Các di tích lịch sử ở thanh hóa năm 2024

Đây là một công trình thuộc loại hình di tích lịch sử văn hóa và kiến trúc nghệ thuật. Di tích cấu trúc gồm 5 gian với kiến trúc đẹp. Nhiều di vật như ngai thờ, bài vị cổ, đạo sắc. Đặc biệt một số di vật hiếm còn giữ được giữ gìn trong di tích. Di tích được công nhân là di tích cấp quốc gia năm 1999.

2. Nhà thờ Cụ Cao Bá Điển – xã Hoằng Giang.

Được xây dựng tại làng Trinh Sơn, xã Hoằng Giang, đây là một làng Việt cổ dọc đôi bờ sông Mã.

Tướng quân Cao Điển sinh ngày 11 tháng 11 năm 1848 tại làng Trinh Sơn (nay thuộc xã Hoằng Giang- Huyện Hoằng Hoá).

Năm 1877 Ông đi lính cho triều đình, với tư chất thông minh, sức khoẻ phi thường ông đã dự thi và đậu cử nhân võ năm 1879. Ông được Tổng đốc Thanh Hoá tiến cử với Đề đốc Trần Xuân Soạn giữ chức Suất đội vệ Vũ Lâm của triều đình Huế.

Ngày 5/10/1892 Tống Duy Tân người đứng đầu cuộc khởi nghĩa bị bắt tại một hang núi vùng Nhân Kỷ. Quân khởi nghĩa bị tổn thất rất nhiều, Cao Điển bị thực dân Pháp lùng sục gắt gao. Ông đã rời Thanh Hoá để ra Bắc liên lạc với nghĩa quân Hoàng Hoa Thám, chẳng may ông bị thực dân Pháp bắt ở một địa điểm gần Yên Thế vào ngày 10/01/1896. Quân giặc đã dùng mọi biện pháp dụ dỗ rồi tra tấn nhưng Ông không chịu khuất phục. Ngày 28/12/1896 Ông bị xử trảm tại Cầu Hạc (nay thuộc Thành phố Thanh Hoá) cùng với nhiều thủ lĩnh nghĩa quân khác. Nhân dân địa phương và gia đình đã đem xác Ông về an táng tại cánh đồng Cồn Thần Ngựa - làng Trinh Sơn

Trải qua 6 năm chiến đấu nghĩa quân Hùng Lĩnh Cao là nhân vật lịch sử của phong trào Cần Vương, Ông là Cao Bá Điển hay còn có tên gọi khác là Cao Văn Điển, Cao Điển, Cao Vinh. Ông Là một võ tướng có công lớn trong phong trào Cần Vương chống Pháp.

Di tích được trùng tu, tôn tạo xây dựng lại trên nền miếu xưa với diện tích 165 m2 với các hạng mục công trình là: nghinh môn- bình phong- sân- nhà thờ- nhà sắp lễ.

Thần Thành hoàng đình Phú Khê có hai vị. Vị thần thứ nhất là Hiển Hựu Cao Minh tức Minh, vị thứ hai là Hồng Vĩ Tiêu Giang tức Tuấn. Nơi đây thời 02 vị thành hoàng Chu Minh – Chu Tuấn. Truyền thuyết kể rằng: Có 2 vợ chồng nhà nọ ở Kinh Bắc đưa con trai Chu Minh và Chu Tuấn vào tạ lễ tại Chùa Bảo Phúc - làng Phú Khê không may gặp trận lụt lớn cả 04 người đều chết. Hai xác cậu con trai trôi dạt vào làng Phú Khê, qua đêm mối đùn thành mộ. Thuở ấy giặc Ai Lao gây biến. Thái úy Lý Thường Hiến đem quân đi đánh giặc qua làng Phú Khê hạ trai lưu trú, đêm mơ rằng thấy hai chàng trai thiếu niên lại chấp tay cung kính xin Thái Úy được đi đánh giặc Ai Lao. Trận dẹp loạn giặc Ai Lao toàn thắng. Về triều, Lý Thường Hiến tâu lên vua sắc phong thần Thượng đẳng tối linh cho Chu Minh – Chu Tuấn. Bố cáo cho hương dân làng Phú Khê lập đền thờ cúng.

Đình được xây dựng vào niên hiệu Càn phu hữu đao ( 1039-1049 ) thời Lý Thánh Tông ( 1028-1057), được dân Phú Trừng Trang xây dựng để thờ hai người con trai bị cơn hồng thủy trôi dạt vào làng đó là năm Mậu Dần (1038). Một năm sau đó vua Lý Thánh Tông đánh giặc qua làng được hai cậu hiển linh giúp vua đánh giặc, nhờ đó mà năm đó vua đánh thắng giặc. Vua nhớ ơn nên cho tu sửa khang trang hơn đề phụng thờ ( năm 1039 ).

5.Từ đường dòng họ Lê Duy - xã Hoằng Phú.

Nơi thờ Lê Duy Mật (theo sách danh lam thắng cảnh và lễ hội Việt Nam tập II, trang 242).

Lê Duy Mật là Hoàng tử út của Vua Lê Dụ Tông ( tức Lê Duy Đường ) năm 1740 Lê Duy Mật và một số quan đại thần âm mưu lật đổ chính quyền họ Trịnh, mưu cơ bị lộ ông cùng các quan đại thần vào Thanh Hóa lấy thành lũy Phố Cát làm căn cứ khởi nghĩa đặt tên là cuộc khởi nghĩa nông dân, ông tự xưng là Vua áo đỏ trong cuộc khởi nghĩa chống cường quyền họ Trịnh. Khi ông mất các đời sau truy phong ông là : Nam thiên đế tử tức là ông vua con dưới trời nam.

- Từ đường họ Lê Duy được xếp hạng cấp quốc gia năm 1996.

  1. Đền thờ Lê Phụng Hiểu – xã Hoằng Sơn.

Được công nhận di tích quốc gia năm 2002, thuộc làng Bưng, nay là làng Xuân Sơn, xã Hoằng Sơn. Ông là một Đại tướng nhà Lý. Ông làm quan, phụng sự hai đời Hoàng Đế đầu triều nhà Lý là vua Lý Thái Tổ (1010 - 1028) và vua Lý Thái Tông (1028 - 1054). Ông là người có công rất lớn trong việc phò vua Lý Thái Tông tức Lý Phật Mã lên ngôi.

Lê Phụng Hiểu quê ở hương Băng Sơn, tổng Dương Sơn, huyện Cổ Đằng, lộ Thanh Hoá (nay thuộc xã Hoằng Sơn, huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa). Hiện không rõ năm sinh năm mất. Theo sử sách ghi lại được, ông thọ tới tuổi 77. Ngay từ thuở nhỏ, ông rất yêu thích và ham mê các môn võ thuật như: đấu quyền, múa kiếm, ném đao. Ông lớn lên nổi tiếng là người sức khỏe muôn địch, võ nghệ hơn người, là đô vật có tiếng với nghệ danh đô Bưng (Băng).

Đại Việt sử ký toàn thư có ghi lại câu chuyện kỳ thú về sức mạnh của ông. Bấy giờ, hai làng Cổ Bi và Đàm Xá nổ ra việc giành đất. Làng Đàm Xá cậy đông người đã chiếm hẳn doi đất màu mỡ mà lẽ ra phải thuộc về làng Cổ Bi. Lê Phụng Hiểu lúc đó chưa làm quan, đứng ra giúp làng Cổ Bi. Ông nói: “Một mình tôi có thể đánh được bọn họ”. Dân làng Cổ Bi rất mừng, liền bày ra nhiều mâm cỗ to để thiết đãi. Ông đủng đỉnh ăn hết rồi ngủ một giấc no say.

Chờ đến khi dân làng Đàm Xá đến tranh đất, Phụng Hiểu tỉnh dậy rồi cứ đứng thế xông ra giữa đám trai tráng làng Đàm Xá mà đánh. Ông xắn tay áo, nhổ những cây bên đường làm vũ khí. Sức khỏe của ông khiến cả làng Đàm Xá khiếp sợ, đành phải trả lại ruộng cho làng Cổ Bi. Từ đó, Đàm Xá không dám ỷ thế cậy đông mà chèn ép làng Cổ Bi nữa.

Bấy giờ, vua Lý Thái Tổ xuống chiếu, tuyển chọn những người có sức khỏe để sung vào đội quân túc vệ. Lê Phụng Hiểu trúng tuyển. Nhờ làm việc siêng năng, ông được khen ngợi và cất nhắc dần tới chức Vũ Vệ Tướng Quân, đứng ngang hàng với các tướng như Đàm Thận, Quách Thịnh, Lý Huyền Sư...

Ngày mùng 3 tháng 3 năm Mậu Thìn (1028), sau khi vua Lý Thái Tổ vừa mất, chưa làm lễ táng, các hoàng tử Vũ Đức Vương, Dực Thánh Vương và Đông Chính Vương không chấp nhận việc Thái tử Lý Phật Mã lên nối ngôi, đã đem quân đến vây thành để tranh ngôi của Thái tử.

Thái tử Phật Mã biết là có biến, bèn sai người đóng hết các cửa điện, rồi bảo rằng: “Ta đối với anh em không phụ bạc chút nào. Nay ba vương làm việc bất nghĩa như thế, quên di mệnh của Tiên đế, muốn mưu chiếm ngôi báu, các khanh nghĩ thế nào?”. Các quan cùng xin Thái tử cho đem quân ra thành quyết được thua một trận.

Lê Phụng Hiểu cùng một số tướng khác như Lý Nhân Nghĩa, Dương Bình, Quách Thịnh... đưa quân ra ngăn chặn. Khi quân của Thái tử và quân của các vương giáp trận, Lê Phụng Hiểu đã rút gươm, hô to lên rằng: “Bọn Vũ Đức Vương ngấp nghé ngôi báu, không coi vua kế vị vào đâu, trên thì quên ơn Tiên đế, dưới thì trái nghĩa tôi con. Vì thế thần là Phụng Hiểu xin đem thanh gươm này để dâng”.

Dứt lời, Phụng Hiểu vung gươm chém chết Vũ Đức Vương. Quân của ba vương thấy thế, hốt hoảng rủ nhau tháo chạy. Phụng Hiểu quay ngựa về cung báo cho Thái tử Phật Mã biết. Phật Mã hết sức ca ngợi lòng trung dũng của ông, sau khi lên ngôi đã phong ông làm Đô thống Thượng tướng quân, tước Hầu.

Năm 1044, quân Chiêm Thành sang xâm lược nước ta, Đô thống Lê Phụng Hiểu hộ giá nhà vua đi đánh giặc. Ông làm tướng tiên phong, lập công lớn, danh tiếng lừng lẫy. Khi chiến thắng trở về, nhà vua định công, phong thưởng. Xét thấy quyền lực, bạc vàng đều là phù du, ông liền nói với vua: “Thần không muốn thưởng tước, cũng không dám tham lam công khố, chỉ xin cho về ở núi Băng Sơn, ném dao lớn đi xa, dao rơi đến chỗ nào trong đất công thì xin ban cho làm sản nghiệp”.

Vua nghe theo. Phụng Hiểu lên núi, ném dao xa đến hơn mười dặm, rơi xuống thôn Đa Mi. Vua lấy số ruộng ấy ban cho, tha thóc thuế cho ruộng ném dao ấy.

Tục truyền rằng Phụng Hiểu vốn sức khỏe hơn người. Đứng trên núi Băng Sơn, con dao trong tay ông ném ra có thể bay qua cả kinh thành Thăng Long, nếu ông ném hết sức thì đất đai nhà vua sẽ là của ông cả. Từ đó, người vùng Thanh Hóa gọi ruộng thưởng công là “ruộng thác đao”.

