch sử xã hội loài người. Nhờ quan hệ này, với chức năng sinh con đẻ cái, quan hệ gia đình đã sản sinh ra và duy trì các quan hệ xã hội khác. Với nghĩa đó, gia đình là một xã hội thu nhỏ: gia đình sản sinh ra các cá thể người, gắn kết các cá thể người thành xã hội. Về sau, khi dân số tăng lên, nhiều nhu cầu mới xuất hiện. Khi nhu cầu của con người phát triển lại xuất hiện những quan hệ xã hội mới làm cho gia đình từ chỗ “là quan hệ duy nhất” trở thành “quan hệ phụ thuộc”. Sự chuyển biến này gắn liền với quá trình phân công lao động xã hội, với quá trình phát triển xã hội, dẫn đến có sự độc lập tương đối của gia đình đối với xã hội, thậm chí có sự đối lập giữa gia đình và xã hội.

Vai trò to lớn của gia đình được thể hiện ở các chức năng của nó. Đó là chức năng tái sản xuất ra con người; chức năng giáo dục; chức năng kinh tế và tổ chức đời sống; chức năng thoả mãn nhu cầu tâm, sinh lý cho các thành viên. Ngoài các chức năng cơ bản nêu trên, gia đình còn tích cực tham gia quản lý xã hội mà trước hết là quản lý các thành viên trong gia đình, góp phần giữ vững ổn định trật tự và an toàn xã hội.

XEM THÊM : Một Số Mẫu Đề tài Tư Tưởng Hồ Chí Minh

Tiểu Luận Quan Điểm Của Chủ Nghĩa Mác Lê Nin

II. THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ GIA ĐÌNH VÀ MỘT SỐ ĐỊNH HƯỚNG VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM CHỦ NGHĨA MÁC-LÊ NIN VÀO GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ GIA ĐÌNH Ở NƯỚC TA HIỆN NAY

2.1. Thực trạng vấn đề gia đình ở nước ta hiện nay

2.1.1. Những thành tựu nổi bật

Một là, nhận thức về vấn đề gia đình ngày càng đầy đủ, sâu sắc

Tiểu Luận Quan Điểm Của Chủ Nghĩa Mác-Lê Nin Nhận thức đúng vị trí, vai trò và chức năng của gia đình trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, năm 1981, Đảng và Nhà nước ta đã chính thức lấy ngày 28/6 hàng năm là ngày Gia đình Việt Nam; từ đó yêu cầu các cấp, các ngành, Mặt trận Tổ quốc các cấp và các tổ chức chính trị – xã hội quán triệt thực hiện, thường xuyên quan tâm tuyên truyền, giáo dục cho mọi công dân nâng cao trách nhiệm trong xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng ta xác định: “thực hiện các chuẩn mực văn hóa gia đình Việt Nam ấm no, hạnh phúc, tiến bộ và văn minh. Đề cao vai trò của gia đình trong nuôi dưỡng, giáo dục thế hệ trẻ”; Xây dựng gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc, thật sự là tế bào lành mạnh của xã hội, là môi trường quan trọng, trực tiếp giáo dục nếp sống và hình thành nhân cách của mỗi cá nhân, nhất là thanh thiếu niên. Đây là một nhận thức, một phương hướng lớn quan trọng và chính xác trong xây dựng gia đình mới, góp phần quan trọng ổn định an ninh chính trị xã hội và phát triển đất nước vì mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

Hai là, hệ thống pháp luật, chính sách về gia đình và liên quan đến gia đình ngày càng hoàn thiện

Thể chế hóa các chủ trương, chính sách của Đảng, trong mấy thập niên qua, nhiều bộ luật cũng đã ra đời nhằm xây dựng và phát triển gia đình Việt Nam, như Luật Hôn nhân và Gia đình 2000; Pháp lệnh Dân số 2003 [sửa đổi, bổ sung năm 2008]; Luật Bình đẳng giới 2006; Luật Phòng chống bạo lực gia đình 2007; Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em sửa đổi 2004; Luật Người cao tuổi 2009… Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách hỗ trợ cho các gia đình nghèo, đặc biệt khó khăn, gia đình có công với cách mạng, gia đình ở vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn. Công tác dân số, kế hoạch hóa gia đình, bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em đã đạt được những thành tích đáng kể, góp phần xây dựng gia đình hạnh phúc, xã hội ngày càng ổn định và phát triển. Những giá trị nhân văn mới, tiêu biểu là bình đẳng giới và quyền trẻ em, vai trò của người phụ nữ trong gia đình và xã hội ngày càng được đề cao. Những năm qua, việc thành lập cơ quan quản lý nhà nước về gia đình đã khẳng định vai trò của gia đình đối với sự phát triển xã hội và sự quan tâm của xã hội đối với gia đình trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Ba là, các chức năng của gia đình được coi trọng và thực hiện tương đối hiệu quả

