Ví dụ các biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng

Các biện pháp bảo đảm thực hiện Hợp đồng là gì?

Trả lời từ Luật Vạn Tín:

Các biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng được quy định từ Điều 318 đến Điều 373 Bộ luật dân sự năm 2005 bao gồm: cầm cố tài sản, thế chấp tài sản [bao gồm cả cầm cố, thế chấp bằng tài sản của người thứ ba], đặt cọc, ký cược, ký quỹ, bảo lãnh và tín chấp. Theo các quy định của pháp luật hiện hành thì các bên trong hợp đồng có quyền tự chủ, tự do cam kết và tự do thoả thuận đồng thời các bên cũng phải tự chịu trách nhiệm đối với các cam kết, thoả thuận của mình. Điều này được thể hiện rõ nhất trong các quy định về giao kết, thực hiện hợp đồng cầm cố, thế chấp và bảo lãnh. Các bên có thể linh hoạt hơn và tự chủ hơn trong việc xử lý các tình huống phát sinh, cụ thể như sau:

  • Về phạm vi bảo đảm thực hiện nghĩa vụ: các bên được toàn quyền thoả thuận về phạm vi bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự. Nghĩa vụ có thể được bảo đảm một phần hoặc toàn bộ theo thoả thuận hoặc theo quy định của pháp luật. Nếu các bên không có thoả thuận và pháp luật không có quy định thì nghĩa vụ coi như được đảm bảo toàn bộ, kể cả nghĩa vụ trả lãi và bồi thường thiệt hại. Đồng thời, các bên cũng có quyền thoả thuận về các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ để bảo đảm thực hiện các loại nghĩa vụ, không chỉ nghĩa vụ hiện tại mà còn nghĩa vụ trong tương lai hoặc nghĩa vụ có điều kiện.
  • Về tài sản bảo đảm thực hiện nghĩa vụ:
    • BLDS thể hiện quan điểm là về nguyên tắc mọi tài sản đều có thể được dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trừ một số trường hợp mà pháp luật cấm. Trước hết, vật bảo đảm thực hiện nghĩa vụ phải là tài sản thuộc quyền sở hữu của bên bảo đảm và được phép giao dịch. Vật ở đây có thể là vật hiện có hoặc vật được hình thành trong tương lai. Nếu là vật hình thành trong tương lai thì vật đó phải là động sản, bất động sản thuộc sở hữu của bên bảo đảm sau thời điểm nghĩa vụ được xác lập hoặc giao dịch bảo đảm được giao kết. Ngoài các tài sản thông thường như đất đai, nhà cửa, phương tiện giao thông… thì các tài sản khác như tiền, trái phiếu, cổ phiếu, kỳ phiếu và giấy tờ có giá khác cũng được dùng làm tài sản bảo đảm thực hiện nghĩa vụ.
    • Ngoài các tài sản nói trên thì các quyền tài sản thuộc sở hữu của bên bảo đảm cũng có thể trở thành tài sản bảo đảm, bao gồm: quyền tài sản phát sinh từ quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp, quyền đối với giống cây trồng, quyền đòi nợ, quyền được nhận số tiền bảo hiểm đối với vật bảo đảm, quyền tài sản đối với phần vốn góp trong doanh nghiệp, quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng và các quyền tài sản khác thuộc sở hữu của bên bảo đảm. Quyền sử dụng đất và quyền khai thác tài nguyên thiên nhiên cũng được dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ hợp đồng.