Sau đó, ông còn nhiều lần cầm quân đi đánh giặc Chiêm Thành và đều chiến thắng mới trở về. Ông sống hết lòng trung thành với vua, biết điều gì có lợi cho dân cho nước đều bàn với vua. Sau khi ông mất (thọ 77 tuổi), nhân dân nhiều nơi đã lập đền thờ ông.

8. Khảo Cổ Đồng Cáo Quỳ Chử - thuộc làng Quỳ Chử, xã Hoằng Quỳ

Công nhận là DTLS quốc gia năm 2002. Khu di chỉ khảo cổ Quỳ chử được phát hiện năm 1962 và tiến hành khai quật vào tháng 3 năm 1978. Đây là khu di chỉ cư trú và mộ táng gồm 3 khu là Khu mộ táng Bãi Chùa; khu mộ táng đồng Cáo; khu di chỉ cư trú Bãi Chùa;

Quỳ Chử là khu di chỉ theo sự hiểu biết ngày nay la nơi xưa nhất của huyện Hoằng Hóa, nơi có người Việt Cổ đến sinh cơ lập nghiệp( từ cuối thiên niên kỷ II trước công nguyên- cách ngày nay khoảng 3500 năm). Các di chỉ khảo cổ học Quỳ Chử cho ta thấy là cư dân Việt Cổ liên tục sinh sống và phát triển qua các giai đoạn lịch sử từ hậu thời kỳ đồng thau qua thời kỳ đồ sắt, đến bắc thuộc, phong kiến cho đến ngày nay. Điều đó biểu hiện ở tầng văn hóa rất dày từ 1m-1.6m phát triển liên tục không có sự cắt đoạn.

+ Khu mộ táng bãi chùa: là khu mộ táng bằng đất của cư dân Việt cổ từ thế kỷ II.Tr.Cn- Thiên niên kỷ I TR. CN. Tầng văn hóa dầy từ 1m-1.3m

+ Khu mô táng Đồng Cáo: Là kho mộ quan tài bằng gốm hay mộ vò. Đây là khu mộ cao cách khu mộ bãi Chùa 300m về phía bắc; ở đây ngoài mộ chôn người lớn, còn rất nhiều mộ trẻ em. Trong đó khai quật được 4 mộ chôn nguyên xác trẻ em.

+ Khu di chỉ cư trú Bãi Chùa: Cách khu mộ đất khoảng 50m về phía đông Nam. Khu di chỉ bãi Chùa có tầng văn hóa dày tới 1.5m-1.6m.

9 .Di tích lịch sử Đền Đồng Cổ: tại Làng Mỹ Đà, xã Hoằng Minh

Xếp hạng là DTLS cấp quốc gia năm 2004. Thần tích làng Mỹ Đà hiện lưu tại đền thờ cho biết vùng đất này xa xưa gọi là Kẻ Cổ, thời Lý - Trần thuộc trang Mỹ Cụ, giáp Cổ Đằng, phủ Hà Trung, đạo Thanh Hoa. Thời Hậu Lê, dưới triều Lê Thánh Tông niên hiệu Quang Thuận thứ 10 (1470) giáp Cổ Đằng được đổi thành huyện Hoằng Hoá. Thời Nguyễn làng Mỹ Đà có tên là xã Mỹ Đà, tổng Từ Minh, huyện Hoằng Hoá, phủ Hà Trung, tỉnh Thanh Hoá. Sau cách mạng Tháng Tám đổi thành thôn Mỹ Đà, xã Hoằng Minh, huyện Hoằng Hoá, tỉnh Thanh Hoá và mang tên gọi này cho đến nay.

Đến di tích đền Đồng Cổ làng Mỹ Đà, thuận tiện nhất là từ cầu vượt Hoàng Long đi Hà Nội rẽ phải ở đầu cầu Tào Xuyên đi theo QL 10 khoảng 2 km về thị trấn Bút Sơn, huyện lỵ Hoằng Hóa là đến làng Mỹ Đà thuộc xã Hoằng Minh. Di tích toạ lạc ở ngay phía đầu làng, nơi có hàng cây xanh vươn cành tỏa bóng mát như đón chào du khách về thăm di tích.

Thần Đồng Cổ “hiển linh” và cũng là nơi vua Lý Thái Tông sai dân lập đền thờ thần thuộc thửa đất số 44 với diện tích 1155m2 ở đầu làng Mỹ Đà. Phía bắc đền giáp thửa đất số: 43B/4048. Phía nam giáp thửa đất số144/3280. Phía tây giáp thửa số 43B/ 4048. Phía đông giáp đường vào làng (theo Bản đồ Địa chính xã Hoằng Minh năm 1996, tờ số 07).

Trải qua biết bao biến cố của lịch sử và sự tàn phá của thiên nhiên khắc nghiệt, đền Đồng Cổ ở Mỹ Đà, đặc biệt là công trình kiến trúc cổ có từ thời Lý hiện nay không còn nữa, nhưng quy mô kiến trúc thì vẫn còn tồn tại. Ngôi đền hiện nay được trùng tu, tôn tạo theo đúng quy mô xưa.

Ngoài cùng, phía trước đền (hướng Tây Bắc) là hồ bán nguyệt, tạo ra thế tụ thuỷ cho đất linh hoa sen này. Phía sau hồ bán nguyệt là bức bình phong án ngữ mặt tiền của ngôi đền, tiếp theo là nghênh môn, 3 gian lợp ngói, mở 3 hệ thống cửa (nhà nghênh môn hiện nay không còn - công tình này đã được định vị để tu bổ trong thời gian gần đây). Qua nghênh môn là vào bái đường (sân), bái đường hiện có chiều dài 14m, rộng 7m50. Hai bên bái đường là giải vũ (công trình hiện không còn), cuối cùng là đền thờ chính. Cấu trúc đền thờ trước đây có hình chữ “nhị”, gồm nhà tiền đường 5 gian và nhà chính tẩm 3 gian. Hiện nay, đền thờ hình chữ Đinh gồm tiền đường 5 gian, tường hồi, đấu nóc và hậu cung chạy dọc, quanh đền có tường bao che.

Không gian nội thất đồ thờ ở tiền đường được sắp xếp như sau: Gian giữa tiền đường là nơi đặt hương án hội đồng, hương án được làm năm 1902 (kích thước dài 1m 55, cao 1m60, rộng 0m70). Mặt trước và hai mặt bên trang trí chạm khắc đề tài tứ linh rất đẹp. Phía trên hương án là bức cửa võng chạm thủng hình rồng phượng được sơn son thếp vàng lộng lẫy. Trên cùng là bức đại tự đề bốn chữ: Đồng Cổ Anh Linh.

  1. Mộ và Đền thờ Bùi Khắc Nhất - xã Hoằng Lộc: được công nhận di tích Quốc gia năm 2000.
  1. Cụm Di tích lịch sử - Kiến trúc nghệ thuật Bảng Môn Đình: thuộc xã Hoằng Lộc, huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa. Bảng Môn nghĩa là cửa vào của các nhà khoa bảng. Đình Bảng Môn không chỉ là nơi thờ Thành Hoàng làng mà còn là nơi quy tụ, vinh danh những con người đỗ đạt thành tài của làng.

Năm 1990, Bảng Môn Đình đã được xếp hạng di tích lịch sử và kiến trúc nghệ thuật cấp quốc gia.

Bảng Môn Đình là nơi thờ thành hoàng của làng, vừa là nơi hội tụ của nhiều nho sinh, nơi giúp họ dùi mài kinh sử, nơi tôn vinh các vị khoa bảng của làng. Bảng Môn Đình đã trở thành biểu tượng của sự hiếu học của người Hoằng Lộc, được nhiều nơi biết đến và được xếp hạng di tích lịch sử và kiến trúc nghệ thuật quốc gia.

Từ thế kỷ XV, Hoằng Lộc đã có truyền thống hiếu học với vị khai khoa là ông Nguyễn Nhân Lễ, đỗ tiến sĩ khoa Tân Sửu (niên hiệu Hồng Đức thứ 12-1481). Từ thế kỷ XV-XIX, Hoằng Lộc có đến 12 vị đậu đại khoa, trong đó có 7 tiến sĩ được ghi danh trên bia đá tại Văn Miếu Quốc Tử Giám cùng gần 200 hương cống, cử nhân, 140 người đỗ sinh đồ, tú tài. Trong đó, có nhiều vị khoa bảng nổi tiếng tài năng, nhân cách chính trực, thanh liêm như Nguyễn Nhân Lễ, Nguyễn Sư Lộ, Nguyễn Cẩn...

Di vật trong Bảng Môn Đình còn giữ lại được gồm một bức đại tự "Địa Linh Nhân Kiệt" và hai bản "Thúc Ước Văn". Gần đây, những di tích lịch sử như tấm bia "Đường Bột Kiều Bi", một tấm bia lớn ghi công trạng của các vị đại khoa và "Hòn đá Sư lộ" được đưa về trước cửa đình.

Các lớp văn hoá chồng xếp ở đình Bảng Môn (thể hiện trên kiến trúc-chạm khắc):

+ Lớp thế kỷ XV-XVI (diềm trang trí bao quanh mặt cửa nhà Hậu cung kiểu y môn trước các điện thờ ở chùa Keo, chùa Bút Tháp thế kỷ XVIII, nhưng phong cách chạm khắc thô ráp, hình hoạ rất ngộ nghĩnh, sống động, hồn nhiên đậm yếu tố dân gian);

+ Lớp thế kỷ XVII ( tại nội thất nhà Hậu cung có chạm khắc trên cột, xà ngang, hoành, đặc biệt là kết cấu vì nóc với các hình tượng chim phượng, cá hoá rang, hoa cúc, sen, trúc phong cách tinh tế, hình nét cầu kỳ, hoa mỹ);

+ Lớp thế kỷ thứ XIX- XX ( tại nhà tiền đường có nội dung tứ linh, tứ quý nhưng mang phong cách khoẻ khoắn, mạnh mẽ, sung mãn, khối tạc có diện tích lớn).

Đặt trong bối cảnh đương thời, đình Bảng Môn được xem là trung tâm biểu hiện đạo học của làng. Chính tại đình làng, mỗi khi có tân khoa Trạng đỗ đạt thì việc đón rước trở thành một lễ hội suy tôn Nho học đặc biệt, họ làm lễ tại đình trước khi yết bái ông cha. Như vậy ngôi đình Bảng sớm có bóng dáng một trường làng cổ xa của Việt Nam. Ở Kinh Đô có Quốc tử giám; ở tỉnh có Trường thi. Đây là một điểm rất đặc biệt ở đình Bảng Môn. Khái niệm đình làng giờ hoà nhập, lưỡng hợp với khái niệm đền thờ, khái niệm trường làng.

Đền thờ Đức Thánh Cả - Tô Hiến Thành nằm tọa lạc trên khu đất rộng gần 10.000 m2, cách biển chừng 800m, thuộc địa phận thôn Tiền Thôn của xã Hoằng Tiến, qua nhiều năm, đền thờ Tô Hiến Thành đã được nhân dân địa phương và con em xa quê tôn tạo khang trang hơn, nhưng vẫn giữ được nguyên bản vẻ đẹp kiến trúc vốn có của đền.

Cho đến đầu thế kỷ XIX, chúng ta biết được cái tên Hà Lộ một cách rõ ràng. Xã Hà Lộ thuộc tổng Kim Xuyết, huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa (tên làng xã Việt Nam đầu thế kỷ XIX, trang 108 - 1981). Xã Hà Lộ có hai thôn đó là thôn Văn và thôn Tiền Cựu, trong đó thôn Tiền Cựu là thôn có di tích đền thờ Đức Thánh Cả - Tô Hiến Thành.