Tiểu Luận Quan Điểm Của Chủ Nghĩa Mác-Lê Nin Một trong những chức năng quan trọng hàng đầu của gia đình Việt Nam là chức năng giáo dục. Cha mẹ có nghĩa vụ thương yêu, nuôi dưỡng, giáo dục con cái, chăm lo việc học tập và sự trưởng thành lành mạnh của con cả về thể chất và tinh thần. Nội dung giáo dục gia đình chính là những yếu tố của vấn đề văn hoá gia đình và văn hoá cộng đồng nhằm tạo lập và phát triển nhân cách của con người, như: đạo đức, lối sống, ứng xử, tri thức khoa học, lao động, học tập, dám dấn thân vì sự nghiệp chung của đất nước… Giáo dục gia đình là một bộ phận của giáo dục xã hội; với chức năng giáo dục, gia đình thực sự góp phần lớn lao vào việc đào tạo thế hệ trẻ và xây dựng con người mới nói chung, vào việc duy trì, phát triển đạo đức, văn hoá dân tộc nhằm “xây dựng con người Việt Nam thời đại mới, gắn kết chặt chẽ, hài hòa giữa giá trị truyền thống và giá trị hiện đại”. Với ý nghĩa đó, Đại hội XIII của Đảng xác định: “Tiếp tục xây dựng gia đình kiểu mẫu ông bà, cha mẹ mẫu mực, con cháu thảo hiền, vợ chồng hòa thuận, anh chị em đoàn kết, thương yêu nhau”. Đề cao trách nhiệm của gia đình và xã hội phối hợp chặt chẽ với nhà trường trong giáo dục thế hệ trẻ. Đây là việc kết hợp chặt chẽ giữa các môi trường giáo dục [gia đình – nhà trường – xã hội] để tiến tới mục tiêu nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng và bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Bốn là, nhiều phong trào và hành động xã hội cụ thể đã được tổ chức, thiết thực xây dựng gia đình văn hóa

Phong trào xây dựng “Gia đình văn hóa” với các tiêu chí như: gia đình ấm no, hòa thuận, tiến bộ, khỏe mạnh và hạnh phúc, thực hiện tốt nghĩa vụ công dân… được tổ chức rộng khắp ở các địa phương đã có đóng góp không nhỏ vào việc củng cố gia đình và phát huy vai trò của gia đình đối với sự phát triển xã hội. Ngoài ra, nhiều chương trình, chính sách về xây dựng gia đình cũng được thực hiện. Chẳng hạn như, Chính sách dân số – kế hoạch hóa gia đình; Chính sách xóa đói giảm nghèo…

Tiểu Luận Quan Điểm Của Chủ Nghĩa Mác-Lê Nin Nhiều phong trào và hành động xã hội cụ thể đã được tiến hành nhằm từng bước đưa luật pháp, chính sách của Đảng và Nhà nước đi vào cuộc sống. Chẳng hạn, thông tin tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng từ trung ương đến các địa phương về hôn nhân và gia đình, bình đẳng giới, về chính sách dân số – kế hoạch hóa gia đình, xây dựng gia đình văn hóa, làng văn hóa; xây dựng các câu lạc bộ gia đình hạnh phúc, câu lạc bộ người lớn mẫu mực, trẻ em chăm ngoan, câu lạc bộ phát triển kinh tế gia đình, câu lạc bộ phụ nữ không sinh con thứ ba, câu lạc bộ phòng chống tệ nạn xã hội xâm nhập vào gia đình… Các tổ chức đoàn thể sáng tạo nhiều hình thức vận động, tuyên truyền phong phú, thiết thực như phát động các phong trào “ông bà, cha mẹ mẫu mực, con cháu thảo hiền”, “thắp sáng tình yêu thương trong mỗi gia đình”, “vì một mái ấm gia đình không có bạo lực”…

