Vì sao nói bài thơ có yếu tố tự sự và miêu tả? hãy đưa ra những lí giải, minh chứng cụ thể.

CHẤT THƠ TRONG VĂN XUÔI

A. MỤC ĐÍCH

1.Kiến thức:

Giúp học sinh nắm được những nội dung cơ bản và nâng cao về vấn đề: chất thơ trong văn xuôi, cụ thể trong các truyện ngắn trong chương trình.

2. Kĩ năng:

Rèn kĩ năng từ lý thuyết vận dụng vào làm văn, ứng dụng linh hoạt trong đề học sinh giỏi.

3. Thái độ: Tự giác, nhiệt huyết trong làm văn và có hứng thú với vấn đề.

B. PHƯƠNG PHÁP, PHƯƠNG TIỆN:

-Phương pháp chung: Giảng lý thuyết, cung cấp lý thuyết theo luận điểm+ cho học sinh thảo luận, ứng dụng và thu sản phẩm là bài tập về nhà [viết văn].

-Phương pháp cụ thể: Theo từng bài học và vấn đề lý luận sẽ linh hoạt trong việc giảng hoặc thảo luận.

-Phương tiện:

+ Tài liệu lý luận văn học: Các chuyên luận, bài giảng, giáo trình, STK của các Thầy là Giáo sư, tiến sĩ; tài liệu của GV trên toàn quốc và của GV Limbook Vănhọc

+ Tài liệu về kiến thức văn học sử: Các chuyên luận, bài giảng, giáo trình, STK của các Thầy là Giáo sư, tiến sĩ; tài liệu của GV trên toàn quốc và của GV Limbook Vănhọc

+ Tài liệu về kiến thức tác phẩm: Các chuyên luận, bài giảng, giáo trình, STK của các Thầy là Giáo sư, tiến sĩ; tài liệu của GV trên toàn quốc và của GV Limbook Vănhọc

+ Tài liệu về kiến thức NLXH: Các chuyên luận, bài giảng, giáo trình, STK của các Thầy là Giáo sư, tiến sĩ; tài liệu của GV trên toàn quốc và của GV Limbook Vănhọc

+ Tài liệu liên quan hướng dẫn kĩ năng làm văn của HSG.

C. TIẾN TRÌNH BÀI HỌC

1.Ổn định:

Sĩ số hs đội tuyển:

2. Kiểm tra bài cũ:

- Thu sản phẩm của bài học trước [10 phút]:

- Kiểm tra lại 1 phần kiến thức trọng của bài học trước

3. Bài mới:

HOẠT ĐỘNG CỦA GV&HS

NỘI DUNG CHÍNH

Gv hs hs hiểu về đặc điểm chất thơ trong tác phẩm văn xuôi.

GV nêu các câu hỏi thảo luận:

-“Chất thơ” có đồng nghĩa vối “thơ” không?

-Khi nói đến “chất thơ” trong “văn xuôi” theo em cần chú ý tới những yếu tố nào?

I. CHẤT THƠ TRONG VĂN XUÔI

1. Khái niệm chất thơ trong tác phẩm văn xuôi:
- Chất thơ hay còn gọi là “thi vị” tức là có tính chất gợi cảm và gây hứng thú trong thơ.

“Chất thơ” có thể hiểu là một khía cạnh của cảm hứng thẩm mĩ nhân văn, phải gắn với cái đẹp. Cái đẹp có thể là do tự nhiên mang lại như cảnh mây trắng nhởn nhơ bay trên bầu trời xanh thẳm, tạo ra cảm giác dễ chịu cho người ngắm nhìn. Hoặc, “chất thơ” cũng có thể tạo ra từ những tình cảm, hành động của con người như: Sự nhớ nhung, sự uyển chuyển của các điệu múa...”[Đỗ Lai Thúy]

- Nói một tác phẩm văn xuôi có chất thơ tức là những ý văn, câu văn, đoạn văn tạo nên sự rung cảm trước cái đẹp của thiên nhiên, cuộc sống con người và nó có khả năng truyền những rung cảm ấy đến với người đọc.

- Ở văn xuôi chất thơ có ở trong nhiều cấp độ: từ ngữ; bức tranh thiên nhiên; hình tượng nhân vật vượt lên trên thực tại của đời sống, của hoàn cảnh để hướng đến vẻ đẹp của nhân cách, tâm hồn.

HS lấy ví dụ tác phẩm trong chương trình lớp 11 và 12.

GV cung cấp thêm thông tin: Thơ tuôn chảy không ngừng [chỉ tạm nghỉ ở chỗ ngắt ý, ngắt giọng, ngắt câu thông thường], không bị ràng buộc bởi quy luật số lượng hay vần điệu, nhịp điệu. Nhưng văn xuôi sẽ khai thác mạnh mẽ khả năngmô tả[tạo hình] của ngôn từ, cái khả năng nhờ vào ngữ nghĩa của các từ để − qua liên tưởng − khiến cho người đọc hình dung cụ thể như sờ thấy các sự vật, như tận mắt nom thấy các sự vật, cảnh huống, − một khả năng mà thơ khó có thể sánh kịp.