Sau cách mạng Tháng Tám 1945 thì xã Hà Lộ được sát nhập thêm hai thôn nằm trong xã Hoằng Yến. Đến năm 1953 phong trào cải cách ruộng đất, việc phân chia lại đất đai và đặt tên mới, thì Tiền Thôn nằm trong xã Hoằng Tiến.

Di tích thờ Thái Phó Tô Hiến Thành, một bậc đại thần dưới triều Lý (thế kỷ XII), có tài trị nước, thẳng thắn, cương trực và biết dùng người. Không những là một võ quan giỏi ông còn chú trọng cả văn hóa và sùng mộ Nho học.

Qua thần tích và các nguồn sử cũ thì chúng ta biết chắc được mỹ hiệu Tô Đại Liêu, tức là Tô Hiến Thành (từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam, trang 150,1990). Tô Hiến Thành là một đại thần có tước vương làm việc trong phủ Liêu của triều Lý (dưới thời vua Lý Anh Tông, 1138 - 1175). Trong ba tên gọi trên của đền thì tên gọi đền thờ Đức Thánh Cả - Tô Hiến Thành mà nhân dân quen gọi.

Thần tích đền “Chính Từ”, cho biết ông sinh ra và lớn lên ở đất Thanh Hóa. Tô Hiến Thành nổi tiếng là một người văn võ toàn tài, ông mất vào tháng 6 năm Kỷ Hợi (1179). Nhớ ơn ông, cảm phục tài đức của ông, nhân dân Thanh Hóa đã lập đền thờ ở nhiều nơi . Trong đó đền thờ ở Tiền Thôn xã Hoằng Tiến ngày nay là có quy mô lớn và bề thế. Người dân Hoằng Tiến đã tôn ông làm Thành hoàng của làng và gọi ông là Đức Thánh Cả hay là Sát Hải Đại Vương.

Đền thờ Đức Thánh Cả, hay là nghè Hà Lộ là nơi thờ Tô Hiến Thành, một danh nhân lịch sử của đất nước ở thế kỷ XII (triều Lý).

Trong 216 năm tồn tại của nhà nước phong kiến trung ương tập quyền đầu tiên trong lịch sử Việt Nam, nhà Lý đã có những đóng góp to lớn cho việc xây dựng một nền móng vững chắc cho các vương triều về sau. Những nhân vật nổi tiếng có công giúp các vua Lý trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước phải kể đến như: Lý Thường Kiệt, Lý Đạo Thành. Tô Hiến Thành, Lê Phụng Hiểu… trong số những con người đó thì Tô HIến Thành là một bậc đại thần được sử sách ghi nhận và nhân dân ca ngợi. Khi ông mất, nhiều nơi trên đất nước ta đã lập đền thờ ông. Riêng ở Thanh Hóa có 72 đền thờ ở khắp mọi nơi, nhưng tập trung nhất là ở vùng ven biển.

Theo tài liệu lịch sử, truyền thuyết, thần tích còn lại ở Tiền Thôn, xã Hoằng Tiến, huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa cho biết:

Tô Hiến Thành, tự Hoàng Minh, húy Tô.

Tước hiệu: Đại Vương tướng quân

Mỹ hiệu: Tô Đại Liêu

Tô Hiến Thành sinh ngày 22 tháng Giêng năm Nhâm Ngọ (1102) - mất ngày 12 tháng 6 năm Kỷ Hợi (1179) , ông sinh ra ở Xóm Lẻ - thuộc làng Hạ Mỗ - Xã Hạ Mỗ - huyện Đan Phượng - tỉnh Hà Tây (cũ), (nay thuộc huyện Đan Phượng, Tp.Hà Nội). Tô Hiến Thành được đề cập lần đầu trong sử sách do vai trò của ông trong việc bình định nổi loạn Thân Lợi.s

Sự thực tài liệu về nguồn chính sử cho biết cuộc đời và sự nghiệp của Tô Hiến Thành như sau: Đầu đời Lý Anh Tông Tô Hiến Thành giữ chức Thái phó, coi giữ việc binh. Lần theo Đại Việt sử ký toàn thư ta sẽ thấy các hoạt động cuat Tô Hiến Thành như sau:

- Tháng 11 năm 1161, Tô Hiến Thành và Đỗ An Dy đi tuần các nơi ven biển Tây Nam để giữ yên bờ cõi.

- Tháng 7 năm 1167 triều đình nhà Lý cử Tô Hiến Thành đem thủy quân đi đánh Chiêm thành.

- Tháng Giêng năm 1175, vua Lý Anh Tông ốm nặng lệnh cho Tô Hiến Thành giúp Thái tử Long Trát (do Thái tử còn quá nhỏ tuổi)

- Tháng 7 năm 1175 vua Lý Anh Tông băng hà ở điện Thụy Quang, thọ 41 tuổi, ở ngôi 39 năm. Thái tử Long Trát lên ngôi (tức Lý Cao Tông) khi ấy mới hai tuổi, mẹ đẻ là Đỗ Thị được làm Hoàng Thái Hậu, Tô Hiến Thành làm phụ chính.

Rõ ràng, Tô Hiến Thành là một con người tai năng, đức độ. Là người luôn nghiêm hiệu lệnh, rõ thưởng phạt, ông được các vua Lý tin dùng và phong tới đỉnh cao của nấc thang danh vọng. Năm Trinh Phù thứ 4 (1179), ông lâm bệnh, trước khi mất còn tiến cử người hiền để thay công việc của mình. Sau khi ông mất nhiều Nơi trong nước nhân dân đã lập đền thờ ông.

Riêng trên địa bàn Thanh Hóa, ngoài “Chính từ” là ngôi đền ở xã Hà Giang huyện Hà Trung thì ở xã Hà Lộ (nay là xã Hoằng Tiến) huyện Hoằng Hóa, nhân dân nhớ sự tích Tô Hiến Thành đã dừng chân ở địa phận xã khi đi tuần ven biển, bèn tôn ông là Đức Thánh Cả hay là Sát Hải Đại Vương thờ làm thần Thành hoàng của làng.

Đền thờ Đức Thánh Cả - Tô Hiến Thành thuộc loại hình di tích lịch sử văn hóa và kiến trúc nghệ thuật.

Di tích đền thờ Tô Hiến Thành được công nhận là di tích cấp quốc gia năm…

Tô Hiến Thành làm quan trong triều, khi ông mất, hiện nay chưa có tài liệu nào nói đến một cách chắc chắn là mộ ông ở đâu, các tài liệu truyền thuyết, thần tích thì ta biết được Tô Hiến Thành sinh ra ở Thanh Hóa. Khi làm quan trong triều ông có đi tuần các vùng ven biển Thanh Hóa.

Do thời tiết khắc nghiệt, nên đền cũng bị hư hại nhiều. Qua nhiều năm, do có ý thức bảo vệ của dân làng nên hiện tại ngôi đền vẫn giữ nguyên được diện mạo và dáng vẻ ban đầu. Hiện nay đền được nằm trên một khu đất rộng, nghênh môn đằng trước bằng gạch, đã hư hại nhiều, hiện trạng đó cho thấy kiến trúc được dựng vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Quần thể kiến trúc này bao gồm: tòa Tiền đường đằng trước, đằng sau gồm tòa Bái đường, tòa ống muống và Hậu cung, liên kết với nhau trong một bố cục mặt bằng kiểu chữ Công. Bên phải tòa Bái đường có một giếng nước, chếch về đằng sau, bên trái là kiến trúc tòa mẫu mới được xây dựng gần đây, quy mô nhỏ với mặt bằng hình chữ đinh. Một lớp tường hoa thấp xây gạch làm ranh giới giữa kiến trúc này với bãi đất rộng đằng trước.

Cổng nghênh môn là một tòa nhà 3 lớp 2 mái, tường bít đốc. Ở 4 góc có 4 cột trụ vuông chắc chắn, phía chân 4 cột trụ này được đắp 4 con giống hình hổ phù. Bờ nóc và bờ giãi đắp vữa, to mập, có đường gờ nổi tạo cho các bờ giãi nay sự tinh tế đẹp mắt. phía trên cùng hai bên tường đốc được đắp hai hình đấu trụ hai bên đốc vì được đắp nổi hình mặt hổ phù. Bộ mái được lợp bằng ngói mũi thông thường. Nghênh môn có một cửa vòm cuốn đi vào, không có cánh cửa. Phía trong được cấu tạo thành 3 lớp cửa vòm cuốn có kích thước bằng nhau cả chiều rộng và độ cao. Do lâu ngày bị mưa nắng phá hủy, phần mái phía trước bị sụt lở khá nhiều.

Nhìn chung, toàn bộ nghênh môn được xây dựng như một cái nhà chỉ có điều phía bên trong không thể bố trí được gì ngoài việc có tác dụng đi lại. Vật liệu xây dựng hoàn toàn bằng gạch, vôi vữa, không có gỗ. Lối kiến trúc cổng nghênh môn hoàn toàn bằng chất liệu trên, phần nào thích hợp với một vùng đất gần biển do có điều kiện thiên nhiên khắc nghiệt.

Bước qua cổng nghênh môn là một sân rộng bằng đất nện, nay đã được lát gạch chỉ đỏ, có 3 phía tường bao bọc. trong sân được trồng các loại cây cảnh và các loại cây tỏa bóng mát. Tiếp giáp với sân là khu vực Tiền đường, hiện nay toàn bộ khu vực Tiền đường đã được di chuyển đến một khu vực khác thành nhà truyền thống của xã. Bởi vậy diện tích đất khu vực tiền đường vẫn còn để trống, tạo thành một chiếc sân nửa trước khu vực Hậu cung.

-Lễ hội: Năm nào cũng vậy, cứ vào những ngày đầu tháng 2 âm lịch, nhân dân xã Hoằng Tiến và khách thập phương quanh vùng lại hân hoan phấn khởi, náo nức chuẩn bị cho lễ hội xuân- là lễ hội lớn nhất trong năm và được diễn ra nơi trang nghiêm, tôn kính: đền thờ Tô Hiến Thành- 1 di tích lịch sử văn hóa được Bộ Văn hóa xếp hạng là di tích lịch sử văn hóa quốc gia từ năm 1997, không chỉ đời đời ghi nhớ công ơn của bậc hiền tài Tô Hiến Thành có công cứu nước, giúp dân dẹp giặc ngoại xâm mà còn như biểu tượng về tinh thần đoàn kết của tổ tiên ngay trong những ngày bình minh của lịch sử xã nhà. Từ thời nhà Lý, triều Lý Anh Tông (1138- 1175) xã Hà Lộ có 4 làng: làng Tiền, làng Tán, làng Hậu và làng Định đã chung sức xây dựng nên đền thờ Đức Thánh Đại Giang (hay gọi là nghè Thánh Cả), ghi công ơn 1 vị thần từ thời nhà Lý đến thời nhà Trần có công đánh giặc ngoại xâm. Thánh vị và thần phả còn lưu giữ tại đền được ghi là “Đại giang, Quý công mạnh lang, hoàng minh, Tự tô đại liêu, thác tích Tô Hiến Thành”, và từ đó, qua đời này đến đời khác, nhân dân xã Hà Lộ nay là xã Hoằng Tiến luôn bảo tồn, thờ phụng và phát huy những giá trị văn hóa lịch sử của đền thờ Tô Hiến Thành.