Những nỗ lực nêu trên của cấp ủy, chính quyền, các đoàn thể và toàn xã hội đã góp phần hiệu quả vào việc xây dựng và phát triển gia đình Việt Nam theo định hướng no ấm, tiến bộ, hạnh phúc. Mức sống các gia đình tăng lên, phúc lợi gia đình được bảo đảm hơn cho các tầng lớp xã hội. Quyền quyết định hôn nhân có nhiều thay đổi theo hướng tăng vai trò chủ động của thanh niên. Việc nâng cao vai trò của phụ nữ, tăng cường bình đẳng giới đã làm tăng hạnh phúc gia đình, trong đó người vợ và người chồng chia sẻ công việc với nhau, cảm thông và quan tâm đến nhau. Người phụ nữ ngày càng có vị thế độc lập trong gia đình. Chung thủy vẫn là một chuẩn mực trong quan hệ vợ chồng. Kính trên nhường dưới tiếp tục là chuẩn mực ứng xử trong gia đình, tuy nhiên mối quan hệ cha mẹ – con cái ngày càng dân chủ hơn. Vai trò và vị thế của con cái trong gia đình đã dần tăng lên. Trẻ em được quan tâm phát triển toàn diện hơn. Xã hội tạo điều kiện nhiều hơn chăm sóc các cụ cao tuổi.

2.1.2. Những hạn chế, bất cập

Thứ nhất, trên thực tế, chúng ta chưa nhận thức đầy đủ vai trò của gia đình với tư cách là một thiết chế xã hội đặc thù có mối quan hệ chặt chẽ với các thiết chế khác trong hệ thống xã hội tổng thể, sự vững mạnh hay bất cập của gia đình sẽ có tác động lớn đối với việc quản lý xã hội nói chung. Gia đình chỉ được coi như là một tập hợp máy móc của những thành viên chứ không được nhìn nhận như một thiết chế độc lập, có sự vận động và phát triển riêng, là đối tượng của các chính sách độc lập. Chính vì vậy, thiết chế gia đình chưa có vai trò thực sự trong việc xây dựng nguồn nhân lực có chất lượng cao tham gia vào sự nghiệp CNH, HĐH đất nước cũng như củng cố sự ổn định và phát triển xã hội nói chung.

Thứ hai, mặc dù Đảng và Nhà nước đã quan tâm đến việc xây dựng hành lang pháp lý tạo tiền đề cho các hoạt động xây dựng và củng cố gia đình, tuy nhiên, hoạt động triển khai và thực thi chính sách gia đình vẫn còn nhiều hạn chế. Nhiều văn bản luật chưa được cán bộ nhận thức đầy đủ. Các điều luật thường mang tính khung, chung chung và để thực thi lại cần phải nhờ tới những văn bản hướng dẫn thực thi dưới luật, tuy nhiên những văn bản hướng dẫn này thường được ban hành quá chậm. Ví dụ như Luật Phòng, chống bạo lực gia đình đã được thông qua từ tháng 11 năm 2007 nhưng cho đến tháng 12 năm 2009 mới có 2 văn bản hướng dẫn thi hành [Nghị định số 08/2009/NĐ-CP ngày 04 tháng 02 năm 2009 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của luật phòng, chống bạo lực gia đình và Nghị định 110/2009/NĐ-CP ngày 10 tháng 12 năm 2009 quy định về các mức xử phạt hành chính]. Tiểu Luận Quan Điểm Của Chủ Nghĩa Mác-Lê Nin