Thật ra, cũng chỉ gần đây, văn xuôi mới trở thành một nghệ thuật thật sự[1]. Người ta cho rằng ở châu Âu, văn xuôi nghệ thuật mới chỉ có từ thời Phục Hưng. Ở nước ta, văn xuôi [văn xuôi thành văn nói chung] trong tiếng Việt mới chỉ có từ đầu thế kỷ XX [như nhà nghiên cứu Vũ Ngọc Phan mới viết gần đây trên tuần báoVăn nghệsố 10/1982].

-Thông tin 2:

Từ văn xuôi Tản Đà vốn rất gần thể phú − một thể “trung gian” giữa ngôn ngữ thơ và ngôn ngữ văn xuôi − đến ngôn ngữ củaTố Tâm, cuốn tiểu thuyết hiện đại đầu tiên, ảnh hưởng của phong cách ngôn ngữ thơ vẫn còn khá đậm. Nhưng qua ngôn ngữ các tiểu thuyết Tự Lực Văn Đoàn đến ngôn ngữ văn xuôi của những Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Nam Cao, Nguyên Hồng, v.v…, rõ ràng văn xuôi nghệ thuật tiếng Việt đã đạt đến một độ chín mẩy, đầy đặn, với những vẻ đẹp riêng, không còn thấy những dấu vết ảnh hưởng mạnh của lối tổ chức ngôn ngữ thơ, tuy vẫn có những âm hưởng riêng, tiết tấu và thậm chí nhạc điệu riêng. Trong văn học tiếng Việt ngày nay, ở một chừng mực nhất định, chúng ta còn có thể thấy ảnh hưởng trở lại của ngôn ngữ văn xuôi đối với ngôn ngữ thơ. Chứng cứ là thể thơ tự do đang chiếm ưu thế trong sáng tác của các nhà thơ hiện ở lứa tuổi dưới 50, hoặc thể thơ văn xuôi đang được thể nghiệm trong sáng tác của một số nhà thơ, kể cả một vài nhà thơ lớn tuổi như Chế Lan Viên, Huy Cận

GV chốt ý: Thơ là cây đàn muôn điệu của tâm hồn, của nhịp thở trái tim”, là cái nhụy của cuộc sống được chưng cất thành thơ. “Chất thơ” có thể hiểu là chất trữ tình – tính chất được tạo nên từ sự hoà quyện giữa vẻ đẹp của cảm xúc, tâm trạng, tình cảm với vẻ đẹp của cách biểu hiện nó để có thể khơi gợi những rung động thẩm mĩ và tình cảm nhân văn. Còn “Chất thơ trong truyện ngắn” là cái được tạo nên khi nhà văn chú ý khai thác và biểu hiện một cách tinh tế cái mạch cảm xúc, tâm trạng, tình cảm của nhân vật hoặc của chính mình trước thế giới bằng những chi tiết, hình ảnh đầy gợi cảm và một lối văn trong sáng, truyền cảm, phù hợp với nhịp điệu riêng của cảm xúc, tâm hồn. Đó là những rung động, rung cảm của nhà văn trước vẻ đẹp của thiên nhiên, cuộc sống, con người và tình người. Voltcure đã từng nói: “Thơ là âm điệu của tâm hồn cao cả, đa cảm”. Chỉ nhờ âm nhạc của lòng mình người nghệ sĩ mới có thể truyền cảm xúc đến với người đọc, khơi lên trong tâm hồn độc giả lòng yêu thích con người, quý trọng sự sống. Chính chất thơ làm cho trang văn trở nên tinh tế vút cao, đi vào lòng người đọc một cách mãnh liệt hơn.

VD:

VD1: Chất thơ trong tác phẩm Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành:


- Hình tượng cây xà nu trong xúc cảm trữ tình mãnh liệt của nhà văn.

Nhà văn đã đem hết bút lực để tả một khu rừng xà nu:

“Rừng xà nu ưỡn tấm ngực lớn của mình ra che chở cho làng”

“Trong rừng ít có loại cây nào sinh sôi nảy nở. Cạnh một câu xà nu ngã gục đã có bốn, năm cây con mọc lên, ngọn xanh rờn, hình nhọn mũi tên lao thẳng lên bầu trời”

“Nó phóng lên rất nhanh để tiếp lấy ánh nắng, thứ ánh nắng trong rừng rọi từ trên cao xuống từng luồng lớn thẳng tắp, lóng lánh vô số hạt bụi vàng từ nhựa cây bay ra, thơm mỡ màng”

Đó là những câu văn đẹp, gợi cảm, tạo một cảnh tượng tuyệt vời, nên thơ, tráng lệ, có sức gây ấn tượng khó quên trong lòng người đọc. Những hình ảnh so sánh độc đáo, kì vĩ nhằm tái hiện một rừng xà nu với vóc dáng đầy sức lực, tràn trề mùi nhựa thơm, ngời xanh dưới ánh nắng...Đọc những đoạn văn tả rừng xà nu, người đọc dễ nhận ra một giọng văn đằm thắm chất trữ tình, khi trầm hùng, khi trang nghiêm, xúc động, khi tha thiết tuôn chảy theo dòng hồi tưởng. Lời văn của “Rừng xà nu” giàu hình ảnh, giàu nhạc điệu, nhiều đoạn văn trau chuốt, mượt óng như ngôn ngữ một bài thơ.

