Chế độ chính trị của Anh là gì
Mục lục Show
Hệ thống chính phủ Vương quốc AnhNữ hoàng Anh Elizabeth IILiên hiệp Vương quốc Anh và Bắc Ireland là một trong số ít quốc gia trên thế giới hiện nay không có một hiến pháp đã được hệ thống hóa, thay vào đó họ sử dụng các luật lệ truyền thống và các đoạn luật hiến pháp rời rạc. Tuy người đứng đầu hoàng gia vẫn là nguyên thủ quốc gia và trên lý thuyết nắm mọi quyền hành pháp, nhưng chính thủ tướng là lãnh đạo chính phủ. Chính phủ chịu trách nhiệm chính trước Hạ viện, và theo quy định của thỏa ước hiến pháp, cơ quan này có trách nhiệm bầu ra thủ tướng. Đa số các thành viên nội các thuộcHạ viện, số còn lại thuộc Thượng viện. Tuy nhiên, các bộ trưởng không bắt buộc phải là thành viên Nghị viện, dù theo tục lệ hiện nay các bộ trưởng đều là thành viên Nghị viện. Hệ thống chính phủ Anh được áp dụng ở nhiều nơi trên thế giới – một di sản từ thời quá khứ thực dân — chủ yếu tại các quốc gia trong Khối Thịnh vượng chung Anh. Thành viên Nghị viện (Member of Parliement) chiếm đa số trong Hạ viện thường là phái có quyền chỉ định thủ tướng – thường là lãnh đạo của đảng lớn nhất hay, nếu không có đảng nào chiếm đa số, là liên minh lớn nhất. Thủ tướng hiện nay là David Cameron, thành viên của Đảng Lao động, đã lên nắm quyền vào tháng 6 năm 2007. Tại vương quốc Anh, hoàng gia trên lý thuyết nắm nhiều quyền lực rộng rãi, nhưng vai trò chính thức của Vua/Nữ hoàng, chủ yếu chỉ là về mặt nghi lễ. Hoàng gia là một phần không thể tách rời của Nghị viện (như “Crown-in-Parliament”) và trên lý thuyết trao cho Nghị viện quyền nhóm họp và soạn thảo luật. Một Điều luật Nghị viện không thể trở thành luật cho tới khi nó được hoàng gia ký phê chuẩn (được gọi là Phê chuẩn của Hoàng gia), dù không một điều luật nào của Nghị viện từng bị hoàng gia bác bỏ từ thời Nữ hoàng Anne năm 1708. Dù đã có ý kiến về việc bãi bỏ hoàng gia, uy tín của họ trong lòng dân chúng Anh vẫn còn rất lớn. Số người ủng hộ một Nhà nước Anh cộng hòa thường thay đổi trong khoảng 15% tới 25% dân số, với khoảng 10% chưa quyết định hay không quan tâm. Người đứng đầu hoàng gia hiện là Nữ hoàng Elizabeth II; bà lên kế vị ngôi năm 1952 và chính thức trở thành Nữ hoàng năm 1953. Nghị viện là cơ quan lập pháp của Liên hiệp Vương quốc Anh và Bắc Ireland. Đây là cơ quan lập pháp duy nhất của Vương quốc, theo học thuyết chủ quyền tối cao nghị viện (tuy nhiên, những câu hỏi về vấn đề chủ quyền tối cao cũng đã được đặt ra vì vấn đề gia nhập Liên minh Châu Âu). Nghị viện Anh theo chế độ lưỡng viện, gồm Hạ viện do bầu cử và Thượng viện, với đa số thành viên được chỉ định. Hạ viện có quyền lực cao hơn. 646 thành viên Hạ viện được bầu cử trực tiếp từ những khu vực bầu cử với chỉ duy nhất một người được trúng cử. Khu vực bầu cử được quy định theo số dân. Thượng viện có 724 thành viên (dù con số này không cố định), gồm những quý tộc thừa kế (Ghi chú: Đạo luật Thượng viện 1999 đã bãi bỏ quyền thừa kế quý tộc và chỉ cho phép giữ lại 92 ghế như vậy), quý tộc trọn đời và các giám mục của Nhà thờ Anh. Nhà thờ Anh là nhà thờ tại Anh và đã được nhà nước công nhận. Cung điện Westminster, trên bờ sông Thames, London, là trụ sở Nghị viện Anh Khái quát về chế độ chính trị và tổ chức bộ máy nhà nước vương quốc anh
Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (215.79 KB, 31 trang ) Mục lục d, Đánh giá, đề bạt e, Chế độ lương bổng g, Kỷ luật 4. Tài chính công IV- Nhận xét đánh giá và bài học kinh nghiệm V- Kết luận TÀI LIỆU THAM KHẢO I – Giới thiệu tổng quan về vương quốc Anh 1. Đặc điểm địa lý, lịch sử Vương quốc Anh là một quốc gia nằm ở phía Tây châu Âu, bao gồm các quần đảo phía bắc đảo Ailen nằm giữa Bắc Đại Tây Dương và biển Bắc. Tọa độ địa lý: 540Bắc, 20Tây Liên hiệp Vương quốc Anh được hình thành bởi Đại công quốc Anh (Great Britain) – nước Anh, Xứ Uên (Wales), Xcốtlen (Scotland) – và Bắc Ailen (Northern Ireland). Thủ đô của những vùng này là: Nước Anh: Luân Đôn (London) Xcốtlen: Ê-đin-bớt (Edinburgh) Xứ Uên: Cu-đíp-phờ (Curdiff) Bắc Ailen: Ben-phát (belfast) Anh đã tồn tại một thể chế thống nhất từ thế kỷ thứ 10. Sự thống nhất giữa Anh và xứ Uên bắt đầu từ năm 1284 với đạo luật Rhuddlan, đến năm 1536 được chính thức hoá với Đạo luật thống nhất. Trong một Đạo luật thống nhất khác năm 1707, Anh và Xcốtlen thống nhất hợp nhất vĩnh viễn thành đảo Anh. Hợp nhất về mặt pháp lý giữa đảo Anh và Ailen được thực hiện vào năm 1801 và thông qua tên Liên hiệp Vương quốc Anh. Hiệp ước Anglo - Irish năm 1921 chính thức công nhận một phần của Ailen; 6 tỉnh phía bắc của Ailen trở thành một phần của Vương quốc Anh và gọi là Bắc Ailen. Năm 1927 tên Vương quốc Anh được thông qua. Nước Anh (Great Britain), nền kinh tế công nghiệp và hàng hải