Thứ ba, trong bối cảnh của nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế hiện nay, một số gia đình có biểu hiện coi trọng chức năng kinh tế, sao nhãng chức năng giáo dục. Sự thiếu quan tâm của cha mẹ đối với con cái có thể dẫn đến nhiều hậu quả tiêu cực cả về mối liên hệ tình cảm cha mẹ – con cái hoặc tăng thêm nguy cơ đối với các hành vi lệch chuẩn trong cuộc sống. Không ít trẻ em trong các gia đình không được cha mẹ quan tâm đã bỏ học, đi lang thang bụi đời, để cuối cùng rơi vào vòng xoáy của các tệ nạn xã hội như cờ bạc, nghiện hút, cướp giật, mại dâm và vô số các hiểm họa khác. Có một tỷ lệ không nhỏ các bậc cha mẹ giáo dục con cái không đúng cách, làm ngơ cho lỗi lầm của con trẻ, đánh đòn con bất kể lý do gì, hay có thái độ bất lực đối với các hành vi mắc lỗi của con cái. Tình trạng này rất là nghiêm trọng đối với sự phát triển nhân cách của trẻ và đòi hỏi sự quan tâm nhiều hơn từ phía gia đình và xã hội trong việc bảo vệ sức khỏe thiếu niên.

Thứ tư, mặc dù mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình có xu hướng dân chủ và bình đẳng hơn trước, nhưng vẫn còn tình trạng bạo lực gia đình, đặc biệt là bạo lực của chồng đối với vợ. Trong quan hệ giữa vợ và chồng, việc phân công lao động trên cơ sở giới vẫn còn duy trì, mặc dù đã có sự chia sẻ cân bằng hơn giữa hai giới trong công việc sản xuất kinh doanh hoặc một số loại việc khác. Nhìn chung, sự tham gia của nam giới vào công việc nội trợ không tăng đáng kể và chưa tương xứng với sự gia tăng của phụ nữ trên thị trường lao động. Lao động nội trợ không được nhận thức thỏa đáng cả từ phía nam giới và phụ nữ và có thể dẫn đến hậu quả tiêu cực cho quan hệ vợ – chồng và các thành viên khác. Gánh nặng lao động “kép”, với qũy thời gian hạn hẹp, sức khỏe kém đi,… đang gây trở ngại cho phụ nữ phát triển năng lực, kể cả về thể chất lẫn đời sống văn hóa tinh thần, do đó cũng làm giảm chất lượng mối quan hệ vợ – chồng Truyền thống người chồng đứng tên quyền sở hữu các tài sản lớn của gia đình vẫn còn tồn tại khá phổ biến, đặc biệt ở các vùng nông thôn. Quan niệm về người chủ gia đình có sự thay đổi chậm, phần lớn người dân vẫn coi nam giới là chủ gia đình.

Tiểu Luận Quan Điểm Của Chủ Nghĩa Mác-Lê Nin Bạo lực gia đình còn nghiêm trọng, trong đó nổi bật nhất là bạo lực của người chồng đối với người vợ, đang là vấn đề được sự quan tâm của xã hội. Gắn theo đó là vấn đề ly hôn. Số liệu thống kê cho thấy số lượng các cuộc ly hôn tăng dần qua các năm và tỷ lệ nữ đứng đơn ly hôn ngày càng nhiều hơn nam giới. Việc đứng đơn ly hôn của người phụ nữ phần nào cho thấy địa vị của người phụ nữ đã thay đổi, nhận thức về quyền của họ đã được nâng lên, người phụ nữ đang ngày càng tự chủ hơn trong đời sống hôn nhân của mình. Tuy nhiên, đằng sau các lá đơn ly hôn, kể cả khi phụ nữ đứng tên, cũng phản ánh một sự thật là ngày nay, tác động của nền kinh tế thị trường đã len lỏi vào đời sống gia đình, nhiều khi chi phối cả mối quan hệ giữa chồng và vợ và dẫn đến những cuộc ly hôn đáng tiếc. 2.2. Định hướng vận dụng quan điểm chủ nghĩa Mác-Lê nin trong giải quyết vấn đề gia đình ở nước ta hiện nay

2.2.1. Tiếp tục nâng cao nhận thức của các tổ chức, lực lượng, mọi tầng lớp nhân dân về vị trí, vai trò của gia đình và vấn đề gia đình

Đẩy mạnh, đổi mới công tác phổ biến, tuyên truyền, giáo dục chính sách, pháp luật về hôn nhân và gia đình; các chuẩn mực, giá trị văn hóa gia đình; kiến thức, kỹ năng xây dựng gia đình; các rủi ro đối với gia đình, giúp người dân chủ động phòng ngừa các ảnh hưởng tiêu cực đến gia đình. Tăng cường giáo dục đạo đức, lối sống trong gia đình. Phát huy vai trò của gia đình, cộng đồng, xã hội trong việc xây dựng môi trường văn hóa, con người Việt Nam giàu lòng nhân ái, khoan dung, chân thành, tín nghĩa, trọng đạo lý, cần cù, chăm chỉ, tiết kiệm, sáng tạo, khát vọng, hiện đại.