  • Về vấn đề một tài sản dược dùng để bảo đảm thực hiện nhiều nghĩa vụ:
    • Một tài sản có thể được dùng để bảo đảm thực hiện nhiều nghĩa vụ nếu giá trị của tài sản đó tại thời điểm xác lập giao dịch bảo đảm lớn hơn tổng giá trị các nghĩa vụ được bảo đảm, trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác. Trong trường hợp này bên bảo đảm phải thông báo cho bên nhận bảo đảm sau biết về việc tài sản bảo đảm đang được dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ khác. Trong trường hợp phải xử lý tài sản để thực hiện một nghĩa vụ đến hạn thì các nghĩa vụ khác tuy chưa đến hạn cũng được coi là đến hạn và tất cả các bên cùng nhận bảo đảm đều được tham gia xử lý tài sản. Bên nhận bảo đảm đã thông báo về việc xử lý tài sản có trách nhiệm xử lý tài sản nếu các bên cùng nhận bảo đảm không có thoả thuận khác. Trường hợp các bên muốn tiếp tục thực hiện các nghĩa vụ chưa đến hạn thì có thể thoả thuận về việc bên bảo đảm dùng tài sản khác để bảo đảm việc thực hiện các nghĩa vụ chưa đến hạn.
    • Trong số các biện pháp thực hiện nghĩa vụ dân sự thì các biện pháp cầm cố và thế chấp thường được các bên áp dụng nhiều nhất. Do đó, BLDS đã quy định rất cụ thể về vấn đề này. BLDS thể hiện quan điểm bên cầm cố, thế chấp tuy bị hạn chế một số quyền nhưng họ cũng có những quyền tự chủ nhất định, nhất là trong hoạt động sản xuất, kinh doanh. Ví dụ, bên thế chấp có quyền được khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản trừ trường hợp hoa lợi, lợi tức cũng thuộc tài sản thế chấp theo thoả thuận của các bên; được đầu tư để làm tăng giá trị của tài sản thế chấp; được bán, thay thế tài sản thế chấp, nếu tài sản đó là hàng hoá luân chuyển trong quá trình sản xuất, kinh doanh. Trong trường hợp bán tài sản thế chấp là hàng hoá luân chuyển trong quá trình sản xuất, kinh doanh thì quyền yêu cầu bên mua thanh toán tiền và số tiền thu được hoặc tài sản hình thành từ số tiền thu được trở thành tài sản thế chấp thay thế cho số tài sản đã bán; được bán, trao đổi, tặng cho tài sản thế chấp không phải là hàng hoá luân chuyển trong quá trình sản xuất, kinh doanh nếu được bên nhận thế chấp đồng ý; được cho thuê, cho mượn tài sản thế chấp nhưng phải thông báo cho bên thuê, bên mượn biết về việc tài sản cho thuê, cho mượn đang được dùng để thế chấp và phải thông báo cho bên nhận thế chấp biết.