Không phải ngẫu nhiên mà có một câu văn được lặp lại gần y nguyên đến hai lần ở phần mở đầu và kết thúc: “Đứng trên đồi xà nu ấy trông ra xa đến hết tầm mắt cũng không thấy gì khác ngoài những đồi xà nu nối tiếp chạy đến chân trời”. Đó là điệp khúc trầm hùng làm nền cho toàn bộ câu chuyện, để nhà văn suy ngẫm về mạch sống của đất nước và sức sống của nhân dân.

Cảm hứng chủ yếu của những trang viết về cánh rừng xà nu là cảm hứng ngợi ca. Nguyễn Trung Thành ngợi ca phẩm chất phóng khoáng, hào hiệp, sức sống bất diệt, khao khát tự do của con người Tây Nguyên...

- Khát vọng tự do cháy bỏng của người dân Tây Nguyên:

Chất thơ là một đối cực của thực tại nhưng vút lên từ thực tại. Như vậy, chất thơ cần có một đối cực là thực tại khắc nghiệt. Ngay từ đầu tác phẩm, ta đã thấy làng Xô Man phải đối đầu với những thử thách ác liệt, dữ dội

“...không đêm nào chó của nó và súng của nó không sủa vang cả rừng...Nó treo cổ anh Xút lên cây vả đầu làng: Ai nuôi cộng sản thi coi đó!”

“Nó giết bà Nhan, chặt đầu cột tóc treo đầu súng”

Tác giả đã xây dựng một hệ thống các nhân vật đại diện cho các thế hệ nối tiếp nhau trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc: cụ Mết, Tnú, Mai, Dít, Bé Heng. Trong cuộc đối đầu lịch sử đó, người dân Xô Man đã chiến đấu bằng niềm tin, bằng lí tưởng, bằng khát vọng và bằng cả những chân lí đúc kết được từ trong đau thương.

VD: Một phong cách như Nguyễn Tuân, định hình trong thể tùy bút, có thể khiến một số độc giả nào đấy tưởng là phong cách trữ tình, thật ra, lại là một phng cách rất mực văn xuôi. Dĩ nhiên ở các sáng tác của Nguyễn Tuân vẫn có chỗ đứng cho trữ tình, nhưng đó không phải là thành phần chính. Xúc cảm ở văn xuôi Nguyễn Tuân không nống lên rưng rưng [như thường có ở văn xuôi trữ tình] mà thường pha ngang sang chiều tưng tửng, hóm hỉnh, thích nghịch lý, thích cười. Ưa sự kỳ khu, tỉ mỉ, ưa phô diễn đến tận ngành tận ngọn những chi tiết tư liệu chính xác xung quanh một sự việc − đấy là một nét đẹp khác ở văn xuôi Nguyễn Tuân mà ta hoàn toàn có thể gọi là cái đẹp của sự “biết”, của tri thức, của trí tuệ, của sự nhận thức: đó là cặp mắt nhìn đầy ngạc nhiên vào những điều có thật đến thế mà cũng lạ lùng đến thế ở mọi sự trên đời. Thế giới các đồ vật, các sự vật cực kỳ phong phú, đa dạng, được nhìn từ một cặp mắt văn hóa tinh tường, lọc lõi − ấy là cả một thế giới độc đáo của văn xuôi Nguyễn Tuân. Có thể nhận ra chỗ gần gũi bề sâu giữa văn xuôi Nguyễn Tuân với văn xuôi của khá đông các nhà văn xuôi mà ta có thể tạm gọi là các nhà văn xuôi “phong tục”: Ngô Tất Tố và Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng và Nam Cao, Nguyên Hồng và Tô Hoài, Kim Lân và Bùi Hiển, v.v… Đây có lẽ là lớp nhà văn đã đưa ngôn ngữ văn xuôi tiếng Việt đến độ chín mẩy, đầy đặn. Chính là với kinh nghiệm của văn xuôi này, ngôn ngữ tiếng Việt đã bộc lộ thêm một khả năng nghệ thuật mới mà nói chung văn xuôi Tự Lực Văn Đoàn chưa khai thác được. Ấy là ở chỗ ngôn ngữ không chỉ là phương tiện miêu tả của văn xuôi [giống như âm thanh là phương tiện chất liệu của hội họa, v.v…] mà văn xuôi nghệ thuật còn có khả năng miêu tả ngôn ngữ.

GV giúp hs nhận diện chất thơ trong văn xuôi qua các biểu hiện cụ thể.

GV giảng lý thuyết.

HS thực hành.

2.Biểu hiện chất thơ trong văn xuôi

*Về phương diện nội dung:

-Xác định thế giới nhân vật nào là chủ đạo?

-Nhân vật trung tâm được biểu hiện chủ yếu trong cảnh nào/ hay toàn bộ tác phẩm là những cung bậc tâm trạng [không phải là nhwunxg hành động].

-Cả cảnh và tình trong mỗi trang văn đều toát lên một vẻ đẹp rất riêng, giàu tính biểu cảm, gợi nhiều cảm xúc ở người tiếp nhận.

+Thiên nhiên

+ Cuộc sống con người.