thống trị của thế kỷ 19, đóng vai trò hàng đầu trong phát triển nền dân chủ nghị viện và trong việc thúc đẩy sự tiến bộ của văn học và khoa học. Thời kỳ hoàng kim, Đế quốc Anh chiếm lĩnh hơn một phần tư bề mặt trái đất. Nửa đầu thế kỷ 20, sức mạnh của nền quân chủ này giảm trong hai cuộc chiến tranh thế giới. Nửa sau chứng kiến sự tàn lụi của đế quốc Anh và Vương quốc Anh tái xây dựng thành một nước châu Âu hiện đại và giàu có. Là một trong năm quốc gia thành viên của Uỷ ban an ninh Liên hợp quốc, một thành viên sáng lập của NATO, và thuộc khối thịnh vượng chung, Anh theo đuổi cách tiếp cận toàn cầu đối với chính sách ngoại giao; nước này hiện đang tăng cường hội nhập với lục địa châu Âu. Là một thành viên của EU, nước này vẫn đang nằm ngoài khu vực tiền tệ và kinh tế chung. Sự cải cách hiến pháp cũng là một vấn đề quan trọng ở Anh. Nghị viện Xcốtlen, Quốc hội xứ Uên và quốc hội Bắc Ailen được thiết lập năm 1999. 2. Diện tích, dân số và trình độ phát triển kinh tế a,Diện tích:+ đất liền: 241.5900km2 + biển: 3,230km2 b,Dân số: Dân số của Vương quốc Anh tính đến giữa năm 2006 là khoảng 60,6 triệu người. Trong đó: dân số nước Anh là 50.762.900 người, xứ Uên là 2.965.000 người, Xcotlen là 5.116.900, và Bắc Ailen là 1.741.600 người. Số liệu điều tra năm 2009: 61.113.205 người Mật độ dân số: 246.5 người/km2 Lực lượng lao động: 29,7 triệu người (nông nghiệp: 1%, công nghiệp: 25%, dịch vụ: 74%). Tỷ lệ biết chữ: 99% c, Trình độ phát triển kinh tế Vương quốc Anh là một cường quốc dẫn đầu về thương mại và tài chính. Thành phố Luân-đôn là một trong những thị trường tài chính hàng đầu thế giới.Trong hai thập kỷ qua Chính phủ đã giảm nhiều quyền sở hữu và theo đuổi sự phát triển của các chương trình phúc lợi xã hội. Nông nghiệp được chuyên sâu, cơ khí hóa cao và hiệu quả theo tiêu chuẩn Châu âu. Sản xuất 60% nhu cầu thực phẩm chỉ với 1% lực lượng lao động. Anh có nguồn than, khí ga tự nhiên và dự trữ dầu lớn; sản lượng năng lượng chiếm khoảng 10% GDP, một tỷ lệ đóng góp cao nhất so với bất cứ nước công nghiệp nào. Dịch vụ, đặc biệt ngân hàng, bảo hiểm và dịch vụ kinh doanh, chiếm tỷ lệ đóng góp lớn nhất trong GDP, trong khi công nghiệp tiếp tục giảm tầm quan trọng. Nền kinh tế tăng trưởng cao. Đồng tiền của Vương quốc Anh là đồng Bảng. Thống kê GDP (2006) Tăng trưởng GDP (2006) GDP theo đầu người 2.100 tỉ USD 2,75% 35.051$ (2006) GDP theo lĩnh vực (2006) Nông nghiệp (1%), công nghiệp (26%), dịch vụ Tỉ lệ lạm phát (2006) Lực lượng lao động (2006) Lực lượng lao động theo (73%) 2,3% 31 triệu Dịch vụ (81%), công nghiệp (18%), nông nghiệp ngành (1%) Tỷ lệ thất nghiệp (2007) Các nghành công nghiệp 5,4% Dụng cụ cơ khí,trang thiết bị công nghiệp, thiết bị chính khoa học, máy bay, xe motor, và các bộ phận điện tử, máy tính, chế biến kim loại, sản xuất hóa chất, khai thác than, dầu,giấy, chế biến thức ăn, sợi, quần áo, các Xuất khẩu Nhập khẩu mặt hàng tiêu dùng khác 470 tỉ USD 600 tỉ USD II – Khái quát về chế độ chính trị và tổ chức bộ máy nhà nước Vương quốc Anh 1. Chế độ chính trị Chính trị Vương quốc Anh là một nền dân chủ nghị viện, vận hành theo chế độ quân chủ lập hiến.Nữ hoàng là nguyên thủ quốc gia, còn thủ tướng do Nữ hoàng bổ nhiệm.Thủ tướng đảm nhiệm vị trí đứng đầu Chính phủ. Đây là hệ thống chính trị đa nguyên với sự ủy thác một phần quyền lực cho xứ Xcốtlen, xứ Uên, và bắc Ailen. Chế độ quân chủ là thiết chế lâu đời nhất trong hệ thống chính quyền ở Vương quốc Anh(có lịch sử hang nghìn năm). Về các đảng phái chính trị: Ở Vương quốc Anh có 3 chính Đảng chính, gồm Công Đảng – hiện nay đang cầm quyền, Đảng Bảo Thủ và Đảng Dân chủ tự do. Một số đảng phái chính trị nhỏ khác cũng có đại diện trong nghị viện Vương quốc Anh và châu Âu, và trong các cơ quan chính quyền phân cấp ở Xcotlen, xứ Uên và Bắc Ailen. Có một số Đảng theo đường lối dân tộc chủ nghĩa ở Xcotlen Đảng dân tộc Xcotlen và ở xứ Uên – Đảng Plaid Cymru. 2. Tổ chức bộ máy nhà nước a, Sơ đồ bộ máy nhà nước Hoàng gia (Vua-Nữ hoàng) Cơ quan lập pháp (Nghị viện) Thượng viện Hạ viện Cơ quan hành pháp ( Chính phủ) Nội các Các Bộ Chính quyền địa phương b, Nữ hoàng Cơ quan tư pháp (Tòa án) Tòa TƯ Tòa ĐP Nguyên thủ quốc gia (Vua hoặc Nữ hoàng) được thiết lập theo nguyên tắc thế tập (truyền ngôi), có quyền lực rất hạn chế. Nguyên thủ quốc gia Vương quốc Anh hiện nay là Nữ hoàng (Nữ hoàng Elizabeth II) - tượng trưng cho sự thống nhất và vững bền của dân tộc, đại diện cho quốc gia. Nữ hoàng là người đứng đầu cơ quan lập pháp và hành pháp, là tổng chỉ huy lực lượng vũ trang, được trao khá nhiều quyền lực, như ký kết các điều ước quốc tế, bổ nhiệm Thủ tướng và các bộ trưởng, các thẩm phán của Tòa án, bổ nhiệm các chức vụ nhà nước và tôn giáo, ra lệnh