Các cấp ủy, tổ chức đảng phải thường xuyên lãnh đạo, chỉ đạo công tác xây dựng gia đình; phát huy vai trò, trách nhiệm người đứng đầu các cấp về công tác xây dựng gia đình. Cán bộ, đảng viên phải nêu gương và vận động nhân dân tích cực tham gia xây dựng gia đình hạnh phúc. Tiếp tục xây dựng và nhân rộng các mô hình gia đình văn hóa tiêu biểu, nền nếp, ông bà, cha mẹ mẫu mực, con cháu hiếu thảo, vợ chồng hòa thuận, anh chị em đoàn kết, thương yêu nhau. Đề cao vai trò của gia đình trong nuôi dưỡng, định hướng giá trị, giáo dục thế hệ trẻ. Kiên quyết đấu tranh chống lối sống thực dụng, tệ nạn xã hội, bạo lực gia đình, xóa bỏ các hủ tục, tập quán lạc hậu trong hôn nhân và gia đình. Khắc phục bệnh thành tích, hình thức trong công tác xây dựng gia đình. Tiểu Luận Quan Điểm Của Chủ Nghĩa Mác-Lê Nin Về Vấn Đề Gia Đình

2.2.2. Tiếp tục hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật về gia đình, nâng cao năng lực quản lý nhà nước về công  tác xây dựng gia đình

Tiểu Luận Quan Điểm Của Chủ Nghĩa Mác-Lê Nin Các chính sách về gia đình phải hướng đến mục tiêu xây dựng gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc, văn minh, chú trọng đến đối tượng trẻ em và người bệnh tật, cao tuổi. Xây dựng danh mục dịch vụ công thuộc lĩnh vực gia đình. Phát triển hệ thống cung cấp dịch vụ xã hội cơ bản đối với gia đình, hỗ trợ gia đình phát triển bền vững, hạnh phúc và thực hiện bình đẳng giới. Huy động các cá nhân, tổ chức xã hội, cộng đồng tham gia cung cấp dịch vụ gia đình và chăm lo giúp đỡ, hỗ trợ các gia đình nghèo, khó khăn; bảo đảm gia đình được tiếp cận dịch vụ xã hội cơ bản công bằng, bình đẳng, thuận lợi. Gắn việc thực hiện công tác xây dựng gia đình với Đề án tổng thể phát triển kinh tế-xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi; Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững; Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới.

Xây dựng, phát triển hệ giá trị gia đình Việt Nam trong thời kỳ mới. Xây dựng Chiến lược phát triển gia đình Việt Nam giai đoạn 2021-2030, định hướng đến năm 2045; chương trình giáo dục quốc gia về gia đình; chương trình giáo dục đạo đức, lối sống trong gia đình và các chương trình, dự án hỗ trợ xây dựng gia đình hạnh phúc. Xây dựng dữ liệu số quốc gia về gia đình làm cơ sở cho việc hoạch định chính sách, chương trình kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội. Nâng cao chất lượng hoạt động hỗ trợ gia đình tiếp cận các nguồn lực xã hội. Ưu tiên đầu tư cho nghiên cứu khoa học về gia đình; hoạch định, tổ chức thực hiện và đánh giá chính sách về gia đình; sáng tác các tác phẩm văn học-nghệ thuật về chủ đề gia đình.

Đổi mới, kiện toàn tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về gia đình bảo đảm tinh gọn, hiệu quả, thống nhất, gắn kết với các lĩnh vực dân số, bình đẳng giới và trẻ em. Tập trung đào tạo, bồi dưỡng nhân lực làm công tác gia đình theo hướng tích hợp đa ngành, phân định rõ đào tạo chuyên môn và cán bộ quản lý công tác gia đình.