*Về phương diện nghệ thuật:

-Tìm hiểu câu văn, cách dùng và tạo ra kiểu câu văn nghue thế nào [Ví dụ: câu văn “Chiều, chiều rồi, một chiều êm ả như ru,…”. Câu văn có tín hiệu “chiều” rất đặc biệt, nếu chỉ là tín hiệu nghĩa của văn xuôi người ta sẽ chỉ cần một chữ “chiều”, vậy 3 chữ “chiều” xếp đặt cạnh nhau, nó tạo ra chất thơ, nhịp thơ]

-Nghệ thuật chủ đạo của địa hạt thơ đã được sử dụng chủ yếu trong văn xuôi như thế nào? Ở cảnh nào? [Ví dụ: lấy động tả tĩnh, lấy sáng tả tối,… được sử dụng chủ yếu trong truyện Hai đứa trẻ như thế nào?].

-Từ ngữ, giọng điệu, nhịp điệu giàu chất thơ như thế nào?

Gv hd học sinh làm bài tập luyện tập.

Gv hướng dẫn phần giải thích.

Yêu cầu hs bình luận và chọn 1tác phẩm chứng minh

GV hướng dẫn chọn tác phẩm “Chí Phèo” để chứng minh.

II. LUYỆN TẬP

Đề 1.

Có ý kiến cho rằng: “Nghệ thuật truyện ngắn là sự kết hợp giữa các phương thức biểu đạt của ngôn ngữ thơ ca và ngôn ngữ điện ảnh”. Anh [Chị] hiểu ý kiến trên như thế nào? Hãy làm sáng tỏ qua truyện ngắn trong chương trình lớp 11 hoặc 12.

Hướng dẫn:

Lđ 1: Giải thích

-Truyện ngắn phải mang dấu ấn của thi pháp thơ ca, đó là cấu trúc chặt chẽ, có tiết tấu, nhịp độ nhanh, chậm, độ căng lớn.

- Đặc điểm của ngôn ngữ điện ảnh:cần chú ý tới nghệ thuật dàn cảnh và nghệ thuật kịch bản của điện ảnh để làm sống động sự việc và nhân vật. Nói cách khác trong truyện phải có yếu tố kịch tính được tạo nên bởi sự triển khai mâu thuẫn, xung đột trong cốt truyện; truyện phải xây dựng được nhân vật chính rõ nét. Để tái hiện mâu thuẫn, xung đột và xây dựng nhân vật, nhà văn phải chọn lọc được những chi tiết đắt giá, có khả năng dựng cảnh để chuẩn bị môi trường trực tiếp cho nhân vật hoạt động và có thể gián tiếp miêu tả tâm lí nhân vật…

=>Ý kiến đề cập về đặc điểm của nghệ thuật viết truyện ngắn, một thể loại văn học rất năng động. Ở đó có thể nhận thấy sự tác động qua lại, chuyển hóa lẫn nhau giữa các thể loại văn học làm cho thể loại truyện ngắn trở nên phong phú vừa có chất của thơ ca, vừa có chất của kịch [điện ảnh] nhưng nó không phải là thơ hay kịch [điện ảnh]

Lđ 2. Chứng minh:

*Kết cấu ngắn gọn của “Chí Phèo”

Dù nội dung truyền tải lớn- bức tranh nông thôn Việt Nam trước cách mạng tháng Tám - nhưng tất cả những “giông tố” trong làng Vũ Đại lại chỉ được thể hiện trong một truyện ngắn. Vì vậy, có những sự việc nhà văn chỉ kể lướt, có những nhân vật nhà văn chỉ miêu tả mờ nhạt: Binh Chức, Năm Thọ, bà Ba…

* Nhịp điệu trần thuật “trầm bổng

Trong truyện “Chí Phèo”, nhịp độ chủ yếu là sự chậm rãi, thong thả vì tác phẩm được kết cấu theo lối hồi cố [hồi tưởng lại cuộc đời Chí Phèo]; nhà văn sử dụng bút pháp miêu tả tâm lí nhân vật [đoạn miêu tả tâm lí Chí Phèo tỉnh rượu ] nhưng cũng có sự kiện, nhà văn Nam Cao rút gọn lại khiến cho nhịp kể trôi qua rất nhanh [ thời gian Chí Phèo sồng 5 ngày bên Thị Nở]

*Yếu tố kịch tính

Yếu tố kịch tính được tạo nên bởi truyện đã phản ánh mâu thuẫn giai cấp rất căng thẳng đến mức không thể điều hòa được: mâu thuẫn giữa Chí Phèo và Bá Kiến. Cùng với đó là mẫu thuẫn giữa con người và hoàn cảnh sống [Chí Phèo và dư luận, định kiến về Chí Phèo của người dân làng Vũ Đại]. Hai mâu thuẫn này khiến Chí Phèo giết Bá Kiến rồi tự sát.

Hd hs đánh giá:

Về ý kiến, bài học với người cầm bút và người tiếp nhận.

Lđ 3. Đánh giá:

-Ý kiến đúng đắn, khẳng định tính chất đặc trưng của thể loại truyện ngắn, nghệ thuật viết truyện ngắn.

-Bài học với người cầm bút: cần chú trọng lối viết “tảng băng trôi”, hàm ẩn để truyện đảm bảo được tính chất “ngắn”; chú ý những dấu hiệu quan trọng làm nên sức hấp dẫn của truyện là cốt truyện và những chi tiết đặc sắc, đắt giá.