ân xá, triệu tập Nghị viện, giải tán Nghị viện; đại diện cho nước Anh trong quan hệ quốc tế, nhưng trên thực tế quyền lực đó mang đậm tính chất hình thức. Chẳng hạn, Nữ hoàng được quyền bổ nhiệm Thủ tướng chính phủ nhưng người đó không thể ai khác là thủ lĩnh của đảng chiếm đa số ghế trong Nghị viện. Hoặc bổ nhiệm các thẩm phán theo đề nghị của Thủ tướng hoặc chủ tịch Thượng nghị viện. b, Hệ thống cơ quan lập pháp - Cơ quan lập pháp là Nghị viện. Người đứng đầu Nghị viện là Nữ hoàng Anh. Nữ hoàng Anh có quyền giải tán Nghị viện nếu Thủ tướng đề nghị. Cung điện Westminster, trụ sở Nghị viện Anh - Nghị viện Anh bao gồm hai viện: Thượng nghị viện và Hạ nghị viện. + Thượng nghị viện gồm 1.200 thành viên không bầu cử. Thượng viện có hai loại thượng nghị sĩ: các huân tước tinh thần và các huân tước thế tục.Khác các Nghị viên của Hạ viện, các Thượng nghị sĩ được chỉ định suốt đời và không đại diện cho một đảng phái nào. Chức năng lập pháp chính của Thượng viện là nghiên cứu và xem xét các dự thảo luật của Hạ viện. Thượng viện đóng vai trò là tòa phúc thẩm cao nhất. Thông thường Thượng viện không có quyền ngăn cản các dự luật trở thành luật chính thức nếu Hạ viện nhất quyết bảo lưu ý kiến. + Hạ viện bao gồm 659 thành viên được bầu bằng tuyển cử phổ thông đầu phiếu, gọi là các Nghị sỹ, nhiệm kỳ 5 năm có quyền lực lớn hơn Thượng viện rất nhiều. Ở Anh, khi nói tới “Nghị viện” thì điều đó thường đồng nghĩa với Hạ viện. Cuộc tổng tuyển cử vào Hạ viện không chỉ đơn thuần là chọn lựa ra những người sẽ tham gia tranh luận tại Nghị viện mà đó là còn là thiết chế quyết định xem đảng phái nào là đảng cầm quyền. Đảng phái nào chiếm đa số ghế tại Hạ viện sẽ có quyền đề cử những người lãnh đạo ra nắm Chính phủ. Vai trò của Thượng viện chỉ là phúc quyết các dự luật đã được Hạ viện thông qua và chỉ có quyền trì hoãn việc ban hành một số dự luật nhất định. - Nghị viện có quyền xây dựng luật mới, thay thế các luật hiện hành, chuyển các hiệp ước thành luật, hay bãi bỏ các hiệp ước đã có. Nghị viện cũng là cơ quan duy nhất có quyền kiểm soát hoạt động của ngành hành pháp và nền hành chính: Tất cả các bộ trưởng đều chịu trách nhiệm tập thể trước Nghị viện về tổng thể chính sách của Chính phủ, và từng Bộ trưởng phải chịu trách nhiệm cá nhân về công việc nội bộ của mình. Các bộ trưởng thuộc Nội các có thể bị bãi nhiệm nếu hoạt động của họ không được Nghị viên tán thành. - Các dự luật quan trọng do Chính phủ chuẩn bị và trình Nghị viện. Sau khi đã được cả hai viện nhất trí, dự luật được trình lên Nữ hoàng phê chuẩn thông qua thành luật. c, Hệ thống cơ quan hành pháp Cơ quan hành pháp là Chính phủ. Chính phủ thực thi quyền lực của mình trên cơ sở các đạo luật do Nghị viện ban hành. Mọi sự thực thi quyền hành pháp của Chính phủ, Thủ tướng và các bộ trưởng phải tuân theo nguyên tắc “Hành chính phải hợp pháp”; có nghĩa là nó phải phù hợp với các đạo luật do Nghị viện ban hành và các án lệ với tính chất là các luật bất thành văn. Chính phủ thực hiện chức năng hành pháp – quản lí, điều hành mọi mặt của đời sống xã hội. Ở các thẩm quyền cụ thể, Chính phủ đưa ra các sáng kiến lập pháp, định hướng hoạt động của Nghị viện; lãnh đạo chung về các công việc đối ngoại, bảo đảm an ninh quốc gia, tiến hành đàm phán và ký kết các điều ước quốc tế trước khi trình Nghị viện phê chuẩn các điều ước đó. Bên cạnh đó, Chính phủ cũng chịu trách nhiệm giải quyết và thực hiện các chính sách nhà nước trong lĩnh vực kinh tế,văn hóa, giáo dục, khoa học kỹ thuật, chính sách xã hội. Chính phủ Anh Quốc bao gồm các bộ ngành, đứng đầu là Bộ trưởng, thường cũng là thành viên Nội các. Các quyết định của Bộ trưởng được thực thi bởi một bộ máy thường trực, trung lập về khuynh hướng chính trị , gọi là cơ chế dịch vụ công. Dưới các bộ là các chính quyền địa phương. d, Hệ thống cơ quan Tư pháp Cơ quan tư pháp là hệ thống tòa án – các cơ quan độc lập trong cơ chế quyền lực nhà nước, thực hiện chức năng xét xử. Hệ thống tòa án được chia thành Tòa án Trung ương và các tòa án địa phương. Đặc trưng nhất của hệ thống tòa án Anh quốc là không chia thành các tòa án hình sự, tòa án dân sự, tòa án hành chính. Các tòa địa phương gồm có: Tòa hòa giải; Tòa án vùng (quận) và các Tòa án khác.Tòa án trung ương: là Tòa án tối cao được thành lập vào năm 1873. Hiện nay tòa án này được tổ chức và hoạt động theo luật về tòa án tối cao năm 1925 và năm 1970. Tòa án này được chia thành 3 bộ phận: Tòa kháng án, Tòa nhà vua và Tòa tối cao. Ở Anh không có hệ thống các cơ quan công tố. Thay vào đó là hệ thống các luật sư phát triển, đặt dưới sự lãnh đạo của ông Tổng chưởng lý. Cơ quan xét xử cao nhất là Thượng nghị viện, đóng vai trò là Tòa Phúc thẩm tối cao. Nó không xét xử sơ thẩm mà