Trong không khí linh thiêng, trang trọng, lễ hội kỳ phúc truyền thống ở Hoằng Tiến diễn ra tại đền thờ Tô Hiến Thành, tái hiện nguyên vẹn nét văn hóa truyền thống, biểu tượng của ý chí kiên cường đấu tranh bảo vệ quê hương; Phần tế lễ là phần tổ chức nghi lễ tế thần, kiệu Đức thánh Đại Giang được rước về ngự tại làng Đông Thành và nhân dân của 5 làng trong xã cùng các dòng họ, bản hội sẽ dâng mâm lễ cùng đoàn rước kiệu về đến đền thờ Tô Hiến Thành để bắt đầu khai mạc lễ hội - điều này có ý nghĩa rất linh thiêng từ xa xưa đến nay. Sau phần tế lễ, rước kiệu là phần hội, phần hội sẽ được tổ chức nhiều chơi dân gian, mang đậm nét truyền thống như: đánh đu, chơi bài điếm, thi gói bánh chưng, cờ tướng, đi cầu khỉ và nhiều trò chơi thú vị khác, thu hút đông đảo nhân dân trong xã và khách thập phương tham gia.

  1. Đền An Lạc ( Họ Lê ) - xã Hoằng Hải: Được xếp hạng di tích quốc gia năm 1994. Tên gọi xuất phát từ nội dung thờ có tên: Đền Lê Công Thần, sở dĩ gọi đền Lê Công Thần vì đền là nơi thờ các vị công thần dòng họ Lê Lai. Sắc phong tại đền thờ còn ghi rõ Lê Lai “Bình Ngô khai quốc Công thần – Thái úy Phúc Quốc Công Thượng đẳng thần”; Lê Lâm (đệ nhị thế hệ - con Lê Lai) “Lũng Nhai Công thần – Thái úy Trung Quốc Công – Trác vĩ Thượng đẳng thần”; Lê Niệm (con Lê Lâm) “Thái úy Tĩnh Quốc Công – Trác vĩ Thượng đẳng thần” Lê Công Giới (thế hệ thứ 9) “Dương Vũ – Uy dũng Hoằng Lễ Hầu – Linh phù tôn thần” (Sắc phong ngày 25 tháng 7 năm Khải Định thứ 9 (1925)). Ngoài ra tại đền còn thờ các vị khác như Lê Lạn, Lê Lư, Lê Lộ, Lê Khủng… họ đều là công thần khai quốc, trung hưng nhà Lê sơ và là anh em, con cháu của Lê Lai. Có thể nói đền Lê Công thần chính là miếu đường thờ các thế hệ công thần của dòng họ Lê Lai.

Lê Lai tính cương trực, dung mạo khác thường, khí chí hơn người, được phân công lo việc hầu cần cho Lê Lợi. Mùa đông năm Bính Tuất (1416) trong số 18 người cùng Lê Lợi hội thề ở Lũng Nhai, ông đã có mặt. Năm Mậu Tuất (1418) lúc mới dựng cờ khởi nghĩa ở Lam Sơn, tướng ít, quân thiếu, bị giặc Minh vây đánh ở Mường Một, Lê Lợi phải chạy về đóng ở Trịnh Cao, một nơi hẻo lánh không có dân. Giặc Minh chia quân chặn các nơi hiểm yếu, tình thế của nghĩa quân vô cùng nguy khốn. Lê Lợi hỏi các tướng: “Ai dám đổi áo thay ta đem quân ra đánh giặc, xưng danh hiệu của ta, bắt chước như Kỉ Tín đời Hán, mưu tính cuộc nổi dậy về sau”. Các tướng không ai dám hưởng ứng, riêng Lê Lai đứng dậy nói: “Tôi xin đi. Sau này lấy được nước, nghĩ đến công lao của tôi khiến cho con cháu muôn đời được nhờ ơn nước, đó là nguyện vọng của tôi”. Lê lai rất thương cảm quỳ xuống vái trời mà khấn rằng: “Lê Lai có công đổi áo, sau này tôi và con cháu tôi, cùng con cháu các tướng tá nếu không nhớ công ơn ấy thì nguyện cung điện biến thành rừng núi, ấm báu thành cục đồng, lưỡi gươm thần này thành dao cùn”. Lê Lợi khấn xong bèn cởi áo cho Lê Lai mặc. Ông chém giết được khá nhiều giặc, cuối cùng bị giặc bao vây giết hại. Đó là ngày 29 tháng 4 năm Kỷ Hợi (1419).

Vua Lê Lợi cảm động vì lòng trung nghĩa của Lê Lai, trước hết sai người ngầm tìm di hài của Lê Lai đem về an táng tại Lam Sơn. Năm Thuận Thiên thứ nhất (1428) phong ông là công thần hạng nhất tặng là “Suy Trung đồng đức, hiệp mưu, Bảo chính Lũng Nhai Công thần”, hàm Thiếu úy, thụy là Toàn Nghĩa. Tháng 12 năm sau, nhà vua sai Nguyễn Trãi viết hai bản lời thề ước trước và lời thề nhớ công của Lê Lai, để vào trong hòm vàng, lại gia phong ông hàm Thái úy. Năm Thái Hòa thứ nhất (1443) ban tặng ông là: Bình Chương quân quốc trọng sư, ban cho túi Kim – Ngư, ấn vàng (Kim phù) tước huyện Thương Hầu. Đầu niên hiệu Hồng Đức (1470) tặng là Diên Phúc Hầu, đến năm Hồng Đức thứ 15 (1484) truy tặng là Thái úy Phú Quốc công, về sau gia tặng là Trung Túc vương.

Tại đền thờ An Lạc ở Hoằng Hóa, theo các sắc phong thời Hậu Lê và thời Nguyễn lưu giữ tại đền cho biết Lê Lai đã được các triều đại phong kiến phong làm bậc “Đại vương”, “Quang ý Trung đẳng thần” và giao trách nhiệm cho địa phương phụng thờ như bậc thánh thần cứu nước, cứu dân. Tại Đền An Lạc và Đền Tép (xã Kiên Thọ, huyện Ngọc Lặc) hàng năm vào ngày 29 tháng 4 nhân dân mở hội đền (xuất phát từ ngày kị của Lê Lai) và ngày 21 tháng 8 trước ngày giỗ Lê Lợi.

Lê Lạn là anh Lê Lai (Gia phả họ Lê ở Hoằng Hải ghi là Lê Đống, nghiên cứu lịch sử số 2 (309) năm 2000 lại ghi Lê Lạn là em Lê Lai) cũng sớm tham gia khởi nghĩa Lam Sơn và lập nhiều công. Năm Ất Tỵ (1425) khi đánh ở Khả Lưu, ông hi sinh, được phong chức Thái phó Hiệp Trung hầu, sau gia tặng là Hiệp Quận công.

Lê Lai có 3 người con trai đều tham gia khởi nghĩa Lam Sơn từ những buổi đầu.

Đền An Lạc từ xưa đã là một kiến trúc hết sức đẹp. Theo các nguồn tài liệu cho biết thì đền được xây dựng từ thế kỉ XVI. Kiến trúc của lần khởi dựng đó bao gồm: Nghênh môn, bình phong, sân bái đường, tiền đường, trung đường và hậu đường. Ngoài ra còn có nhà tả hữu vu và các công trình bảo vệ khác. Dấu vết kiến trúc của lần khởi dựng này đến nay không còn gì, có chăng chỉ còn lại ở qui mô và nền móng.

2.Cụm di tích Nghè Vĩnh Gia- Chùa Gia – phủ Mẫu xã Hoằng Phượng được xếp hạng di tích cấp tỉnh năm 1994. Đền Thờ 2 vị Tướng Tô Hiến Thành và Trần Khát Chân thuộc Làng Vĩnh Gia – xã Hoằng Phượng – Huyện Hoằng Hoá – Tỉnh Thanh Hoá Đền thờ có tên cũ trong văn bia và sắc phong là “Vĩnh gia từ”, tức là Đền Vĩnh Gia. Tên nôm thường gọi là “Nghè Vĩnh gia” thờ 2 vị nhân thần và 1 vị thiên thần.

1. Thái Uý – Thái Sư: Tô Hiến Thành (1102 – 1179) một Thái Sư phụ chính cho 2 triều vua Lý: Lý Anh Tông 1138 – 1175, Lý Cao Tông 1176 – 1210 Dẹp được thù trong giặc ngoài – Đất nước thái bình thịnh trị, Muôn dân kính phục.

2. Ngài: Kim Ngô Long Hổ - Lưỡng vệ thượng tướng quân: Trần Khát Chân (1370 – 1399) một danh tướng trẻ kỳ tài cuối đời trần có công lớn dẹp nạn xâm lăng của quân chiêm thành.

3. Thiên thần Tiến Hiền Thiên Tôn: một vị thiên thần báo mộng cho Tô Hiến Thành nhiều kế sách, đánh giặc thu được nhiều tháng lợi mà rất ít thương vong.

Ba vị thần nói trên đã có nhiều công lớn giúp dân giúp nước đã được nhiều triều đại phong kiến ghi nhận trong các sắc phong là “Thượng đẳng thần” và là Phúc thần của địa phương, yêu cầu địa phương hàng năm phải phụng thờ chu đáo.

Hiện nay trong đền còn lưu giữ được 52 đạo sắc. Sắc phong cổ nhất hiện này còn là bức phong ngày 29 – 11 – 1660 (Vĩnh thọ tam niên thập nhất nguyệt – Nhị thập cửu nhật) tất cả số sắc phong này có bản ảnh sao chụp kèm theo danh bạ.

Căn cứ vào các Sắc phong và văn bia thì Ngôi Đền được làm vào thời Lê Trung Hưng (thế kỷ 16). Trải qua nhiều sự thăng trầm của lịch sử và nhiều lý do khác nhau, Đền đã xuống cấp và tàn phá nặng nề. Hàng năm Làng Tổ chức Lễ hội vào các ngày 8-9-10 tháng 2 âm lịch, thu hút đông đảo nhân dân cả 1 vùng rộng lớn từ Hoằng Hoá – Thiệu Hoá – Đông Sơn – Vĩnh Lộc – Hà Trung.

3. Đình Phượng Mao - xã Hoằng Phượng: Nơi đây thờ 2 vị Thần quan võ tướng thời Lê là Lê Công Trinh và Lê Công Phụ, là Thành hoàng làng.

Có công giúp nước thời lê, Thế kỷ XVI di tích được Sở VHTT tỉnh Thanh Hóa Công nhận Quyết định số. 34 ngày 24 tháng 12 năm 1991

Đình làng còn lưu giữ được 23 sắc phong qua các triều đại Vua phong thần.

  1. Đền Phủ Nghĩa Trang - xã Hoằng Kim.

Theo thống kê mới nhất trong cuốn “ Địa chí văn hóa Hoằng Hóa của giáo sư Ninh viết Giao chủ biên thì ngoài 2 vị thần là Lương Vũ Đố và Sen Hoa công chúa được thờ ở đầu phủ thì ở Đình làng Nghĩa trang còn thờ Cao sơn thượng đẳng thần.

Về Vị thần được thờ ở đền Nghĩa Trang : Theo các sắc phong thời Lê Như Phúc thái ngũ niên (1647), Vĩnh thọ tam niên (1660), Vĩnh Khánh (1662) đều cho biết vị thần thờ ở đây là Lương Vũ Đế. Như vậy vị thần được thờ ở đền là một nhân vật lịch sử có thật ở thế kỉ VI bên Trung Quốc. Điều này cũng đã được một số triều đại phong kiến trước đây công nhận.

Về vị thần được thờ ở Phủ Nghĩa Trang: thần được gọi là Liên Hoa công chúa – là một cô gái đẹp đi cắt cỏ bị chết đuối. Có hai anh học trò đi qua bình văn và kỳ thi năm đó cả hai đều đỗ đạt, nghĩ đến câu chuyện gặp cô gái các anh quay lại hồ nhưng không thấy cô gái nữa. Tìm hiểu biết việc cũ anh ta cho rằng cô gái chết oan nên khi làm quan anh tâu Vua cho lập đền thờ phong tặng là “ Liên hoa công chúa”.