2.2.3. Kế thừa những truyền thống tốt đẹp của gia đình Việt Nam

Tiểu Luận Quan Điểm Của Chủ Nghĩa Mác-Lê Nin Gia đình truyền thống Việt Nam có những giá trị tốt đẹp cần được kế thừa và phát huy trong điều kiện mới như: “thuận vợ thuận chồng tát bể Đông cũng cạn”; uống nước nhớ nguồn; trẻ cậy cha, già cậy con; kính trên nhường dưới; con cháu hiếu thảo với ông bà, cha mẹ; tối lửa tắt đèn, chòm xóm có nhau, lá lành đùm lá rách… Tất cả những giá trị tốt đẹp ấy vừa tạo nên sự cố kết trong gia đình lại vừa đoàn kết tình làng nghĩa xóm; tình yêu gia đình gắn chặt với tình yêu dân tộc.

Tuy nhiên, trong quá trình xây dựng gia đình mới cũng cần khắc phục, loại bỏ những giá trị không còn phù hợp của gia đình truyền thống như: tính gia trưởng, bất bình đẳng về giới, bất bình đẳng trong quan hệ giữa các thế hệ; những nghi lễ rườm rà tốn kém trong ma chay, cưới hỏi; tính cục bộ theo dòng họ, địa phương… Mặt khác, trong điều kiện hiện nay, sự chuyển đổi hệ giá trị từ gia đình truyền thống sang gia đình hiện đại đang đòi hỏi phải tiếp thu có chọn lọc các giá trị văn hoá của nhân loại, đồng thời ngăn chặn sự xâm nhập, lây lan của hôn nhân và gia đình tư sản như thực dụng trong tình yêu, quan hệ tình dục phóng đãng, tình trạng “cặp bồ”, lối sống bạo lực trong gia đình, đèn nhà ai nhà ấy rạng, cháy nhà hàng xóm bình chân như vại… Có như vậy mới bảo đảm cho gia đình Việt Nam được xây dựng vững chắc trên nền tảng kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội của chủ nghĩa xã hội, vừa bảo tồn được các giá trị tốt đẹp của gia đình truyền thống, lại vừa dung nạp thêm những tinh hoa của nhân loại về gia đình.

2.2.4. Thực hiện hôn nhân tự do, tiến bộ

Hôn nhân tự do, tiến bộ là hôn nhân dựa trên tình yêu chân chính. Thực hiện hôn nhân tự do, tiến bộ là để cho nam, nữ đều có quyền tự do định đoạt tương lai, hạnh phúc của họ, kiên quyết không chấp nhận sự ép duyên, gả bán từ phía bố mẹ hay bất kỳ một phía nào khác. Có như vậy, nam nữ mới có tình cảm và trách nhiệm đầy đủ với nhau, tránh được những đau khổ cho cả hai người, nhất là đối với phụ nữ.

Tiểu Luận Quan Điểm Của Chủ Nghĩa Mác-Lê Nin Hôn nhân tự do, tiến bộ đòi hỏi phải được bảo đảm về mặt pháp lý. Điều đó không chỉ thể hiện trách nhiệm của hai người đối với việc kết hôn, với việc xây dựng gia đình tương lai của mình và trách nhiệm trước xã hội, mà còn là yêu cầu cần thiết bảo đảm cho việc xây dựng gia đình hạnh phúc, bền vững, ngăn chặn những kẻ xấu lợi dụng, làm hại những người nhẹ dạ cả tin, phá vỡ cuộc sống hạnh phúc của người khác. Hôn nhân tự do, tiến bộ còn bao hàm cả quyền ly hôn khi có những lý do chính đáng. Thực hiện chế độ hôn nhân một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng. Hôn nhân một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng phù hợp với quy luật phát triển của tự nhiên, của xã hội, với tâm lý tình cảm và đạo đức con người, đồng thời là cơ sở bảo đảm xây dựng gia đình hạnh phúc, bền vững. Để thực hiện chế độ hôn nhân một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng, chúng ta cần phải kiên quyết đấu tranh loại bỏ những tàn dư tư tưởng lạc hậu của chế độ hôn nhân và gia đình phong kiến, ngăn chặn những biểu hiện thực dụng của hôn nhân và gia đình tư sản cùng các hiện tượng tiêu cực khác trong đạo đức và lối sống.