Hd hs lập dàn ý cho đề 2.

GV hướng dẫn hs phát hiện ra vấn đề nghị luận.

Vđ NL: Giải thích được ý nghĩa của nhận định: khẳng định đặc trưng, khả năng của thể loại truyện ngắn: tuy dung lượng nhỏ, thường chỉ viết về một khoảnh khắc [một tình huống, một sự kiện, một lát cắt đời sống], với những yếu tố nhỏ bé, ít ỏi [nhân vật, chi tiết…], nhưng có sức chứa và sức gợi lớn, vừa có khả năng khái quát hiện thực cuộc sống rộng lớn, vừa có khả năng gợi mở, mang chứa chiều sâu không cùng của cõi lòng, tư tưởng con người vfa đặc biệt rất giàu chất thơ.

Đề 2.

Bàn về thể loại truyện ngắn, nhà phê bình Hoàng Phong Tuấn viết:

“Truyện ngắn chỉ là một khoảnh khắc, nhưng là cái khoảnh khắc gợi mở đến vô cùng, là một giọt sương phản chiếu cả bầu trời, là giọt nước mắt mang chứa cả cõi lòng con người.” [“Vợ nhặt” - Chất thơ vút lên từ cái đói và cái chết - Tư liệu Ngữ văn 12 - Tr.184 - NXB Giáo dục, 2008]

Anh [chị] hiểu và suy nghĩ như thế nào về quan niệm trên? Hãy làm sáng tỏ qua việc phân tích truyện ngắn “Vợ nhặt” [Kim Lân].

4. Củng cố: GV nhấn mạnh nội dung trọng tâm: Cách xác định chất thơ trong một tác phẩm văn xuôi.

5. Hướng dẫn về nhà: Viết bài đề số 2 hoàn chỉnh.

GV giới thiệu 1 bài văn tham khảo:

Chất thơ trong Hai đứa trẻ


Thạch Lam [1910 – 1942] tên khai sinh là Nguyễn Tường Vinh, sau đổi thành Nguyễn Tường Lân. Ông cùng với Nhất Linh và Hoàng Đạo là những cây bút chủ lực của nhóm Tự lực văn đoàn. Thạch Lam có biệt tài về truyện ngắn, thường viết những truyện không có chuyện, chủ yếu khai thác thế giới nội tâm của nhân vật. Văn Thạch Lam trong sáng, giản dị mà thâm trầm, sâu sắc. Mỗi truyện của ông như một bài thơ trữ tình đượm buồn, giọng điệu điềm đạm, thâm trầm. Truyện ngắn “Hai đứa trẻ” là một trong những tác phẩm tiêu biểu cho phong cách sáng tác của Thạch Lam. Đặc biệt, tác phẩm đã thể hiện đạm nét chất thơ trong truyện ngắn.


Thơ là cây đàn muôn điệu của tâm hồn, của nhịp thở trái tim”, là cái nhụy của cuộc sống được chưng cất thành thơ. “Chất thơ” có thể hiểu là chất trữ tình – tính chất được tạo nên từ sự hoà quyện giữa vẻ đẹp của cảm xúc, tâm trạng, tình cảm với vẻ đẹp của cách biểu hiện nó để có thể khơi gợi những rung động thẩm mĩ và tình cảm nhân văn. Còn “Chất thơ trong truyện ngắn” là cái được tạo nên khi nhà văn chú ý khai thác và biểu hiện một cách tinh tế cái mạch cảm xúc, tâm trạng, tình cảm của nhân vật hoặc của chính mình trước thế giới bằng những chi tiết, hình ảnh đầy gợi cảm và một lối văn trong sáng, truyền cảm, phù hợp với nhịp điệu riêng của cảm xúc, tâm hồn. Đó là những rung động, rung cảm của nhà văn trước vẻ đẹp của thiên nhiên, cuộc sống, con người và tình người. Voltcure đã từng nói: “Thơ là âm điệu của tâm hồn cao cả, đa cảm”. Chỉ nhờ âm nhạc của lòng mình người nghệ sĩ mới có thể truyền cảm xúc đến với người đọc, khơi lên trong tâm hồn độc giả lòng yêu thích con người, quý trọng sự sống. Chính chất thơ làm cho trang văn trở nên tinh tế vút cao, đi vào lòng người đọc một cách mãnh liệt hơn.

Vốn là một nhà văn có tâm hồn tinh tế và nhạy cảm, Thạch Lam đã cho ra đời nhiều tác phẩm thấm đẫm chất thơ như “Gió lạnh đầu mùa”, “Dưới bóng hoàng lan” và đặc biệt là truyện ngắn “Hai đứa trẻ”. “Hai đứa trẻ” là một trong những truyện ngắn tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của Thạch Lam, tác phẩm được in trong tập “Nắng trong vườn” xuất bản năm 1938. Cốt truyện “Hai đứa trẻ” khá đơn giản, đó là cảnh một phố huyện nghèo được miêu tả trong một khoảng thời gian ngắn từ chiều muộn cho đến đêm. Nơi ấy, có những người dân nghèo, ngày nào cũng tái diễn những công việc đơn điệu, buồn tẻ và đặc biệt trong thế giới ấy có hai đứa trẻ được mẹ giao cho trông coi một cửa hàng nhỏ, đêm chúng cố thức để đợi chuyến tàu đi qua. Đọc tác phẩm ta không thể quên được những dư âm trong trẻo và tươi sáng bởi ngôn ngữ miêu tả giàu hình ảnh, ngòi bút tài hoa giàu cảm xúc, giọng văn ngân nga như có nhạc điệu, vẻ đẹp bình dị của cuộc sống đời thường, những tình cảm ngây thơ cùng sự bay bổng của những niềm mong ước xa xôi….