19/12/2018 25.928 lượt xem

Bộ luật Dân sự [BLDS] 2015 quy định 9 biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự tại Điều 292 bao gồm: cầm cố tài sản, thế chấp tài sản, đặt cọc, ký cược, kỹ quỹ, bảo lưu quyền sở hữu, tín chấp và cầm giữ tài sản. So với BLDS 2005, BLDS 2015 bổ sung thêm 2 biện pháp bảo đảm mới: bảo lưu quyền sở hữu và cầm giữ tài sản.

Các biện pháp bảo đảm có thể được sử dụng để bảo đảm cho một nghĩa vụ hiện tại hoặc một nghĩa vụ hình thành trong tương lai [khoản 2 Điều 293 BLDS 2015]. Nghĩa vụ hiện tại là nghĩa vụ đã được hình thành cụ thể tại thời điểm giao kết giao dịch bảo đảm. Ví dụ, A vay B một khoản tiền và thực hiện biện pháp bảo đảm là cầm cố xe máy của A cho B. Nghĩa vụ hình thành trong tương lai là nghĩa vụ chưa được hình thành tại thời điểm xác lập giao dịch bảo đảm.

Về nguyên tắc, pháp luật Dân sự luôn tôn trọng sự thỏa thuận của các bên khi tham gia giao kết hợp đồng, chỉ cần thỏa thuận đó không vi phạm điều cấm pháp luật, trái đạo đức xã hội. Vì vậy, phạm vi biện pháp bảo đảm được trước tiến được xác định theo thỏa thuận của các bên, các bên có quyền thỏa thuận biện pháp bảo đảm chỉ được sử dụng để bảo đảm cho một phần nghĩa vụ hoặc bảo đảm cho toàn bộ nghĩa vụ chính. Trong trường hợp các bên không có thỏa thuận thì phạm vi bảo đảm được coi là toàn bộ, kể cả nghĩa vụ trả tiền lãi, tiền bồi thường thiệt hại và tiền phạt vi phạm [Khoản 1 Điều 293 BLDS 2015].

Tài sản bảo đảm có thể là tài sản hiện có hoặc tài sản hình thành trong tương lai. Tài sản hiện có là tài sản đã hình thành tại thời điểm giao kết giao dịch bảo đảm. Tài sản hình thành trong tương lai là tài sản thuộc sở hữu của bên bảo đảm sau thời điểm nghĩa vụ được xác lập hoặc giao dịch bảo đảm được giao kết. Tài sản hình thành trong tương lai bao gồm cả tài sản đã được hình thành tại thời điểm giao kết giao dịch bảo đảm, nhưng sau thời điểm giao kết giao dịch bảo đảm mới thuộc sở hữu của bên bảo đảm. Tại Điểm 2, Điều 1 Nghị định 11/2012/NĐ-CP sửa đổi bổ sung một số điều của nghị định 163/2006/NĐ-CP quy định tài sản hình thành trong tương lai gồm: Tài sản được hình thành từ vốn vay; tài sản đang trong giai đoạn hình thành hoặc đang được tạo lập hợp pháp tại thời điểm giao kết giao dịch bảo đảm; tài sản đã hình thành và thuộc đối tượng phải đăng ký quyền sở hữu, nhưng sau thời điểm giao kết giao dịch bảo đảm thì tài sản đó mới được đăng ký theo quy định của pháp luật. Tài sản hình thành trong tương lai không bao gồm quyền sử dụng đất. Giá trị tài sản bảo đảm khi một tài sản được dùng để bảo đảm thực hiện nhiều nghĩa vụ dân sự. Một tài sản có thể được dùng để đảm bảo thực hiện nhiều nghĩa vụ dân sự nếu có giá trị tại thời điểm xác lập giao dịch bảo đảm lớn hơn tổng các giá trị các nghĩa vụ được bảo đảm, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác.

Chỉ công việc phải thực hiện được mới là đối tượng của các biện pháp bảo đảm [trong biện pháp bảo lãnh và biện pháp tín chấp]. Các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bản chất là một quan hệ trái quyền: Bên có quyền [bên nhận bảo đảm] chỉ có thể thỏa mãn được quyền của mình thông qua hành vi thực hiện nghĩa vụ của bên có nghĩa vụ [bên bảo đảm hoặc bên được bảo đảm]. Khi bên được bảo đảm không thực hiện, thực hiện không đúng nghĩa vụ trước bên nhận bảo đảm sẽ xâm phạm đến quyền lợi hợp pháp của bên nhận bảo đảm. Lúc này, lợi ích của bên nhận bảo đảm chỉ được thỏa mãn thông qua hành vi tực hiện nghĩa vụ thay của bên bảo đảm. Chính vì vậy, khi đối tượng của các biện pháp bảo đảm là công việc thì nó phải là công việc phải thực hiện, ví dụ: việc người bảo lãnh thực hiện một công việc cho bên nhận bảo lãnh theo thỏa thuận.