Như vậy, hai vị thần được nhân dân Nghĩa Trang tôn thờ ở đền phủ đều là những vị thần có công che chở và giúp cho nhân dân hạnh phúc trong cuộc sống cũng như học hành thi cử.

  1. Di tích lịch sử Nghè My Du - xã Hoằng Kim.

Được xếp hạng di tích cấp tỉnh năm 2008. My Du có các tên nôm là Mày Giàu, Kẻ Giàu, Đa Mi. Nghè là nơi thờ thần họ Cao tên Sơn, tự là Độc Cước. Ông là người có công giúp dân giúp nước, được nhân dân làng My Du tôn làm thần Hoàng và được các triều đại phong sắc.

Theo sách “ Đồng khánh địa dư chí” của viện Hán Nôm, ( nhà xuất bản thế giới năm 2003), thời vua Đồng Khánh (1885 – 1888), tên thôn My Du, xã Sơn Trang, tổng Dương Sơn đã thấy xuất hiện.

  1. Kiến trúc nghệ thuật Đình Xa Vệ - xã Hoằng Trung.

Được xếp hạng di tích cấp tỉnh năm 1999. Đình làng Xa Vệ ngoài tên gọi chính còn có nhiều tên gọi khác như đình thờ Đô Đạo Thành Hoàng, Quán Đức Thời Vương, Thành Hoàng Bảo An, Nga Phi, Tô phi công chúa hoặc Thiên hạ anh linh thượng đẳng phúc thần. Sở dĩ đình có nhiều tên gọi khác nhau như vậy là do khi còn sống Ông là người tài ba lỗi lạc đã có công phò vua giúp nước, giúp dân được triều đình ghi nhớ công ơn, nhân dân tôn sùng bầu làm Thành Hoàng xa vệ đồng thời tâu với triều đình ban tặng sắc văn tiền bạc lập đình thờ tự làm nơi hương khói đời đời.

Theo thần tích và các đạo sắc phong Vua ban thì đình làng Xa Vệ thờ thần Xa Vệ Bảo An Thành Hoàng và Nga Phi công Chúa, Tô Phi công chúa.

Khai đức Thời vương – Bảo An Thành Hoàng là người Bắc Quốc sinh giờ dần ngày 14 trong một gia đình thiện căn, ông khôi ngô tuấn tú và có đôi mắt sáng rực khác thường, văn võ toàn tài ít ai sánh kịp.Ông có công lớn trong việc dẹp giặc Chiêm Thành xâm lấn. Khi mất ông được phong tặng là Đường cánh thành Hoàng khai đức thời vương và nhân dân lập đền thờ.

Nga phi công chúa – Tô phi công chúa: là con vua Trần Anh Tông theo vua đi dẹp giặc và sau đó được vua gả cho Đức Công. Vì vậy khi mất được thờ cùng Đức Công.

Như vậy, các vị thần ở Xa Vệ họ đều là những nhân thần sống dưới triều Trần, công lao được ghi lại trong thần tích sắc phong.

7. Đình Trung Hậu - xã Hoằng Trung.

Còn gọi là Đình Đồng Cổ nay thuộc làng Trung Hậu, xã Hoằng Trung, huyện Hoằng Hóa là nơi thờ Thành Hoàng Bảo Hựu tôn thần; tức thần núi Đồng Cổ ở xã Đan Nê, Huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa. Khi Lý Thái Tổ mất, ba Hoàng Tử: Vũ Đức, Đông Chinh, Dực Thánh gây biến, định tranh ngôi báu, Thái Tử Lý Phật Mã được các vệ sỹ Lý Nhân Nghĩa, Lê Phụng Hiểu giúp dẹp yên được. Khi Lý Phật Mã chưa lên ngôi đã đem quân đi đánh giặc Chiêm ở phương nam có dừng chân ở Ấp Trung ( tức làng Trung Hậu ngày nay), đêm đến được vị thần “ Đồng cổ sơn thần” báo mộng cho sự trợ giúp và che chở của thánh thần và xin nhà vua đi đánh giặc.

Sau khi lên ngôi Lý Thái Tông ban tước cho thần núi Đồng Cổ, vì thần báo mộng. Vua lại xuống chiếu giao cho quan hữu ty đem sắc chỉ về truyền cho dân dựng đền thờ thần, phong cho thần là Thành Hoàng Bảo Hựu hiển ứng thượng đẳng phúc thần Đại vương.

Nhân vật thần Đồng Cổ lâu nay đã được sử sách nhắc tới. Theo Sách “ Việt Điện U Linh” của Lý Tế Xuyên thì : thần Đồng Cổ có tên là Tướng Vũ Công, là một vị tướng trung dũng có tài thao lược, được nhà vua sai cho đem quân đi trấn ải Phương nam chống lại quân Chiêm, ông tạ thế ở núi Khả phong – Đan Nê – Yên Định – Thanh Hóa, nhân dân lập đền thờ tướng Vũ Công, trong đền có đặt một trống đồng lớn lấy tên là Đền thờ Đồng Cổ.

9. Từ đường dòng họ Lê Quang - xã Hoằng Trinh.

Được xếp hạng di tích cấp tỉnh năm 2002. Di tích lịch sử văn hóa “ Từ đường họ Lê Quang” làng Trinh Nga, xã Hoằng Trinh – huyện Hoằng Hóa – tỉnh Thanh Hóa, chính là nhà thờ của họ Lê Quang – một chi họ thuộc dòng Tôn Thất nhà Lê mà những vị thủy tổ được thờ ở đây đều là lớp con – cháu – chắt của vị vua anh minh Lê Thánh Tông thế kỷ XV, từ xưa đến nay nhân dân địa phương đều biết rõ ở làng Trinh Nga này đã tồn tại một Từ đường của dòng họ Lê Quang. – một dòng họ có nhiều công lao đóng góp vào quá trình hình thành và phát triển của làng Trinh Nga trong suốt mấy trăm năm lịch sử. Đây là di tích không phải là nơi thờ độc nhất một nhân vật họ Lê, mà thờ nhiều vị, trải dài nhiều thế hệ nối tiếp.

Theo cuốn “ Lê tộc nguyên phổ” : Thời Uy mục đế (1505-1509) có tình trạng tàn sát tổn thất, vì vậy Kinh Vương Kiện là con út của vua Lê Thánh Tông và là em của Lê Hiến Tông để tránh bị sát hại đã trốn về Trang Bà Nga ( tức là làng Trinh Nga) được một năm sau thì mất. Con của Vương Kiện còn nhỏ, khi lớn lên thấy họ Mạc cướp ngôi nhà Lê nên đành ở Trang Bà Nga cam chịu cuộc sống bình thường rồi sinh được hai con là Phúc Thành và Phúc Đức. Sau này phúc Thành trở thành thủy tổ của dòng họ Lê Quang ở Trinh Nga.Dòng họ Lê Quang có nhiều công trạng đặc biệt Lê quang giáp con của Phúc Thành, nhưng Lê quang Giáp phục vụ triều đình không lâu lấy cớ tuổi già xin về ở ẩn lập ấp ở Trang Bà Nga, ông đã khai khẩn đất hoang giúp nhân dân xây dựng cuộc sống. Sau khi ông mất toàn dân ở Trang Bà Nga đã lập đền thờ và để tỏ lòng thành kính với công đức mà ông đã để lại làng sắc phong là Thành Hoàng Làng của làng Trinh Nga.

10. Đình Thanh Nga - xã Hoằng Trinh.

Được xếp hạng di tích cấp Tỉnh năm 1999. Đình Thanh Nga là nơi thờ vị Thành Hoàng làng Thanh Nga. Căn cứ vào các tài liệu hiện lưu giữ tại đình như Thần Phả, sắc phong, bài vị thờ, chúng ta được biết vị Thành Hoàng làng Thanh Nga là ông Hoàng Thành là con ông Hoàng Châu vợ là bà Nguyễn Thị Liên ở Trang Hoàng Hậu huyện Quỳnh Lưu, phủ Diễn trấn Nghệ An.

Ông Hoàng Thành sinh vào ngày 4 tháng giêng năm Kỷ Sửu, từ khi sinh ra ông đã có tướng mạo hơn người, tinh thông võ nghệ. Biết tiếng ông nên khi giặc Nguyên – Lương sang xâm lấn biên cương, nhà vua đã cho gọi ông và phong cho chức Đô hộ Đại tướng quân, ông trở thành một tùy tướng của nhà vua và cầm binh đánh giặc. Ông đã dâng kế sách cho vua đánh thắng giặc, ông đóng quân ở Trang Mỹ Nhậm. Nên sau đó ông xin vua cho về làng Mỹ Nhậm mở tiệc khoản đãi nhân dân, trong thời gian đó tự nhiên mây mưa gió lớn nổi lên, trời đất tối đen như mực, nước sông dâng cao, chợt có một con Giao Long, một con Hạc theo dòng nước bơi vào chỗ ông ngồi, ông tự theo dòng nước mà hóa, đó là vào ngày 17 tháng 5. Sau khi nước ngừng, sông cạn, nhân dân đến xem chỗ ông ngồi , trên bờ sông bỗng có một đồi đất trông giống như sao kim.Từ đó nhân dân bản trang gọi đó là xứ cồn thần hóa và xin vua sắc phong cho ông là bậc công thần và lập đền thờ Thành Hoàng Làng.

11. Di tích lịch sử văn hóa và kiến trúc nghệ thuật Đình Đền - thôn Trung Hoà, xã Hoằng Trinh.

Đình được xếp hạng cấp tỉnh năm 1999, sở dĩ đình có những tên gọi chung mà nhân dân quen gọi như vậy là do trong đình phối thờ các bậc linh thần, họ là những bậc nhân thần có công giúp nước cứu dân, công lao của họ được nhân dân nhắc tới, quốc sử lưu truyền, triều đình ghi nhớ công lao. Các vị thần được thờ ở thôn Trung Hòa gồm có : Đức Thánh Cả, Đức Thánh Cao, Đức Thánh Tây Thiên, Ông Quan nghè thời Lê.

- Đức Thánh Cả : Thần quán tại trấn Nghệ An, huyện Kỳ Hoa, Trương Dương Duệ, họ Nguyễn Húy Tường, sinh ngày 11 tháng 2 năm Nhâm Tý. Thời vua Thái Ninh năm thứ 4 vào tháng 11 được lệnh vua thần cùng đạo quân hùng mạnh chia làm sáu mũi tiến đánh quân giặc, giặc bị tiêu diệt, Ông có công lớn giúp nhà Lý nên được biểu dương là ông thần có công. Sau đó Thần phụng tiến về triều cáo yết, Vua rất đỗi vui mừng có thêm hùng tài giúp nước ban cho thần 30 lạng ngân xuyến đồng thời phong tước: “Đại đô thống soái trưởng ngũ đạo bình chương quân vị trọng sự”. Thần nhận tước lộc và xin vua về quê nhà bái tổ thăm quê, Thần đi đến quận Đông Thành trang Đông Lũy chi giang ( Dọc sông Trường Giang) tự nhiên thấy trời u ám, mù mịt mưa to gió lớn ngập lụt cả vùng thần bị nước cuốn trôi đi mất dân trong vùng vô cùng thương tiếc đã cấp báo về triều, vua vô cùng thương tiếc lệnh cho triều thần về lo ma chay cho thần. Khi đình thần về tới ấp cũng là lúc dân trong bản nhìn thấy thi thể thần nổi lên trên mặt nước tại khu vực xoáy phía Đông của bản khu. Sau khi mai táng thần xong Vua đã cho dân trong vùng xây dựng lên miếu thờ thần. Dân làng và cả vùng rất cảm kích và ghi nhớ công ơn của thần “ Thần chi dự trạch”. Hàng năm cứ tới ngày 11 tháng giêng âm lịch dân trong làng tổ chức lễ nghênh đáo cúng tế long trọng. Sau đó được vua cho xây dựng thành đền Đức Thánh Cả.