chỉ xem xét các bản án, quyết định của tất cả các tòa án bị kháng án. Thượng nghị viện cũng là cơ quan xét xử các quan chức cao cấp của nhà nước từ hàm Bộ trưởng đến Thủ tướng và cả nhà Vua. Tất cả các tòa án ở Anh đều đặt dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Thượng nghị viện – là Chánh án Tòa án cao cấp. Các thẩm phán của Tòa án tối cao Anh đều do nhà vua bổ nhiệm theo đề nghị của Thủ tướng chinh phủ hoặc của Chủ tịch Thượng nghị viện. III – Giới thiệu về nền hành chính Vương quốc Anh Nói đến nước Anh là nói đến một nước có đời sống văn hóa và di sản nghệ thuật hết sức phong phú và đa dạng, Vương quốc Anh là quê hương sản sinh ra một cộng đồng các nhà khoa học và công nghệ tài năng và giàu sức sáng tạo... Anh còn là nước có lịch sử nền hành chính lâu đời nhất, được rất nhiều quốc gia trên thế giới học hỏi thành công. 1. Thể chế nhà nước Vương quốc Anh là nước theo hình thức chính thể quân chủ lập hiến có Hiến pháp không thành văn, song có các bộ luật mang tính hiến pháp. Tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước theo nguyên tắc tam quyền phân lập. Các văn kiện mang tính hiến pháp có tính Huy hiệu chính quyền Anh quan trọng nhất định bao gồm: Đại hiến chương Vương quốc Anh ( the Magna Corta - 1215) bảo vệ quyền công dân trước nhà vua; đạo luật về nhân quyền ( the Bill of Rights - 1698) quy định quyền hạn của Nghị viện; và đạo luật cải cách (Reform Act - 1832) quy định về việc cải cách hệ thống cơ quan trực thuộc Nghị viện. Luật chung (Common law)(tập quán pháp và tiền lệ pháp). Ước lệ là các quy tắc xử sự không mang tính bắt buộc, nhưng lại không thể thiếu trong hoạt động của cơ quan hành pháp. 2. Tổ chức bộ máy hành chính a, Cơ cấu hành chính theo lãnh thổ Vương quốc Anh gồm 47 hạt, 7 hạt thuộc thủ đô; 26 quận, 9 vùng; 3 khu vực đảo. Trong đó: + Anh: 39 tỉnh và 7 tỉnh thành. + Bắc Ailen: 26 quận. + Xcốtlen: 9 vùng và 3 khu vực đảo. + Xứ Uên: 8 tỉnh. b, Tổ chức bộ máy hành chính Bộ máy hành chính của Anh: Chính phủ là cơ quan hành pháp cao nhất, đứng đầu là Thủ tướng chính phủ. Trong Chính phủ có một cơ quan gọi là Nội các-bao gồm Thủ tướng và Bộ trưởng của một số bộ quan trọng, quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước. Ngoài ra còn có các Bộ và chính quyên địa phương. b.1: Chính phủ Chính phủ thực thi quyền lực của mình trên cơ sở các đạo luật do Nghị viện ban hành. Thông thường Chính phủ được thành lập sau mỗi cuộc bầu cử Quốc hội (Nghị viện). Nữ hoàng Anh quyết định người đứng đầu Chính phủ-Thủ tướng. Theo đề nghị của thủ tướng, Nữ hoàng Anh bổ nhiệm những thành viên còn lại của Nội các và của toàn bộ Chính phủ. Trong cơ cấu của quyền hành pháp, Chính phủ chiếm một vị trí đặc biệt. Chính phủ Anh có một cơ quan gọi là “Nội các”, gồm có Thủ tướng và một số Bộ trưởng của các bộ quan trọng. Chính phủ và nội các không đồng nghĩa với nhau, Chính phủ bao gồm tất cả các Bộ trưởng, trong khi Nội các chỉ bao gồm một số Bộ trưởng có ảnh hưởng quan trọng đối với đời sống chính trị quốc gia. b.2:Thủ tướng chính phủ - Thủ tướng Anh đóng vai trò chủ đạo trong nội các và chính phủ, trực tiếp lãnh đạo hoạt động của các cơ quan đó, ngoài ra Thủ tướng còn lãnh đạo các bộ trọng yếu và các cơ quan ngang bộ. Thủ tướng Anh là cố vấn chính của Nữ hoàng và đảm nhiệm chức năng đại diện nhà nước trong quan hệ quốc tế. Thủ tướng quy định phạm vi những vấn đề thuộc thẩm quyền giải quyết của Nội các chính phủ, xác định đường lối chính sách, chiến lược chung, lãnh đạo công việc của các ủy ban thường trực đệ trình lên Nữ hoàng thành Gordon-Brown, Thủ tướng đương nhiệm phần của Nội các để Nữ hoàng bổ nhiệm, quyết định thải hồi các Bộ trưởng, quyết định việc giải tán chính phủ, chỉ đạo hoạt động sáng kiến lập pháp của Nội các. Thủ tướng có quyền can thiệp vào bất cứ lĩnh vực nào thuộc quản lí Nhà nước. Thực tế cho thấy Thủ tướng đóng vai trò chủ đạo trong hoạch định chính sách các lĩnh vực đối ngoại, kinh tế và những lĩnh vực quan trọng khác của đời sống đất nước. - Thay mặt Nữ hoàng, Thủ tướng thực hiện một số quyền hạn: bổ nhiệm một số quan chức cao cấp của Nhà nước, triệu tập và giải tán Quốc hội, tuyên bố chiến tranh và ký kết hòa bình. - Để đảm bảo cho hoạt động của mình có hiệu quả, Thủ tướng sử dụng ban thư kí riêng. Ban thư kí riêng của Thủ tướng có thành phần không cố định và thường xuyên được đổi mới, đó là những chuyên viên dân sự cao cấp, chức năng của ban thư kí là đảm bảo mối liên hệ giữa Thủ tướng với các thành viên Nội các, với các bộ, các cơ quan ngang bộ, chuẩn bị dữ liệu thông tin, thống kê phân tích. Trong ban thư kí riêng có chức danh thư kí về liên lạc với nhiệm vụ của thư kí này là thông tin cho công chúng các chính sách, đường lối của chính