Không giống như quy định trong BLDS 2005, BLDS 2015 không quy định về hình thức của từng biện pháp bảo đảm riêng biệt ở từng biện pháp, điều này nhằm tránh trùng lặp của các điều luật. Hơn nữa, bản chất các biện pháp bảo đảm cũng là những hợp đồng dân sự mà hình thức của hợp đồng dân sự cũng được quy định theo hình thức của giao dịch dân sự [Điều 119 BLDS 2015]. Theo quy định này, hình thức của các biện pháp bảo đảm có thể được thể hiện dưới dạng lời nói, văn bản hoặc bằng hành vi. Trong trường hợp luật có quy định hình thức của biện pháp bảo đảm phải được thể hiện dưới dạng văn bản hoặc văn bản phải đăng ký thì các bên bắt buộc phải tuân theo. Ví dụ, biện pháp tín chấp bắt buộc phải thể hiện bằng văn bản. Thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất bắt buộc phải lập thành văn bản được công chứng hoặc chứng thực và đăng ký theo quy định của Luật Đất đai.

Biện pháp bảo đảm [BPĐB] được đăng ký theo thỏa thuận của các bên hoặc theo quy định của pháp luật [khoản 1 Điều 298 BLDS 2015]. Luật Dân sự tôn trọng ý chí tự nguyện, tự thỏa thuận của các bên. Vì vậy khi xác lập mọi giao dịch bảo đảm các bên đều có thể thỏa thuận phải đi đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Ví dụ, C cầm cố điện thoại cho D để vay 2 triệu đồng. C và D hoàn toàn có thể thỏa thuận ký kết hợp đồng dưới hình thức văn bản rồi đêm đi đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Tuy nhiên, trong một số trường hợp nhất định, để đảm bảo sự ổn định của các quan hệ dân sự cũng như đảm bảo được yếu tố quản lý của nhà nước, đối với một số BPBĐ luật yêu cầu các bên phải đăng ký thì bắt buộc các bên phải tuân theo các giao dịch này thông thường liên quan đến quyền sử dụng đất. Ví dụ, thế chấp quyền sử dụng đất; thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất.

Bản chất của các BPĐB là những hợp đồng dân sự, do đó hiệu lực của các BPĐB phải tuân theo quy định về hiệu lực của các hợp đồng dân sự theo Điều 401 BLDS 2015: “Hợp đồng được giao kết hơp pháp có hiệu lực tại thời điểm giao kết, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật liên quan có quy định khác”.

Khi xem xét mối quan hệ về hiệu lực giữa hợp đồng chính và hợp đồng phụ, BLDS đã quy định: hợp đồng chính là hợp đồng mà hiệu lực của nó không phụ thuộc vào hợp đồng phụ. Còn hợp đồng phụ là hợp đồng mà hiệu lực của nó phụ thuộc vào hiệu lực của hợp đồng chính [khoản 3, 4 Điều 402 BLDS 2015]. Nếu hợp đồng chính vô hiệu sẽ kéo theo sự vô hiệu của hợp đồng phụ. Tuy nhiên tại khoản 2 Điều 407 BLDS 2015 quy định, “Sự vô hiệu của hợp đồng chính làm chấm dứt hợp đồng phụ, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận hợp đồng phụ được thay thế hợp đồng chính. Quy định này không áp dụng đối vói các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự”. Cho nên với quy định này chúng ta thấy rằng, trường hợp một nghĩa vụ dân sự có kèm theo biện pháp bảo đảm mà nghĩa vụ dân sự đó vô hiệu thì các biện pháp bảo đảm chưa chắc đã vô hiệu theo.

Để hiểu rõ hơn các biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng, hãy liên hệ ngay với 7SLAW. Với kinh nghiệm nhiều năm trong lĩnh vực hợp đồng, cùng đội ngũ luật sư, chuyên viên tư vấn trình độ cao, 7SLAW tự tin đem đến Quý khách hàng những dịch vụ tốt nhất, hài lòng nhất.

Hãy liên hệ với chúng tôi ngay hôm nay để được tư vấn, hỗ trợ

Hotline: 093.677.8880 gặp Mr.Hiệp hoặc 0911.173.322 gặp Ms.Thương

Email: 

Video liên quan

Chủ Đề