- Đức Thánh đệ nhị và Đệ Tam: Vào thời Trần Triều Anh Tôn Hoàng Đế niên hiệuHưng Long , có quân giặc Nguyên đến xâm lược quấy nhiễu dân ta, chúng tấn công theo đường thủy từ cửa Lạch Trào dọc theo sông Trà vào địa phận nước ta, dân khu vực đã mật báo đến nhà Vua. Do thế lực địch rất mạnh nên không phân thắng bại, vua thân chinh cử con gái đi triệu tập người tài. Vua nằm mộng thấy có cô gái xinh đẹp quỳ trước vua tâu rằng : “ Giục bình Nguyên cấu đảo Sùng Long”, khi tỉnh dậy vua cho rằng có thần mộng nên đi theo giấc mộng đến ngôi chùa có tên là “ Sùng Long Bảo tự”. Tại đây vua cho lập đàn cầu đảo trước chùa 3 ngày 3 đêm, đến ngày 13/1 bỗng thấy thần linh ứng vào và cất giọng hùng hồn tự xưng là “ Cao Sơn Thượng Đãng thần” là danh tướng bắc triều phục vị phái tả đàm. Sau chiến thắng Vua cho lập đền thờ hai vị thần linh.

- Đức thánh đệ Tứ: Ngài tên Húy là Lê Tiến Vinh, từ nơi khác đến cùng dân làng khai hoang sinh sống, ngài có trí tuệ khác thường, thông minh mẫn đạt, thời Lê triều, Canh Tuất niên Vua mở khoa thi, ngài về triều ứng thí và giành được bảng vàng làm quan tại triều đình.

15. Đình Bái Xuyên: Đình Bái xuyên ngày nay thuộc làng Bái Xuyên, xã Hoằng Xuyên. Đình năm trên bờ của sông Ngu Giang ( sông Lạch Trường).

- Nhân vật thờ: Thờ thần hoàng làng có duệ hiệu là Thượng Lượng Tôn thần ( Mộc Thần) là một vị thần thuộc loại nhiên thần ( tức Mộc thần) thuộc hệ “nhiên thần”. Tài liệu lưu giữ về vị thần này không còn.

- Thông tin di tích: .Theo lời kể của các bậc cao niên ở địa phương, trước kia đình chỉ là một ngôi đình cổ lợp tranh đến đời vua Thành Thái thứ 12 ( năm 1900 ) đình được xây dựng lại bằng gỗ trên một địa điểm cao thoáng mát, mặt quay về hướng đông nam. Do đời sống kinh tế của xóm làng khá giả, nhu cầu tín ngưỡng trong nhân dân ngày càng cao, nhân dân địa phương mới xây dựng lại ngôi đình gỗ như hiện nay. Ngôi đình đã có lịch sử trên dưới 100 tuổi. Đình có nhiều giá trị về lịch sự và kiến trúc nghệ thuật.

16. Di tích lịch sử văn hóa Chùa Cát Lâm- Làng Nhị Hà xã Hoằng Cát

Chùa Cát Lâm thờ Phật, thờ việc học, thờ tiên ông có tài bốc thuốc cứu người, thờ mẫu nghi thiên hạ…

Theo lịch sử thì chùa Cát Lâm có từ Thời Lý, nhưng trải qua bao thăng trầm của thời gian và lịch sử, khói lửa chiến tranh, thì ngôi chùa cũ không còn nữa. Mãi đến những năm 90 của thế kỷ XX bà con trong xã và khách thập phương mới xây dựng lại chùa trên nền cũ với quy mô 12 gian nhà, chia làm 3 khu để thờ phật và sinh hoạt. Năm 2011 ngôi chùa đã có sư trụ trì về quản lý hoạt động tôn giáo tại đây. Chùa được công nhận là di tích văn hóa lịch sử năm 2006.

19. Kiến trúc nghệ thuật Đình Đông Khê, mộ Lưu Đình Chất thuộc làng Đông Khê xã Hoằng Quỳ được xếp hạng đi tích cấp tỉnh năm 1994.

Lưu Đình Chất người làng Đông Khê xã Hoằng Quỳ; năm 24 tuổi ông đỗ Đình Nguyên Đệ Nhất Giáp, tiến sỹ đỗ Hoàng Giáp khoa Đinh Mùi niên hiệu Hoàng Định năm thứ 8 (1607) đời vua Lê Kính Tông. Ông làm quan đến chức tá lý công thần tham tụng bộ hộ thượng thư, tước công (quận công) khi ông qua đời truy phong “Thiếu sư”.

20. Đình Trung và Đền thờ Đức Thánh Mẫu: hay còn gọi là đình Quỳ Chử thuộc làng Quỳ Chử xã Hoằng Quỳ. Được công nhận là DTLS cấp tỉnh năm 1994. Đây là một làng Việt Cổ nằm ven sông Mã. Đình tọa lạc trên một thân đất cao nhất thuộc thôn Trung.

Đình thờ 4 vị thần là:

+ Đức Thánh cả Lê Phụng Hiểu- một danh tướng thời Lý có rất nhiều công lao thể kỷ XI.

+ Đức thánh Đệ Nhị: theo thần phả và lưu truyền của dân gian ngài là một vị tướng rất nghĩa khí của Nghĩa quân Lam Sơn. Có công lao trong cuộc kháng chiến chống Quân minh của Nghĩa Quân Lam Sơn.

+ Đức thánh Đệ Tam: tức “ Thiên tiên công chúa chi thần” một vị nữ thần. Vị thần này được thờ chính ở đền Mẫu ( tức phủ nhà Bà) ở cuối thôn Trung – trên gò cao ở Đồng Cáo. Vì sự cung kính, linh thiêng, vị nữ thần nay cũng được rước vào thờ tại đình Trung.

+ Đức Thánh Đệ tứ: Tức một vị quan thái gián có chức cẩm y vệ tướng quân- người có nhiều công đức và ân huệ đối với dân làng Quỳ Chữ, nên khi chết được dân làng lập đền thờ.

Đình trung xưa kia được xếp vào loại lớn của huyện Hoằng Hóa gồm 7 gian 2 dĩ, 14 vĩ. Đây là loại kiến trúc chồng rường, kẻ bẩy với đầy đủ chân tay, rui , hoành tải. Các chi tiết công trình được đục đẽo tinh xảo.

Năm 2004 đình trung được tôn tạo gần đúng với quy mô và kiến trúc xưa.

- Đình được công nhận là di tích văn hóa lịch sử cấp tỉnh năm 1994.

21. Nhà thờ họ Nguyễn Đình – xã Hoằng Quỳ: được xếp hạng di tích cấp tỉnh năm 1997. Nhà thờ cụ Nguyễn Định Hội cụ Phò Lê diệt Mạc do có nhiều công lao nên được vua Lê Tấn phong đến chức Thượng tướng quân đô chỉ huy sứ; đời vua Trang Tông (1530) phong sắc Đặc tín kim tử vinh lộc đại phu (theo tộc phả họ Nguyễn Đình).

27. Đền thờ Lý Nhật Quang xã Hoằng Minh được xếp hạng cấp tỉnh năm 2001.

Là nơi thờ Lý Nhật Quang là Hoàng tử thứ 8 của Thái tổ Cao Hoàng đế Lý Công Uẩn theo Thần Phả: Lý Nhật Quang đem quân đánh giặc Chiêm Thành có đóng quân tại làng Nội Tý sau khi Lý Nhật Quang về kinh thành hương dân Nội Tý tưởng nhớ công ơn của ông lập đền thờ cúng.

37.Từ đường họ Hoàng Văn - xã Hoằng Vinh: Được xếp hạng di tích cấp tỉnh năm 2000. hay còn gọi Từ Đường Lê Kiện Quận Công là cách gọi theo chức tước.

Trải qua biến thiên lịch sử, sự kiện lại lâu đời hơn 5 thế kỷ đến nay tại nhà thờ họ Lê còn lưu giữ các cứ liệu và các cụ tổ là những người có công giúp nước, giúp dân được triều đình ghi nhớ, nhân dân tôn thờ:

1.Ông Kiện Quận Công: Ông họ Lê, còn gọi là Kiện Quận Công là người vốn chăm lo làm ruộng trở nên giàu có, thóc lúa dư thừa đến nỗi chỉ lấy đất đắp kho chứa thóc mà rồi cũng trở thành cái ao dài, ao ấy nay vẫn còn ở Xứ Vũng trong làng.Vào triều Lê nhà nước cần rất nhiều lương thực để nuôi quân, cụ tình nguyện hiến thóc mà không đòi hỏi làm quan, được triều đình phong tặng chức Quận Công.Từ đó mở mang ra thế hệ con cháu đông đúc, nối đời đều giàu sang thịnh vượng.Trong bản chúc thư còn nói : Người cha là Tuấn Đức sinh được 4 người con trai là : Tuấn Tài, Tuấn Tú, Tuấn Tú, Tuấn Khương truyền nối mấy đời nữa đến cụ tư lệnh Công tự Phúc Lâm rồi đến các thế hệ tiếp theo.Các cụ thế hệ tiếp theo làm quan thời Lê Trung Hưng.

2.Cụ Lê Quan Viên làm quan triều Lê: sinh năm Mậu Ngọ (1738), làm quan , sau về hưu mất tại quê nhà ngày 27/5 năm Bính Thân (1812).

3.Cụ Lê Phúc Chiêu (Con Thứ năm cụ Quan Viên Tử).

Tên Húy là sửu, sinh năm Đinh Sửu (1757), mất ngày 28/4, mộ táng tại sứ Bãi thi Mộc Khúc, có bia mộ.

4. Cụ Lê Tự Cương Trứ ( Con cả ông Phúc Chiêu)

Tên húy là Kiêm, không rõ năm sinh năm mất, mất ngày 4/5, mộ táng tại ruộng Xứ Mã .

Các thế hệ con cháu dòng họ Lê ở đây còn gọi là Lê Tuấn, đến đây do trong Triều Đình Kiêng húy (Tuấn) nên dòng họ Lê tuấn đổi thành họ Lê Văn.

Từ Đường họ Lê thôn Đại lộc xã Hoằng Vinh là di tích lịch sử văn hóa lưu niệm nhân vật lịch sử những con người thực việc thực có công với dân với nước.

  1. Di tích lịch sử Cách mạng Cồn Ba Cây – xã Hoằng Thắng: Cùng với di tích Cồn Mã Nhón, di tích Cồn Ba Cây là địa điểm lịch sử cách mạng quan trọng. Vào những năm trước 1945 đã diễn ra nhiều sự kiện Cách mạng. Ngày 24/7/1945 tại Cồn Ba Cây đã diễn ra sự kiện mít tinh, biểu tình, tiến tới khởi nghĩa thành công cuộc cách mạng tháng 8 tại Hoằng Hóa. Khởi nghĩa Hoằng Hóa là cuộc khởi nghĩa đầu tiên thắng lợi của phong trào khởi nghĩa CMT8 năm 1945 ở Thanh Hóa.