phủ, gặp gỡ nhà báo, tổ chức họp báo vv… - Thủ tướng đương nhiệm của Anh hiện nay là ông Gordon Brown-từ ngày 27 tháng 6 năm 2007 b.3: Nội các Nội các là hạt nhân lãnh đạo của Chính phủ Anh, quyết định mọi quyết sách quan trọng; các cơ quan bạo lực như quân đội, cảnh sát chịu sự chỉ huy và kiểm soát trực tiếp của Nội các, Quốc hội và vua Anh cũng chịu sự kìm chế của nó. Nội các là then chốt của toàn bộ cơ cấu hành chính nhà nước. Trong đó phiên họp thường kỳ của Nội các, các vấn đề quan trọng nhất của nhà nước được đưa vào thảo luận và thông qua, sau đó các quyết định này được trao cho các thành viên của Chính phủ để thực hiện. Do có sự khác nhau giữa khái niệm Chính phủ” và “Nội các” cho nên các Bộ trưởng cũng được chia thành: Bộ trưởng thành viên của Nội các, Bộ trưởng không phải là thành viên của nội các. Thành phần nội các trong Chính phủ Anh. Nội các của chính phủ Anh là cơ quan có cơ cấu quyền hạn chủ yếu được quy định bởi những hiệp định hiến pháp. Theo thống kê, nội các Anh do đảng chiếm đa số trong Hạ viện đứng ra tổ chức. Thành phần của nội các do đích thân Thủ tướng ấn định, thường từ 16 đến 24 người. Những nhân vật tương đối quan trọng của Đảng cầm quyền đều được mời vào nội các và giữ những chức vụ quan trọng. Nội các gồm Thủ tướng và các bộ trưởng (Quốc vụ khanh) các bộ phận quan trọng. Trong nội các nhất thiết phải có các Bộ trưởng: Bộ Tài chính, Bộ nội vụ, Bộ ngoại giao, Bộ quốc phòng, Bộ Thương mại. Những Bộ trưởng không phải là thành viên nội các có thể tham gia vào phiên họp của nội các theo lời mời riêng để xem xét những vấn đề liên quan đến bộ mình phụ trách. Trực thuộc Nội các có một số ủy ban thường trực thực thi các chính sách cơ quản của Nhà nước. Số lượng các ủy ban do Thủ tướng ấn định. Thủ tướng quyết định thành lập mới hay bãi bỏ các ủy ban. Thường có 20 ủy ban thường trực hoạt động các công việc phụ trợ giúp các ủy ban do các cộng tác viên của ban thư ký nội các đảm nhiệm. Chủ tịch các ủy ban tối quan trọng là Thủ tướng, còn chủ tịch các ủy ban khác do Thủ tướng bổ nhiệm. Những ủy ban quan trọng nhất là: Quốc phòng, đối ngoại, chiến lược kinh tế, chính sách đối nội, pháp luật. Các ủy ban này có nhiệm vụ soạn thảo sơ bộ những vấn đề có liên quan đến chính sách cơ bản của nhà nước sẽ được đưa ra thảo luận trong các phiên họp của Nội các. Nội các có văn phòng giúp việc, văn phòng Nội các là cơ cấu giúp việc, phụ trách, sắp xếp chương trình nghị sự của nội các, ghi biên bản hội nghị Nội các, giữ mối liên hệ giữa Chính phủ với các bộ, phụ trách biên tập và phân phát các báo cáo tình hình thực hiện các nghị quyết của Nội các. Cơ cấu dưới văn phòng Nội các gồm các cục thống kê trung ương và tổ sử liệu. Cục thống kê trung ương phụ trách thu thập từ các bộ những tư liệu thống kê có liên quan đến kinh tế quốc dân và tiến hành phân tích biên tập nhằm giúp chính phủ hoạch định các chính sách tài chính kinh tế. Nhiệm vụ của tổ sử liệu là phụ trách biên tập lịch sử chiến tranh, lịch sử chính phủ. Quyền hạn của Nội các Quyền hạn thực tế của Nội các gồm: lãnh đạo chung bộ máy hành chính, phối hợp hoạt động của các bộ, cơ quan ngang bộ, các phương hướng cơ bản của chính sách nhà nước, tham gia vào việc chuẩn bị các dự thảo pháp luật để đưa ra thảo luận trước Quốc hội (Nghị viện) ban hành các văn bản thuộc phạm vi thẩm quyền của mình. Vai trò quan trọng trong hoạt động của nội các là lãnh đạo hệ thống cơ quan quản lí trung ương. Nội các quy định những phương hướng cơ bản trong hoạt động của các cơ quan đó, giải quyết tranh chấp giữa chúng. Các thành viên của Nội các giữ vai trò lãnh đạo của Bộ mình. Bộ trưởng chịu trách nhiệm về hoạt động của bộ mình, trình bày trước Quốc hội các vấn đề có liên quan tới phạm vi hoạt động của bộ, tiến hành đàm phán với các bộ khác. Công việc của Nội các do bộ máy của nội các đảm nhiệm gồm có Ban thư kí, Ban thống kê trung ương. Dưới sự lãnh đạo của Thủ tướng, Ban thư kí phối hợp các hoạt động của Nội các với chính phủ và các ủy ban thường trực. Ban thư kí chuẩn bị báo cáo cho Thủ tướng, cùng Thủ tướng chuẩn bị chương trình làm việc và các tài liệu cho phiên họp của Nội các và cuộc họp của ủy ban, phân tích tài liệu và quyết định của Nội các, của các ủy ban cho cán bộ, kiểm ra việc thực hiện quyết định của Nội các, của các bộ, ban thư kí có quyền yêu cầu bộ trưởng các bộ cung cấp bất cứ tài liệu nào để thu thập thông tin theo các vấn đề khác nhau. Đứng đầu ban thư kí là Thư kí Nội các, chức vụ này do chuyên viên nhân sự cao cấp đảm nhiệm. Ngoài ra còn có Thư kí thường trực, các phó thư kí thường trực và trợ lý. Tất cả các chức vụ này đều do các chuyên viên dân sự đảm nhiệm. Các chuyên viên này giữ vị trí quan trọng trong công việc của Nội