Chất thơ trong truyện ngắn “Hai đứa trẻ” trước tiên được tỏa ra từ khung cảnh thiên nhiên của buổi chiều tà. Đó là bức tranh quê bình lặng, êm đềm “Chiều chiều rồi, một buổi chiều êm như nhung và thoảng qua giáo mát”. Buổi chiều ấy được gợi lên từ âm thanh của tiếng trống thu không báo hiệu một ngày sắp tàn, từ tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng ruộng theo gió nhẹ đưa vào, cùng tiếng muỗi đã bắt đầu vo ve. Nổi bật trong bức tranh buổi chiều ấy là màu đỏ rực như lửa cháy của phương tây, điểm thêm là màu hồng như hòn than sắp tàn của những áng mây chiều. Bức tranh ấy còn có những đường nét thật rõ rệt “Dãy tre làng trước mặt đã bắt đầu đen lại và cắt hình rõ rệt trên nền trời”. Chỉ vài chi tiết miêu tả nhưng Thạch Lam đã làm bức tranh quê hiện lên thật gần gũi, bình dị. Bức tranh ấy được cảm nhận qua tâm hồn ngây thơ của Liên và An “Trời đã bắt đầu đêm, một đêm mùa hạ êm như nhung và thoảng qua gió mát. Đường phố và các ngơ con dần dần chứa đầy bóng tối. Các nhà đã đóng im ỉm, trừ một vài cửa hàng còn thức, nhưng cửa chỉ để hé ra một khe ánh sáng. Trẻ con tụ họp nhau ở thềm hè, tiếng cười nói vui vẻ, khiến An thèm muốn nhập bọn với chúng để nô đùa, nhưng sợ trái lời mẹ dặn phải coi hàng, nên hai chị em đành ngồi yên trên chỏng, đưa mắt theo dơi những bóng người về muộn, từ từ đi trong đêm” . Cát trên phố lấp lánh trên những chỗ mấp mô. Thấp thoáng trong bức tranh ấy là hình ảnh của mấy đứa trẻ con nhà nghèo đang lom khom, tìm tòi những thứ con xót lại sau buổi chợ, chúng nhặt nhạnh những thanh nứa, thanh tre hay bất cứ thứ gì còn có thể dùng được của những người bán hàng để lại. Chứng kiến những cảnh đời ấy Liên thấy thương chúng nhưng chị cũng không có tiền để cho. Và đọng lại trong tâm hồn Liên là một nỗi “buồn man mác” trước khoảnh khắc của ngày tàn. Có lẽ nhà văn Thạch Lam đã vẽ nên bức tranh nơi phố huyện nghèo nơi đây bằng chính kí ức tuổi thơ của mình, khi ông cùng gia đình có một thời gian chuyển về sống ở phố huyện Cẩm Giàng[Hải Dương] nên cảnh vật và con người nơi đây hiện lên rất chân thực, gần gũi và màu sắc trữ tình – chất thơ có phần đậm nét hơn.

Sự hòa quyện giữa yếu tố hiện thực và lãng mạn là một đặc điểm nổi bật trong phong cách sáng tác của Thạch Lam, chính sự kết hợp ấy đã giúp Thạch Lam tạo nên những trang văn vừa mang hơi thở của đời sống, vừa nhẹ nhàng, thanh thoát giàu chất thơ cho tác phẩm “Hai đứa trẻ”.. Có lẽ chất thơ đã thực sự lan tỏa khi nhà văn viết về cuộc đời của những con người nơi phố huyện nghèo. Chính những rung cảm tinh tế mà nhẹ nhàng, Thạch Lam đã làm cho chất thơ len lỏi sâu vào tâm hồn người đọc, khiến họ không thể rời mắt khỏi cuộc sống của những con người nơi đây – một cuộc sống mờ nhạt, buồn tẻ. Và dường như đằng sau những câu văn ấy là tiếng thở dài đầy xót thương cho những kiếp người lầm lũi nơi phố huyện của Thạch Lam.