Cùng với di tích Cồn Mã Nhón, di tích Cồn Ba Cây xã Hoằng Thắng là địa điểm lịch sử cách mạng quan trọng. Ngày 24/7/1945 tại Cồn Ba Cây đã diễn ra sự kiện mít tinh, biểu tình, tiến tới khởi nghĩa thành công tại Hoằng Hóa. Di tích Cồn Ba Cây được đầu tư xây dựng hơn 3,8 tỷ đồng với hình thức mô phỏng lại di tích cũ, đặc biệt là bức phù điêu có biểu tượng nhân dân khởi nghĩa tạo được ấn tượng mạnh cho du khách. Hàng năm, Hoằng Thắng có lễ hội Kỳ phúc vào rằm tháng Giêng. Nhiều hoạt động văn hóa truyền thống, trò chơi, trò diễn được tổ chức tại đây. Dịp 24/7 con em địa phương khắp nơi trở về và nhiều đoàn khách cũng đến tham quan. Khu di tích này còn có đình làng, bên trong có nhiều đồ thờ. Tuy vậy, để phát huy hết giá trị của di tích rất cần sự quan tâm của tỉnh trong việc đầu tư các hạng mục như nhà khách, cây xanh, tôn tạo cồn cao, nhất là việc sưu tầm các hiện vật, ảnh liên quan đến cuộc khởi nghĩa 24/7…

- Sự kiện: Sự kiện ngày 24/7/1945 diễn ra tại Cồn Mã Nhón, Cồn Ba Cây đã gắn liền với cuộc khởi nghĩa giành chính quyền ở Hoằng Hóa. Nơi đây, ngày 24/7/1945 dưới sự lãnh đạo của Chi bộ Đảng và Ban Việt Minh Huyện đã diễn ra cuộc chiến đấu dũng cảm, ngoan cường, táo bạo của các chiến sỹ tự vệ và nhân dân, bắt sống tri phủ và đơn vị bảo an binh, giành chính quyền cách mạng về tay nhân dân. Đây là thắng lợi đầu tiên mở màn cho các cao trào khởi nghĩa giành chính quyền và đưa phong trào cách mạng toàn tỉnh phát triển đến đỉnh cao.

Theo những người cao niên trong làng Đằng Trung xã Hoằng Đạo thì Cồn Mả trước kia là cồn cây rậm rạp, xung quanh là đồng lầy, chỉ có duy nhất một tuyến độc đạo chạy qua đi đến các làng phía Nam của huyện Hoằng Hóa. Lực lượng tự vệ của ta vốn thông thạo địa hình bố trí ở đây để hoạt động tiến lui dễ dàng, còn kẻ địch sẽ rất lúng túng khi tiến công. Đúng như dự kiến của Việt Minh, vào ngày 24/7/1945, tri phủ huyện Hoằng Hóa sau nhiều lần “hiểu dụ” nhân dân không thành công đã xin viện binh của tỉnh gồm 34 lính bảo an tiến quân vào làng nhằm tiêu diệt Việt Minh. Khi đi qua cồn Mả Nhón, chúng đã bị Ban chỉ huy Việt Minh chỉ huy tự vệ đánh bất ngờ khiến chúng không kịp trở tay và bị bắt gọn. Toán lính bảo an đã bị thất bại hoàn toàn, bị giải về sân đình chờ xử tội.

Chớp thời cơ lịch sử, vào buổi chiều ngày 24/7/1945, dưới sự lãnh đạo của Tỉnh ủy, chi bộ Đảng và Ban Việt Minh huyện Hoằng Hóa đã tổ chức mít tinh lớn thắng lợi bắt sống tri phủ và tiến lên giải phóng phủ lỵ. Sau mít tinh, cuộc tuần hành có vũ trang của hàng ngàn quần chúng tiến về phủ lỵ giải phóng phủ đường. Uỷ ban dân tộc giải phóng được thành lập quản lý mọi công việc ở địa phương. Việt Minh mở cửa các nhà giam phóng thích các tù nhân và kêu gọi họ hãy đi theo con đường cách mạng để cùng đồng bào xây dựng cuộc sống mới. Cờ đỏ sao vàng đã được các đội tự vệ cắm trên các nóc công đường, báo hiệu cuộc khởi nghĩa của Việt Minh đã giành thắng lợi.

Sau khởi nghĩa giành thắng lợi, ngày 25.7.1945 dưới sự lãnh đạo của Tỉnh ủy, chi bộ Đảng và ban Việt Minh huyện đã tổ chức cuộc họp hội nghị cán bộ Việt Minh toàn huyện tại xã Hoằng Đạo để thành lập Ủy ban dân tộc giải phóng làm nhiệm vụ giải tán chính quyền còn lại ở các cơ sở và hoạt động ở các địa phương.

Địa danh Cồn Mã Nhón, Cồn Ba Cây đã đi vào tâm thức của người dân Hoằng Hóa, ghi nhớ về sự kiện sự kiện bắt sống viên tri phủ Phạm Trung Bảo và 12 lính Bảo An, mở đầu cuộc tiền khởi nghĩa từng phần - cuộc khởi nghĩa sớm nhất trong tỉnh và trong cả nước. Ngày 24/7/1945 trở thành ngày truyền thống của huyện Hoằng Hóa và là một dấu son không bao giờ phai mờ trong tâm thức của cán bộ và nhân dân Hoằng Hóa.

Đồng chí chủ tịch UBND xã Hoằng Đạo – Nguyễn Đình Hợp cho biết: Vinh dự là địa phương có địa danh diễn ra sự kiện cách mạng trọng đại của huyện Hoằng Hóa, đối với di tích Cồn Mã Nhón, trên diện tích 0,8ha, huyện Hoằng Hóa và xã Hoằng Đạo đã huy động nguồn lực để xây dựng toàn bộ khu di tích lịch sử cồn Mả với kinh phí hơn 7 tỷ đồng gồm có nhà truyền thống, nhà bia tưởng niệm 13 tự vệ trong cuộc chiến đấu đầu tiên với đội lính bảo an Nhật cùng hệ thống khuôn viên, cây xanh và các công trình khác. Hiện nay, khu di tích lịch sử này đã và đang được các thế hệ nhân dân bảo vệ, giữ gìn lưu lại những giá trị truyền thống của cha ông. Hàng năm xã đều tổ chức sinh hoạt văn hóa cho các cháu và ngày 24/7 trở thành ngày truyền thống của địa phương.

44.Nhà thờ Nguyễn Quỳnh ( còn gọi là Trạng Quỳnh ) ở thôn Hưng Tiến xã Hoằng Lộc, huyện Hoằng Hoá, Thanh Hoá, được công nhận là di tích cấp tỉnh năm 1989.

- Nhân vật thờ: Nguyễn Quỳnh (1677-1748) xuất thân trong một gia đình nho giáo, có truyền thống hiếu học tại làng Bột Thượng, nay là xã Hoằng Lộc, huyện Hoằng Hoá, Thanh Hoá. Năm 20 tuổi, ông đã đỗ đầu kỳ thi Hương đời vua Lê Dụ Tông. Vốn không có chí làm quan, nhưng với tài năng thơ phú và ứng đối xuất chúng, lại sẵn lòng bênh vực người nghèo, ghét cay ghét đắng bọn tham quan, ô lại, ông được dân gian yêu mến phong là Trạng.

Đền thờ uy nghiêm, khuôn viên sạch đẹp, thoáng mát, ngày nào cũng đông người đến tham quan, thắp hương tưởng niệm... Ngôi đền này được chính con cháu trong dòng họ cụ trông nom thờ cúng.

Năm 1992 đền thờ Trạng Quỳnh được công nhận là di tích văn hoá lịch sử cấp quốc gia. Cũng từ thời điểm đó, đền thờ được ngành văn hoá - thông tin, (nay là văn hoá - thể thao và du lịch) cùng các cấp chính quyền huyện, xã đã đề ra phương châm: Dòng họ và cộng đồng cùng tham gia bảo vệ, tôn tạo và phát huy giá trị của di tích.

Vào những ngày lễ hội mùng 1-10 âm lịch (ngày sinh) và ngày 28-1 âm lịch (ngày mất) của cụ Nguyễn Quỳnh, dòng họ đều phối hợp với các cơ quan chức năng tổ chức đón tiếp hàng vạn lượt khách thập phương về dâng hương tưởng niệm cụ Trạng Quỳnh.

Vào những ngày đại lễ, xã đều trực tiếp đứng ra chủ trì đón tiếp khách thập phương, tế lễ, giới thiệu thân thế sự nghiệp cụ Nguyễn Quỳnh. Đền thờ được dòng họ trông coi, nhưng những hoạt động liên quan như tổ chức lễ hội, trùng tu tôn tạo đền thờ... đều do các cấp chính quyền và các cơ quan chức năng quản lý, chỉ đạo.

Trong không gian linh thiêng thờ phật, chùa Trào âm còn thờ Tiên Thánh Cửu Thiên huyền nữ là hình tượng người phụ nữ có sức mạnh huyền diệu với sự bao dung của vô hạn, cứu khổ cứu nạn cho chúng sinh. Các vị nhân thần : Đức Ông, Đức Bà vọng bản thổ Phấn Đại Vương là những con người thực đã có những công đóng góp trong lịch sử địa phương, lịch sử đất nước mà tên tuổi của họ đã trở thành danh từ chung.Sự nghiệp của các vị thần này chính là lịch sử làm ăn và đánh giặc của cả cộng đồng dân tộc.

Hàng tháng đến ngày mùng một (ngày sóc), ngày mười lăm (ngày rằm) nhân dân đến chùa thắp nhang cúng phật và các vị thần.Từ ngày 10 đến ngày 15 tháng 3 âm lịch nhân dân trong xã và nhân dân trong vùng mở hội lớn đại lễ tại chùa.

Được xếp hạng di tích cấp tỉnh năm 2005. Từ cuối thế kỷ 16 nhà thờ được khởi dựng để thờ tướng quân Lương Trực, ông tổ của các chi họ Lương ở làng Phượng Lịch – xã Hoằng Lưu. Theo thời gian những người thuộc dòng họ có công với nước đều được thờ để tôn vinh sự nghiệp của dòng họ.

Từ đường họ Lương thờ phò mã tướng công Lương Trực và những người có công đóng góp, ghi dấu ấn trong lịch sử nước nhà. Xuất phát từ những đặc điểm lịch sử, cùng với trật tự thời gian, những nhân vật thờ được sắp xếp ở những vị trí trang trọng trong từ đường.

59. Đền thờ + mộ Nguyễn Hữu Hồ - xã Hoằng Yến: là di tích được xếp hạng cấp tỉnh năm 1992. Nguyễn Hữu Hồ (1731-1821) được phong là bậc phấn lực Đại tướng quân, hiệu là Lệnh tư tráng sĩ trật bách hộ. Có sắc phong ngày 10/5/1772 (Cảnh Hưng thứ 33).

60.Từ đường họ Phạm Khánh Ngọc - xã Hoằng Yến: được xếp hạng di tích cấp tỉnh năm 1994. Được biết ông Phạm Khánh Ngọc được phong Tướng thời Tiền Lê. Ông mất ngày 15 tháng giêng âm lịch.

61.Từ đường Lê Trọng - xã Hoằng Yến: xếp hạng di tích cấp tỉnh 2000. Thế kỷ XVI, đời vua Lê Cảnh Hưng giữ thiên hộ chức. được phong: Kiệt kiệt Trung Tướng Quân.

  1. Đền thờ & lăng mộ Tướng quân Đại Vương Lê Trung Giang: thuộc làng Hồng Đô, xã Hoằng Ngọc - huyện Hoằng Hoá, tỉnh Thanh Hoá. Di tích được công nhận là di tích cấp tỉnh năm 1993.