các và của các ủy ban. Nội các thường họp trong dinh Thủ tướng. Thành phần tham gia ngoài các thành viên Nội các còn có Thư kí Nội các, các thư kí và phó thư kí thường trực và các trợ lí, các Bộ trưởng phải là thành viên của Nội các nhưng sẽ được thảo luận các vấn đề có liên quan đến bộ đó trong cuộc họp, các giám định viên cũng có thể được mời tham gia để kiểm tra những vấn đề cụ thể. Trong cuộc họp không ghi biên bản chi tiết. Việc biểu quyết cũng ít khi được tiến hành, nếu có thì cũng không quy định bao nhiêu phiếu thuận thì quyết định được thông qua. Ở đây, Thủ tướng đóng vai trò quyết định, thường cuối cuộc thảo luận, Thủ tướng tóm tắt kết quả thảo luận tổng hợp các ý kiến và tuyên bố quyết định của Nội các. Tất cả các tài liệu của Nội các được coi là sở hữu của Nội các không phải chuyển cho Nội các mới. Hoạt động của Nội các Anh là hoạt động kín. Văn bản “về tài liệu quốc gia” năm 1967 cấm tiết lộ nội dung biên bản của Nội các trong vòng 30 năm. Thành viên của Nội các là thành viên của Hội đồng cơ mật, họ phải tuyên thệ không tiết lộ thông tin có liên quan đến hoạt động của Nội các. b.4: Các bộ và chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu một số bộ điều hành Các Bộ: Bộ tài chính; Bộ Ngoại giao; Bộ nội vụ; Bộ Quốc phòng; Bộ Môi trường; Bộ Giáo dục và Khoa học; Bộ Nông nghiệp, ngư nghiệp và thực phẩm; Bộ Công việc Xcốtlen; bộ bắc Ailen; Bộ Xứ Uên; Bộ tài nguyên và năng lượng; Bộ y tế và bảo hiểm xã hội; Bộ quản lý và quản chức dân sự; bộ Thương nghiệp; Bộ Công nghiệp; Bộ Giao thông vận tải; Bộ Xây dựng và quản lý đô thị; Bộ việc làm; Văn phòng Nội các. Các bộ ở Anh khác nhau rất nhiều về phạm vi; về vị trí và tính chất công việc. Sự phân công công việc giữa các bộ một phần theo truyền thống, phần khác do những yêu cầu mới đặt ra cho công tác của Chính phủ. Thủ tướng là người bổ nhiệm các bộ trưởng và có thể bãi nhiệm họ vào bất cứ thời điểm nào. Theo thể chế và truyền thống , tất cả các bộ trưởng đều phải trung thành với đảng cầm quyền và chịu trách nhiệm tập thể trước các chính sách của Chính phủ. Họ không được thể hiện công khai việc không đồng tình với các chính sách của Chính phủ. Ngoài trách nhiệm trước các cử tri với tư cách là các Nghị viên thuộc Nghị viện. Các Bộ trưởng ở Anh được xem là các chính sách trị gia, quyết định đường lối và chính sách chung của bộ. Người đứng đầu công vụ của mỗi bộ là Thư ký thường trực. Trong chính phủ Anh có 4 nhóm Bộ trưởng sau: Bộ trưởng lãnh đạo các Bộ gọi là Quốc vụ khanh. Bộ trưởng không phụ trách Bộ nào gọi là Bộ trưởng không bộ (Bộ trưởng không cặp). Bộ trưởng Nhà nước, là các thứ trưởng hay người đứng đầu cơ quan trực thuộc Bộ. Bộ trưởng thư ký-Thư ký Nghị viện phụ trách việc đảm bảo thông tin giữa Bộ trưởng và Nghị viện Bộ quốc phòng: Bộ Quốc phòng, thành lập năm 1947. Sau khi bộ Quốc phòng thành lập, các bộ: Bộ Lục quân, Bộ Hải quân, Bộ Không quân trước đây vẫn tồn tại độc lập. Đến năm 1964, cư cấu Quốc phòng cải tổ, các bộ: lục, hải, không quân mới ghép vào bộ Quốc phòng. Bộ Quốc phòng là một trong những bộ lớn nhất trong các bộ của chính phủ nước Anh. Cơ cấu tổ chức chủ yếu gồm có: Bộ Tham mưu quốc phòng, Bộ Tham mưu Hải quân, Bộ tổng tham mưu, Bộ tham mưu không quân, Bộ Tham mưu khoa học, Bộ tham mưu nhân công và hậu cần, Bộ Hải quân, Bộ Lục quân, Bộ Không quân, Cục khí tượng, tổ chức giữa các quân chủng và tổ chức hỗ trợ, Bộ khai thác, Bộ tổ chức tiêu thụ quốc phòng, cơ cấu nghiên cứu và phát triển, phòng quản lý Hải quân, phòng quản lý quân giới. Bộ Nội vụ: Được thành lập chính thức năm 1782. Bộ Nội vụ có thể nói là một bộ “tạp vụ”. Nó không giống như nhiều bộ khác chủ quản các công việc có tính chất đơn giản. Bộ trưởng Nội vụ được gọi là “kênh liên hệ giữa Nữ hoàng với thần dân” phần lớn chiếu thư của nhà vua được ông trực tiếp kí mới có hiệu lực. Ông chủ quản việc đệ trình lên vua Anh các loại giấy tờ trình và tố tụng, khi ông thấy cần thiết mới đệ trình những văn kiện ấy lên vua Anh. Ngoài ra, bộ Nội vụ còn phụ trách việc sau đây: quản lí eo biển, quần đảo của lãnh vực hoàng gia; phụ trách quản lý kiều dân; đăng kí cử tri và dám sát bầu cử; quyết định và đề xuất yêu cầu dẫn độ tội phạm chạy trốn, công bố những văn bản cho phép đặc biệt việc phong tặng mới về quý tộc; giám sát việc chấp hành lệnh của các xí nghiệp, cửa hàng, sòng bạc và nơi vui chơi, quản lý các nghĩa địa, chất ma túy, giải phẫu tử thi, chất nổ có liên quan và các sự việc tương tự khác. Bộ Nội vụ là công cụ trực tiếp nhất của nhà nước trấn áp và duy trì sự thống trị, có nhiệm vụ chủ yếu nhất là quản lí công việc giám sát và giám ngục, duy trì pháp luật và trật tự. Chức năng và quyền hạn của bộ Nội vụ là: trực tiếp quản lý cảnh sát thủ đô Luân Đôn