2.2.5. Xây dựng các mối quan hệ trong gia đình thực sự bình đẳng

Một trong những cơ sở quan trọng hình thành nên văn hoá gia đình là các mối quan hệ trong gia đình: quan hệ giữa vợ – chồng, cha mẹ – con cái, anh – chị – em, con cháu – ông bà, cô dì, chú bác. Do vậy, xây dựng các mối quan hệ trong gia đình thực sự bình đẳng trực tiếp góp phần xây dựng gia đình văn hoá, bảo đảm cho gia đình là tế bào lành mạnh của xã hội.

Trong gia đình, vợ- chồng phải thực sự bình đẳng, tôn trọng nhau, có quyền lợi và nghĩa vụ ngang nhau về mọi mặt trong đời sống gia đình, có quyền tự do lựa chọn những vấn đề riêng chính đáng như nghề nghiệp, tham gia hoạt động xã hội; phải thống nhất giải quyết những vấn đề chung như nơi ở, tổ chức đời sống, các mối quan hệ của gia đình và giáo dục con cái trên cơ sở cùng nhau trao đổi bàn bạc và tổ chức thực hiện; thương yêu chăm sóc và giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ; thường xuyên quan tâm đến đặc điểm giới tính của nhau để thông cảm tạo điều kiện cho nhau cùng hoàn thành nghĩa vụ đối với gia đình và xã hội; đặc biệt là phải chung thuỷ vì điều này thể hiện bản chất của tình yêu sau hôn nhân và cũng là yêu cầu của hình thức hôn nhân mới trong chủ nghĩa xã hội.

Tiểu Luận Quan Điểm Của Chủ Nghĩa Mác-Lê Nin Cùng với quan hệ vợ – chồng, trong xây dựng gia đình cần chú ý đến quan hệ cha mẹ với các con, quan hệ giữa các con với nhau. Tất cả những mối quan hệ ấy đều phải dựa trên cơ sở dân chủ, bình đẳng, thương yêu, có trách nhiệm cùng chia sẻ, gánh vác công việc của các thành viên để thực hiện các chức năng cơ bản của gia đình và nghĩa vụ xã hội.

2.2.6. Nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho gia đình

Sự phát triển của gia đình gắn liền với những điều kiện kinh tế – xã hội và do điều kiện kinh tế – xã hội quy định. Do đó, để xây dựng gia đình mới trong chủ nghĩa xã hội, nhất là thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội thì vấn đề quan trọng là phải nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho các thành viên gia đình. Sự no ấm về đời sống vật chất, lành mạnh và phong phú về đời sống văn hoá tinh thần là những tiền đề vững chắc bảo đảm cho sự phát triển về thể chất, trí tuệ, đạo đức… của các thành viên gia đình, đồng thời góp phần thiết thực vào việc chuẩn bị nguồn lực con người và phát huy nguồn lực con người cho sự phát triển nhanh và bền vững của đất nước.

Nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho các thành viên gia đình có nội dung toàn diện, bảo đảm cho các gia đình có đời sống vật chất ngày càng no đủ, dồi dào; nơi ở và làm việc, nghỉ ngơi khang trang, sạch đẹp; phương tiện đi lại thuận tiện cho học tập, công tác, sinh hoạt và giải quyết các mối quan hệ xã hội. Đời sống tinh thần ngày càng phong phú dựa trên nền tảng vật chất kỹ thuật hiện đại, phù hợp với khả năng lao động cống hiến của mỗi gia đình và từng thành viên, đồng thời là kết quả của sự lao động cần cù, sáng tạo, chính đáng của gia đình và thành viên gia đình.

 

KẾT LUẬN

Gia đình là một thiết chế xã hội đặc biệt trong cơ cấu của xã hội. Sự ổn định và phát triển của gia đình có vị trí, vai trò hết sức quan trọng đối với sự ổn định và phát triển xã hội. Ngày nay, gia đình là một trong những lĩnh vực đang diễn ra những biến động to lớn, do vậy, nó thu hút sự quan tâm nghiên cứu của nhiều ngành khoa học xã hội, trong đó có triết học. Trong địa hạt những nghiên cứu về gia đình, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lê nin đã có những đóng góp rất quan trọng. Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lê nin về vấn đề gia đình đến nay vẫn còn nguyên giá trị lý luận và thực tiễn sâu sắc.