Để làm nổi bật lên cuộc sống lầm lũi, khắc khổ của những con người nơi phố huyện, Thạch Lam đã nhấn mạnh đến thời gian nghệ thuật. Thời gian được đề cập đến ở đay là lúc phố huyện về đêm. Khi phố huyện về đêm, bóng tối phủ mờ lên cảnh vật, đè nặng lên cuộc đời của những người dân nơi đây. Bóng tối là một hình tượng nghệ thuật đày ám ảnh, nó trở đi trở lại nhiều lần trong tác phẩm. Bóng tối đã phủ đày khắp nơi. Tối hết cả, từ con đường ra sông, con đường qua chợ về nhà đều chứa đầy bóng tối. Bóng tối tràn lan, đậm đặc khiến cho tiếng trống cầm canh đánh tung lên một tiếng khô khan rồi chìm ngay vào bóng tối. Bóng tối chính là hình tượng ẩn dụ cho cho cuộc sống của những con người nơi phố huyện nghèo – một cuộc sống tẻ nhạt, buồn chán, đến một lúc nào đó nó sẽ “mòn ra”, “mục ra”, “rửa đi” và tan vào trời đất. Cũng có đôi lúc nhà văn đã cho thắp lên vài ánh sáng nhưng đó chỉ là thứ ánh sáng leo lét của ngọn đèn dầu, là ánh sáng của những con đóm đóm bay là là trên mặt đất, là ánh sáng của chấm lửa bay lơ lửng nơi gánh phở của bác Siêu, là những khe sáng, hột sáng lọt qua phên nứa… Đặc biệt, hình ảnh ngọn đèn con nơi hàng nước của chị Tí nhắc đi nhắc lại tới bảy lần trong tác phẩm, nó trở thành nỗi ám ảnh về số phận, kiếp người nơi phố huyện này, đồng thời gợi lên sự nhỏ bé đáng thương đến tội nghiệp của ánh sáng.

Đêm là lúc con người, vạn vật được nghỉ ngơi. Đáng lẽ đây là khoảng thời gian để con người được thư giãn sau một ngày dài làm việc vất vả. Thế nhưng đố với những con người nơi đây, họ vẫn phải đốt đêm làm ngày để tiếp tục kiếm sống. Họ phải làm việc để kiếm từng đồng lẻ, dẫu biết rằng “chẳng kiếm được là bao” nhưng họ vẫn phả để làm duy trì sự sống. Đó là hình ảnh của mẹ con chị Tí lam lũ, vất vả. Ban ngày chị đi mò cua bắt ốc, tối đến dọn hàng nước ra để bán. Gọi là hàng nước cho oai chứ hàng của chị chỉ có lèo tèo vài phong thuốc lào và ấm nước chè xanh. Sức ám ảnh trong “Hai đứa trẻ” còn được gợi lên qua tiếng cười khanh khách của bà cụ Thi điên. Tiếng cười khanh khách trong vô thức của bà đã xoáy sâu vào tâm thức của người đọc về một cuộc đời xế bóng nơi phố huyện. Rồi cuộc sống ấy sẽ đi về đâu? Thê lương nhất trong miền đời bị lãng quên ấy là gia đình bác xẩm. Gia đình bác sống nhờ vào của bố thí của thiên hạ. Hôm nay chiếc thau trắng để trước mặt vẫn còn trống rỗng. Bác góp vui bắng mấy tiếng đàn bầu rưng lên bần bật nghe thật não nề. Gia đình bác ngồi trên manh chiếc rách, thằng con bò ra ra khỏi chiếu để nghịch cát bẩn bên đường. Đâu đó còn là hình ảnh của bác Siêu với gánh phở kẽo kẹt trên vai. Món hàng mà bác bán là một món quà xa xỉ, không bao giờ mua được không chỉ đối với chị em Liên mà còn đối với những con người nơi đây. Bóng bác trải dài mênh mông cả một vùng thật thê lương và ẩm đạm. Chị em Liên mặc dù có cuộc sống khá giả hơn nhưng cũng khổ hơn bởi cả hai đều bị quá khứ ám ảnh. Trước đây gia đình Liên sống ở Hà Nội, nhưng vì bố mất việc mà phải chuyển về nơi đây. Dù đang tuổi ăn, tuổi chơi nhưng hai chị em phải giúp mẹ trong coi cửa hàng tạp hóa nhỏ. Lúc nào chị em Liên cũng mơ tưởng về một Hà Nội sáng rực, xa xăm với cuộc sống đầy đẻ và sung túc. Quá khứ ấy như một minh chứng cho cái buồn thê lương, bế tắc ở hiện tại và nó như một dự cảm về tương lai mờ mịt. Có ai đó đã từng nói rằng “Nhà văn là người thư kí trung thành của thời đại”, phải chăng chính vì lẽ đó mà trong truyện ngắn “Hai đứa trẻ” Thạch Lam đã miêu tả rất chân thực về cuộc sống nhàm chán, mờ nhạt của những con người nơi đây. Dù mỗi con người một hoàn cảnh nhưng ai cúng nhếch nhác, lam lũ đến tội nghiệp, người lớn như cây héo hắt, còn trẻ con thì như những màm non còi cọc không có tương lai.

Nếu nhà văn Nam Cao thường đi vào phân tích những quá trình tâm lí phức tạp thì Thạch Lam lại chủ yếu đi sâu vào những trạng thái của tâm hồn mà những rung động trong tâm hồn mới là đối tượng của chất thơ. Ở truyện ngắn “Hai đứa trẻ”, Thạch Lam đã vẽ nên hình những cảm xúc mong manh, mơ hồ thật tinh tế như “ những rung động của một cánh bướm non”. Và trong những rung động nhẹ nhàng, tinh tế ấy đã được Thạch Lam thể hiện qua diễn biến tâm trạng của nhân vật Liên. Khi chứng kiến cảnh chiều về nơi phố huyện Liên thấy tâm hồn nhẹ nhàng lay động theo cảnh chiều quê. Ngồi bên “mấy quả thuốc sơn đen” Liên cảm nhận được hình ảnh bóng tối ngập đày dần, “đôi mắt chị chứa đầy bóng tối”. Mùi âm ẩm của rác rưởi, mùi cát bụi và hơi nóng lan tỏa cũng khiến cho Liên cảm nhận đó là “mùi riêng của đất”, của quê hương, xứ sở này. Đọc truyện ngắn “Hai đứa trẻ” ta như thấy rõ được tình cảm của Thạch Lam dành cho nhân vật của mình. Đó dường như là sự cộng hưởng giữa cảm xúc và hiện thực để tạo thành một sức hút da diết, bền lâu của tác phẩm.