phê chuẩn việc bổ nhiệm của nhà đương cục chủ quản cảnh sát đối với cục trưởng, xác định việc lựa chọn người cầm đầu và nhân viên cấp dưới của khu vực cảnh sát thủ đô và báo cáo lên Nữ hoàng bổ nhiệm, quản lí nhà tù quốc gia và nhà tù các đô thị, xử lí các tội phạm bao gồm tội phạm thành niên, phụ trách giám sát hoãn thi hành án và thả tội phạm, tổ chức dân phòng, quản lý công tác phòng cháy chữa cháy; có trách nhiệm một phần tư pháp không do quan tòa xử lí, như tổ chức tòa án an toàn, dự thảo pháp luật về hình sự vv… Bộ Nội vụ gồm các đơn vị như sau: Vụ hình sự, hoãn thi hành án và sắp xếp, vụ chữa cháy và cảnh sát, vụ quảng trường, kế hoạch khu vực xã hội, vụ cơ hội bình đẳng, vụ di dân và quốc tịch, vụ dám sát nhà tù, vụ biên chế, tài chính và tổng hợp. Nhân viên công tác của Bộ Nội vụ gồm 28.962 người. Bộ ngoại giao và công tác liên bang. Năm 1968 bộ ngoại giao và Bộ quan hệ Liên bang ghép lại thành Bộ ngoại giao và công tác Liên bang. Tháng 10-1970, chính phủ E. Health cải tổ, đặt bộ phát triển hải ngoại dưới sự lãnh đạo của Bộ ngoại giao, về sau chính phủ Công đảng lại tách Bộ phát triển hải ngoại thành một bộ độc lập, Chính phủ của bà Thát-chơ lại ghép nó vào Bộ ngoại giao. Chức năng chủ yếu của Bộ ngoại giao: - Thông qua quan chức ngoại giao, làm cho Chính phủ Anh duy trì sự tiếp xúc với chính phủ các nước, và các tổ chức quốc tế, nhằm tiến hành đàm phán và - thảo luận mọi công việc thuộc phạm vi quan hệ quốc tế. Làm cho Chính phủ Anh thích ứng với tình hình phát triển tại hải ngoại. Bảo về lợi ích của nước Anh tại hải ngoại. Bảo vệ công dân nước Anh tại hải ngoại. Trình Chính phủ và tuyên truyền ở nước ngoài về chính sách của nước Anh và bất cứ nơi nào có thể, lập quan hệ với chính phủ và nhân dân các nước khác Ngoài ra Bộ ngoại giao và công tác Liên bang còn phụ trách giải quyết công việc liên quan đến quan hệ đối ngoại và công việc của Liên hiệp Anh. Quyền quyết định chính sách ngoại giao trước đây là đặc quyền của Vua Anh, ngày nay do Nội các nắm giữ, đặc biệt là Thủ tướng và Bộ trưởng Bộ ngoại giao thao túng. Mọi quyết sách quan trọng về ngoại giao, sau khi được vua Anh đồng ý về mặt hình thức, Quốc hội chỉ có quyền chất vấn chứ không được quyền can thiệp. Bộ trưởng Bộ ngoại giao và công tác Liên bang chịu trách nhiệm giải quyết công việc ngoại giao, lãnh đạo các sứ quán và thương vụ cũng như các cơ quan phát triển hải ngoại ở nước ngoài. Khi chấp hành chính sách, Bộ trưởng bộ ngoại giao có thể độc lập hành động, duy trì sự tiếp xúc trực tiếp với đại diện ngoại giao nước ngoài và các nước Liên bang Anh và phụ trách giải quyết quan hệ giữa Anh với Liên hợp quốc. Bộ trưởng Bộ ngoại giao và công tác Liên bang luôn luôn có địa vị đặc biệt quan trọng trong Nội các, vì vậy Bộ trưởng thường là do người lãnh đạo quan trọng của đảng cầm quyền đảm nhiệm. Trợ lý của Bộ trưởng bộ ngoại giao và công tác Liên bang có Bộ trưởng phát triển hải ngoại, Bộ trưởng ngoại vụ và Phó quan công tác quản lý và Phó quan thường trực. Dưới Phó quan còn có các cấp phó và trợ lý Phó quan, dưới nữa còn có các cơ cấu như cục, vụ, phòng. Bộ Tài chính: Trong các Bộ của Chính phủ, Bộ Tài chính được thành lập sớm nhất. Vì Bộ Tài chính có vị trí quan trọng trong các Bộ của Chính phủ nên Bộ trưởng Bộ Tài chính là một trong những Bộ trưởng quan trọng nhất. Người giúp việc cho Bộ trưởng Bộ Tài chính có Phó quan thứ nhất, Bộ trưởng quốc vụ, Phó quan công tác quản lý, Phó quan tài vụ và phó quan thường vụ. Chức chức năng chủ yếu của Bộ Tài chính là: - Giám sát tài chính: Chức năng này bao gồm: thu và quản lý thuế và thu các hoản thu nhập khác; kiểm soát chi tiêu công cộng, soạn thảo và thẩm tra các dự toán trình lên Quốc hội thảo luận; sắp xếp, cung ứng tiền vốn cần thiết cho công vụ hàng ngày, đề xuất và thực hiện các biện pháp liên quan đến công trái, tiền tệ và ngân hàng; quy định các mẫu đăng ký tài khoản công cộng.Việc giám sát tài chính của bộ tài chính đối với các bộ ngành trong chính phủ chủ yếu là kiểm soát các dự toán.Các dự toán của các ngành cần phải được Bộ tài chính phê duyệt và sau khi nộp các thảo luận, mới có thể đệ trình lên Quốc hội. Sự giám sát này làm cho vị trí của Bộ tài chính thường vượt lên trên các bộ khác và giống như Văn phòng Nội các và Bộ công tác quan chức dân sự, Bộ Tài chính có vị trí như là tổ chức hạt - nhận của Chính phủ. Điều phối chính sách kinh tế, chức năng này chủ yếu gồm có: chế định và giám sát việc thực hiện kế hoạnh phát triển; khi thực hiện kế hoạch, điều phối hoạt động của các mặt kinh tế, điều phối mọi chính sách kinh tế có liên quan đến phát triển công nghiệp; phân phối vật tư; điều hòa quan hệ khu vực trong phương án phát triển. Bộ Tài chính là cơ cấu chỉ đạo và