Trên cơ sở vận dụng sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, Đảng và Nhà nước ta ngày càng nhận thức đầy đủ và sâu sắc hơn về vị trí, vai trò của gia đình và vấn đề gia đình trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước. Việc giải quyết vấn đề gia đình ở nước ta đã đạt được nhiều thành tựu to lớn. Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn còn những hạn chế, bất cập. Vì vậy, tiếp tục nghiên cứu, vận dụng quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về vấn đề gia đình ở nước ta vừa là nhiệm vụ thường xuyên, vừa là vấn đề hết sức cần thiết hiện nay. Tuy nhiên, đây là một vấn đề phức tạp, lâu dài, cần có lộ trình và bước đi thích hợp. Hơn nữa, thực tiễn luôn vận động và phát triển, nên vấn đề này cần được tiếp tục nghiên cứu, bổ sung, hoàn thiện./.

 Trên đây là toàn bộ bài Tiểu Luận Quan Điểm Của Chủ Nghĩa Mác-Lê Nin mà mình đã chía sẻ đầy đủ nội dung chi tiết trên đây. Nếu các bạn đang gặp khó khăn trong quá trình viết một bài tiểu luận thì bên mình có dịch vụ viết thuê tiểu luận với nhiều đề tài đa dạng khác nhau. Mọi vấn đề sẽ được giải quyết trong tích tắc, hãy liên hệ với dịch vụ viết thuê tiểu luận qua zalo 0932091562 để mình hỗ trợ tư vấn và báo giá cho các bạn nhé.

[1] Mạnh tử – Tập hạ, Tứ thơ, Nxb Thuận Hóa, Huế, 1996, tr.13.

[2] Đại học, Trung dung, Tứ thơ, Nxb Thuận Hóa, Huế, 1996, tr.20

[3] Bộ Giáo dục và Đào tạo [2004], Giáo trình Triết học Mác – Lênin [Dùng cho các trường cao đẳng và đại học], Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.74.

[4] Đỗ Minh Hợp, Nguyễn Anh Tuấn [2006], Đại cương lịch sử triết học phương Tây, Nxb Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh, tr.108-109.

[5] C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tập 21, tr.44.

[6] C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tập 23, tr.232.

[7] C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tập 13, tr.127

[8] C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tập 13, tr.129

[9] C. Mác  và Ph.Ăngghen, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tập 21, tr.117.

[10] C. Mác  và Ph.Ăngghen, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tập 21, tr.116.

[11] C. Mác  và Ph.Ăngghen, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tập 21, tr.113

[12] C. Mác  và Ph.Ăngghen, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tập 21, tr.44

[13] C. Mác  và Ph.Ăngghen, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tập 21, tr.44

[14] Đảng Cộng sản Việt Nam [2021], Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tập I, tr.69

Theo Ăngghen gia đình có vai trò như thế nào?

Gia đình không chỉ là “tế bào” tự nhiên mà còn là một đơn vị kinh tế của xã hội. Gia đình không chỉ giữ vai trò nền tảng, tế bào của xã hội, duy trì nòi giống, mà quan trọng hơn, gia đình phải trở thành môi trường tốt, đầu tiên để giáo dục nếp sống, hình thành nhân cách con người.

Gia đình là phạm trù gì?

Gia đình là thiết chế xã hội, trong đó những người có quan hệ ruột thịt [hoặc đặc biệt cùng chung sống]. Gia đình là phạm trù biến đổi mang tính lịch sử và phản ánh văn hóa của dân tọc và thời đại. Gia đình là trường học đầu tiên có mối quan hệ biện chứng với tổng thể xã hội.

Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin bản chất của tình yêu là gì?

Tình yêu, theo quan niệm của ông, những giá trị cao quý, quyền hết sức cơ bản của con người. Nhưng, để có được tình yêu và hôn nhân thật sự tự do, trước hết phải xoá bỏ chế độ tư hữu, xoá bỏ mọi sự áp bức, bóc lột.

Gia đình là gì trong chủ nghĩa xã hội?

Gia đình – đơn vị xã hội [nhóm xã hội nhỏ], hình thức tổ chức xã hội quan trọng nhất của sinh hoạt cá nhân dựa trên hôn nhân và các quan hệ huyết thống, tức quan hệ vợ chồng, giữa cha và mẹ, giữa anh chị em và người thân thuộc khác cùng chung sống và có kinh tế chung.

Chủ Đề