Chất thơ trong tác phẩm “Hai đứa trẻ” còn được thể hiện rõ hơn bao giờ hết qua những hi vọng, khát khao của những con người nơi phố huyện nghèo. Trong hoàn cảnh tối tăm của cuộc đời họ vẫn hi vọng và trông đợi vào một cái gì đó tươi sáng hơn ở tương lai. Dù có mệt mỏi, buồn ngủ thì họ vẫn cố thức để chờ đợi chuyến tàu đêm đi qua phố huyện. Chuyến tàu ấy ngỡ như rất bình thường nhưng nó lại có ý nghĩa vô cùng to lớn đối với những con người nơi đây. Tàu chưa đến họ mong ngóng đợi chờ, khi tàu đến họ rát đõi mừng vui dù theo lời An thì “Tàu hôm nay không đông” và “kém sáng hơn” nhưng thứ ánh sáng mà đoàn tàu mang lại khác hẳn với thứ ánh sáng leo lét ở nơi đây. Chính thứ ánh sáng ấy đã khiến họ được sống trong niềm vui, hạnh phúc trong chốc lát. Đoàn tàu đã tiếp thêm cho họ sức mạnh để vượt qua cảnh tối tăm của hiện tại, hi vọng vào một tương lai tươi sáng hơn. Đối với chị em Liên, đợi tàu không phải vì nhu cầu về vật chất mà đơn giản, đoàn tàu ấy đã làm sống dậy quá khứ xa xăm, tươi đẹp một thời, phá tan không khí tù túng, ngột ngạt nơi đây. Thể hiện thành công tâm trạng đợi tàu ấy, nhà văn Thạch Lam đã gợi lên niềm xót thương cho những kiếp người nhỏ bé đang sống trong nghèo nàn, tăm tối và tù túng để từ đó lay tỉnh tâm hồn của họ để họ vươn tới ánh sáng của tương lai.

“Nghệ thuật làm nên linh hồn của tác phẩm”. Sẽ rất thiếu sót nếu ta không đề cập tới chất thơ được thể hiện qua nghệ thuật. Qua truyện ngắn, Thạch Lam đã xây dựng được một thế giới hình ảnh vừa chân thực vừa sống động với những không gian và thời gian có sự vận động, biến chuyển. Thạch Lam còn xây dựng được những chi tiết nhỏ nhưng lại thể hiện được một cách tinh tế và sâu sắc thế giới của những cảm xúc mơ hồ, mong manh của con người. Chính nhà văn Thạch Lam đã từng quan niệm: “Nhà văn cốt nhất là phải đi sâu vào tâm hồn mình, tìm thấy những tính tình và cảm giác thành thực, tức là tìm thấy tâm hồn mọi người qua tâm hồn chính mình” và ở truyện ngắn “Hai đứa trẻ” Thạch lam đã làm được điều đó. “Hai đứa trẻ” là truyện dường như không có cốt truyện, mạch truyện không vận động theo mạch những tình tiết mà vận động theo tâm hồn, cảm xúc của nhân vật. Câu văn của Thạch Lam nhiều thanh bằng gợi một nhịp điệu chậm buồn nhưng có sức lan toả. Chẳng hạn khi miêu tả vẻ trầm buồn nhưng cũng rất đỗi nên thơ của phố huyện. Câu văn ngắn, nhịp văn chậm rãi, thong thả. Dù diễn tả cái náo nức bên trong, cái sôi động của ước mơ thì Thạch Lam vẫn rất nhẹ nhàng, vẫn tự nén ngòi bút của mình. Tất cả những đặc sác nghệ thuật trên những đặc sắc nghệ thuật trên được Thạch Lam sử dụng một cahs thành thạo qua giọng văn thủ thỉ, nhẹ nhàng, êm đềm nhỏ nhẹ nhưng có thể phân biệt được từng âm vị.

Trong truyện ngắn “Hai đứa trẻ”, chất thơ được chưng cất từ đời sống bình dị, thường nhật bằng chính rung động của tâm hồn nhà văn, chất thơ toả ra từ tình yêu cái đẹp, từ cái nhìn tinh tế trước thiên nhiên, đời sống và niềm tin ở thiện căn của con người từ hình thức nghệ thuật tới nội dung được biểu hiện. Qua tác phẩm Thạch Lam đã phát hiện ra được “Cái đẹp ẩn chứa ở chỗ không ai ngờ tới”, đó là vẻ đẹp kín đáo bị khuất lấp bởi đời sống nhọc nhằn mà chỉ có những tâm hồn tinh tế, nhạy cảm mới có thể cảm nhận hết được.

Vũ Huy Lân - THPT Chuyên Lao Cai

Video liên quan

Chủ Đề