Thờ Tướng công Lê Trung Giang là người mở nghiệp cho gia đình, dòng họ, được vua giao trọng trách: “Uy vũ Công thần, Đặc tiến Phụ quốc Thượng tướng quân Đô đốc, Tĩnh quận công” theo lịch sử được các triều đình phong kiến từ Cảnh Hưng đến Thành Thái ban tặng 13 đạo sắc, có sắc phong “Khai quốc công thần Thành Hoàng Đô Thống Linh ứng Hùng khẩu tối linh Thượng đăng thần”. Tướng công Lê Trung Giang là một chiến tướng dưới thời Lê Trung Hưng. Ông làm quan trải qua 4 triều vua, phục vụ 66 năm trong triều đình và rất được ân sủng ban tới 13 đạo sắc, sắc phong. Nhớ công ơn đánh giặc, giữ yên bờ cõi, bồi đắp vùng đất biển hoang sơ thành vùng dân cư đông đúc, trù phú người dân nơi đây tôn ông làm thành hoàng làng và lập đền thờ phụng.

Di tích Đại Vương Lê Trung Giang dựng đến nay vừa tròn 10 năm, toạ lạc trên diện tích gần 10.000m2 và có tên gọi đầy đủ là khu “Quần thể văn hoá và di tích lịch sử Tướng công Đại vương Lê Trung Giang”, được chính quyền tỉnh Thanh Hoá và tổ chức UNESCO công nhận. Đây là kỳ tích có một không hai ở Hoằng Hoá nói riêng và Thanh Hoá nói chung.

Lúc trước Lăng mộ Tướng công Lê Trung Giang nằm trên một khu đất trống lầy lội. Sau này xã Hoằng Ngọc đã cấp cho di tích gần 10.000m2 đất. Bắt đầu từ khu lăng mộ Tướng công Lê Trung Giang anh khu di tích đã phác hoạ thành quần thể văn hoá, di tích lịch sử dưới con mắt của “ Tổng công trình sư”. Quần thể được phối cảnh khá đẹp mắt như một bức tranh hoàn hảo với một không gian tâm linh của tiên cảnh bồng lai…Đền thờ chính có hàng trăm pho tượng sơn son thếp vàng, toạ lạc trên các bệ thờ trang nghiêm. Nổi bật hơn cả là các vị nhân thần Lê Phụng Hiểu (đời Lý), Trần Hưng Đạo (đời Trần) và Lê Trung Giang (đời Lê)…

Phía tả, hữu có điện thờ Vua Lê Thái Tổ, điện thờ Trần Nhân Tông với nhiều cổ vật giá trị và hàng ngàn tài liệu, sách vở quý hiếm phục vụ khách tham quan, phục vụ thế hệ trẻ tìm hiểu về các triều Vua. Phía đối diện đền thờ được xây dựng tháp Bảo Minh Quang Thắng, 11 tầng. Đường lên tháp được tạo bởi toàn thân một con rồng có đường kính gần 2m.

Trong quần thể khu di tích lịch sử còn có ngôi Tam Bảo, nhà cổ vật, nhà văn hoá, nhà bảo tàng, hồ bán nguyệt, các tiểu lồng, khu vui chơi và có các động Sơn Trang, động Sơn thần, động Diêm Vương, mô tả, bài trí nhiều cảnh vật sinh động. Nhà văn hoá là khu sinh hoạt văn hoá văn nghệ, học tập, vui chơi giải trí do câu lạc bộ Trần Nhân Tông của địa phương quản lý. Nơi đây đã diễn ra nhiều chương trình văn hoá, văn nghệ thu hút hàng ngàn người tham gia. Nhiều đoàn nghệ thuật đã về đây trình diễn các tiết mục đặc sắc phục vụ bà con, phục vụ lễ hội.

Gần đây niềm vui lớn đến với khu Văn hoá và di tích lịch sử tướng công Đại vương Lê Trung Giang được tổ chức Văn hoá khoa học và Giáo dục UNESCO Việt Nam công nhận ra quyết định bảo trợ quần thể văn hoá và di tích lịch sử.

-Chùa Hồi Long là nơi thờ Phật, được xây dựng từ thế kỷ XI dưới thời vua Lý Công Uẩn. Trải qua bao thăng trầm lịch sử, chùa không còn giữ được nét nguyên sơ ban đầu. Hiện nay việc trùng tu lại cảnh quan, kiến trúc ngôi chùa đang được tiến hành. Bằng tấm lòng hảo tâm công đức của tăng ni, phật tử và bà con khắp mọi nơi tham gia đóng góp sức người, sức của, chùa Hồi Long đang được khẩn trương phục dựng.

Chùa Hồi Long tọa lạc tại Làng Lương Hà tổng Ngọc Chuế nay là xã Hoằng Thanh, huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa là một ngồi chùa cổ có từ thời nhà Lý. Trải qua bao thăng trầm biến thiên của thời gian và lịch sử, đã làm cho cảnh cũ chùa xưa không còn. Năm 1996, Hội người cao tuổi xã Hoằng Thanh đã làm tờ trình lên UBND huyện Hoằng Hóa xin được phục dựng. Năm 1998, ngôi Chùa nhỏ được được xây dựng để đáp ứng nhu cầu sinh hoạt tín ngưỡng, tâm linh của bà con nhân dân địa phương. Ngôi Chùa nhỏ ngày một đông Phật tử, nhân dân tới dâng hương, và chính thức đến tháng 11 năm 2008 mới có sư về trụ trì.

Trước những yêu cầu cấp bách về tu học và phục vụ tín ngưỡng tâm linh cho bà con nhân dân, tín đồ Phật tử trong và ngoài tỉnh. Được sự quan tâm của các cấp chính quyền, ngày 12/10/2009 UBND tỉnh Thanh Hóa ra quyết định 3563 về việc giao đất và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho chùa Hồi Long tại xã Hoằng Thanh, Hoằng Hóa để thực hiện dự án bảo tồn, tôn tạo di tích chùa Hồi Long.

Được quy hoạch trên diện tích 1,4 ha, chùa thiết kế theo hình chữ Công, gồm có 3 khu: Khu tâm linh, khu từ thiện và khu dưỡng lão. Khu tâm linh được xem là khu trung tâm gồm tam bảo được hợp thành bởi 3 gian hậu cung, trung đường, tiền đường và 2 trái, hành lang lan can đá theo kiến trúc cung đình. Sau tam bảo là giảng đường và nhà thờ tổ, bên phải là nhà mẫu, lầu trống, điện hộ pháp; bên trái là nhà tứ ân, lầu chuông, điện hộ Pháp. Toà tam bảo được dựng lên bởi 32 cây cột gỗ dài và 48 cột đá. Nền chùa được tôn cao 1,8m, mái chùa cao thoáng, màu sơn vàng - nâu là chủ đạo cộng với lối đắp vẽ mái đao rồng, phượng cầu kỳ góp phần tạo nên một quần thể kiến trúc đẹp mắt, có sự kết hợp nhuần nhị giữa văn hóa nhiều vùng, miền. Phía trong chùa 11 pho tượng lớn nhỏ được làm từ gỗ hoặc đồng, lớn nhất là tượng Phật Di Đà cao 3,3m.

Ngoài khu tâm linh đã cơ bản hoàn tất, các khu từ thiện và dưỡng lão dự kiến sẽ được xây dựng nhằm mục đích nuôi dưỡng trẻ mồ côi, người tàn tật, người già neo đơn kèm theo hệ thống khám, chữa bệnh cho người nghèo ngay tại chùa. Và tổng kinh phí đầu tư xây dựng giai đoạn 1 là 32.710.000.000 VND (ba mươi hai tỷ bảy trăm mười triệu đồng). Khi hoàn thành, chùa Hồi Long không chỉ là nơi lui tới, tu dưỡng tinh thần của tăng ni, phật tử, hơn thế gắn với biển Hải Tiến, chùa sẽ là một điểm du lịch vệ tinh lý tưởng bên cạnh những DTLSVH khác.

2. Phủ Vàng - xã Hoằng Khánh.

Được xây dựng từ thế kỷ 18, tọa lạc trên Núi Chùa ( làng Vàng ) xã Hoằng Khánh, huyện Hoằng Hóa.

Phủ Vàng thờ đệ nhất Thánh mẫu Liễu Hạnh, một vị Nữ thần duy nhất trong bốn vị thần “Tứ bất tử” của Việt Nam. Truyền thuyết để lại: Khi Nguyễn Huệ kéo quân ra Bắc dẹp giặc Thanh, tới Phủ Vàng cho dừng quân nghỉ ngơi và vào Phủ dâng hương kính lễ, được Thánh Mẫu báo mộng bày kế sách đánh giặc, trận chiến đó đã thắng lợi vang dội, khi lên ngôi vua Quang Trung đã tri ân thánh Mẫu và ban sắc phong cho ngài là: “Chế thắng bảo hòa diệu Đại vương - Đệ nhất thánh Mẫu”.

Phủ Vàng có 2 cổng tam quan: cổng nội và cổng ngoại, hai bên có 2 Hộ pháp oai vệ, lối lên tòa bái đường phải đi qua 100 bậc đá, cấu trúc của tòa bái đường đồ sộ với 2 tầng, tám mái theo kiểu chồng diêm …

  1. Tượng đài lão quân Hoằng Trường: thuộc khu vục thôn 3 xã Hoằng Trường, huyện Hoằng Hóa.

Đây là công trình tưởng niệm chiến công của các cụ lão dân quân Hoằng Trường huyện Hoằng Hóa, đã được nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Trong cuộc kháng chiến chống mỹ các cụ đã dùng súng bộ binh bắn rơi máy bay Mỹ.

Ở Thanh Hóa có bao nhiêu di tích lịch sử?

Thanh Hóa là vùng đất giàu truyền thống văn hóa, lịch sử lâu đời với số lượng di sản văn hóa vật thể và phi vật thể lớn, gồm hơn 1535 di tích di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh đã được xếp hạng và kiểm kê bảo vệ.nullThanh Hóa phát huy giá trị di sản gắn với phát triển du lịchtruyenhinhthanhhoa.vn › thanh-hoa-phat-huy-gia-tri-di-san-gan-voi-phat-t...null

Nghệ An có bao nhiêu di tích quốc gia đặc biệt?

Đặc biệt có 04 di tích được công nhận là di tích quốc gia đặc biệt (Khu di tích lịch sử văn hóa Kim Liên, Khu lưu niệm Phan Bội Châu, Di tích cột mốc Km số 0 đường Hồ Chí Minh, Di tích Đình Hoành Sơn).nullTiềm năng du lịch của tỉnh Nghệ Annghean.dcs.vn › vi-vn › tin › tiem-nang-du-lich-cua-tinh-nghe-annull

Khu di tích Lam Kinh ở đâu?

Khu di tích lịch sử Lam Kinh cách thành phố Thanh Hóa 50 km về phía Tây Bắc, nằm trên địa bàn thị trấn Lam Sơn, huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa. Đây là một di tích lịch sử quốc gia cấp từ năm 1962.nullLam Kinh – Wikipedia tiếng Việtvi.wikipedia.org › wiki › Lam_Kinhnull

Đền Bà Triệu thờ ai?

Đền Bà Triệu được vua Lý Nam Đế xây dựng vào thế kỷ VI. Công trình là nơi tưởng nhớ Bà Triệu Thị Trinh - vị nữ tướng anh hùng có công lao trong cuộc khởi nghĩa năm 248 chống quân Ngô xâm lược. Dưới thời vua Minh Mạng (thế kỷ XVIII), công trình này được chuyển tới vị trí hiện tại và giữ nguyên cho tới bây giờ.nullĐền Bà Triệu Thanh Hóa – 2000 năm linh thiêng, cổ kính - Vinpearlvinpearl.com › den-ba-trieu-thanh-hoa-den-tho-nu-tuong-trieu-thi-trinh-ga...null