giám sát, chứ không phải là cơ cấu thu chi thực tế về tài chính . Phụ trách thu và chi thực tế về tài chính là một số cơ cấu độc lập khác. Những cơ cấu này có quan hệ rất gắn bó với Bộ Tài chính. Những cơ cấu đó gồm có: Văn phòng Bộ trưởng kế toán, là cơ cấu xuất chi của Chính phủ, có chức trách làm người đại lý trả tiền của các cơ quan Chính phủ ngoài phần nhập hàng năm. Các khoản chi của đa số bộ ngành đều căn cứ vào các hóa đơn xuất chi của Văn phòng Bộ trưởng kế toán. Văn phòng này còn phụ trách định kỳ trả tiền dưỡng già cho công chức nhân dân, quan chức dân sự, giáo viên và thành viên cơ quan công nghiệp, y tế quốc dân và tiền hưu trí, tiền tuất, tiền dưỡng già cho sĩ quan quân đội, lực lượng vũ trang, vợ góa của họ. Văn phòng kiểm tra kiểm toán, là cơ cấu kiểm tra tài chính. Người phụ trách chủ yếu của cơ quan này là Trưởng kiểm tra kiểm toán. Chức trách chủ yếu là thẩm tra tài khoản cấp phát, nhằm bảo đảm tài khoản được dùng đúng như Quốc hội đã phê duyệt. Ngân hàng England là ngân hàng trung ương của nước Anh. Nó có tác dụng như là “ngân sách của các nhà ngân hàng” đối với Chính phủ. Nó là cơ cấu phát hành và đăng ký của khoảng 200 loại chứng khoán, nó là người đại lý của Chính phủ, thực hiện nghiệp vụ quản lý hối đoái. Nó là đại diện cho Bộ Tài chính quản lý “quỹ ổn định ngoại tệ”, lợi dụng sức mạnh tiền vốn của quỹ ổn định ngoại tệ tiến hành can thiệp trong thị trường ngoại tệ, nhằm ngăn chặn tỷ giá hối đoái bảng Anh dao động không bình thường. Ủy ban phát triển kinh tế quốc dân là cơ quan tư vấn kinh tế giữa chính phủ với người lao động, nhà tư bản. Chủ yếu là ngiên cứu con đường nâng cao hiệu quả công nghiệp, thảo luận tình hình hoàn thành quy hoạch kinh tế quốc dân lâu dài, nghiên cứu hiệu quả, triển vọng của các ngành công nghiệp. Chức năng chủ yếu của Bộ công vụ - Phụ trách quản lý quan chức dân sự, bao gồm chính sách và tổng kế hoạch tuyển dụng, huấn luyện, đề bạt, phúc lợi thôi việc. - Quyết định số lượng, tiền lương, tiền dưỡng già và điều kiện phục vụ của công chức, điều hòa tiền với tiền lương và tiền dưỡng già trong xã hội. - Bộ công vụ gồm có 5 nhóm: nhóm Trung ương, nhóm tuyển dụng, nhóm quản lý, nhóm tiền lương và nhóm quản lý nhân viên. Dưới nhóm tuyển dụng có Ủy ban tuyển chọn quan chức dân sự. Ngoài ra, Bộ công vụ còn lãnh đạo học viện huấn luyện quan chức dân sự. Chức năng chủ yếu của Bộ môi trường - Chủ quản quy hoạch khai thác khu vực và lợi dụng đất đai có tính khu vực, điều phối thiết kế thành thị. - Kiểm soát môi trường ô nhiễm - Chủ quản chính sách nhà ở và thu gọn tiền vốn, dặt kế hoạch, quản lý tài vụ và quy chế xây dựng về nhà ở - Chủ quản công trình kiến trúc và công trình xây dựng có liên quan Bộ môi trường có các đơn vị: Cục quản lý chính quyền địa phương, Cục bảo vệ môi trường, cục kế hoạch, Cục tài chính và hội đòng trị sự trung ương về ô nhiễm môi trường. Chức năng chủ yếu của bộ giáo dục và khoa học: - Phụ trách toàn bộ công tác giáo dục của England, công tác giáo dục chuyên nghiệp trung cấp của Xứ Uên, toan bộ giáo dục đại học của Anh. - Phụ trách công tác khoa học dân dụng và nghệ thuật. - Quản lý thư viện quốc gia và Viện bảo tàng. Ngoài ra, công việc bổ sung, huấn luyện và việc hưu trí của giáo viên sơ, trung cấp và các trường khác, xây dựng trường mới và nhà cửa của các cơ quan giáo dục khác, công tác y tế trường học, giáo dục đặc biệt đối với trẻ em tàn tật, cũng như việc cung cấp ăn uống cho các trường học cũng do Bộ và các cơ quan giáo dục địa phương cùng chịu trách nhiệm Các đơn vị dưới bộ: Vụ kế hoạch và nghiên cứu, Vụ giáo dục cao đẳng va giáo dục bổ túc, Vụ giáo dục tiểu học và giáo dục trung học, giám sát viên trường học của Nữ hoàng, Ủy ban học bổng đại học. Chức năng chủ yếu của Bộ thương mại: - Chế định tổng thể chính sách công thương nghiệp, cải thiện quan hệ giữa chính phủ với các xí nghiệp thương mại. - Quản lý quan hệ thương vụ hải ngoại và xuất khẩu, bao gồm trách nhiệm trong đàm phán gia nhập thị trường chung Tây âu, khuyến khích dịch vụ xuất khẩu, tín dụng xuất khẩu và tỷ xuất quan thuế có lợi cho xuất khẩu. - Phụ trách chính sách có liên quan về độc quyền, hợp nhất và lao động thương mại có tính hạn chế. - Quản lý các công việc có liên quan trong vận chuyển của hàng không dân dụng và vận tải tầu thuyền. Bộ thương mại gồm có 7 phòng: Phòng phát triển, xúc tiến và dịch vụ về xuất khẩu; Phòng chính sách ngoại thương nói chung và khối cộng đồng châu Âu; Phòng nợ; Phòng điều tra sự cố; Phòng vân tải biển và hàng không; Phòng công việc cạnh tranh và người tiêu dùng; Phòng thông tin. Chức năng chủ yếu của Bộ Công nghiệp: - Chế định chính sách chung về công nghiệp, cải thiện quan hệ giữa Chính phủ và các xí nghiệp công nghiệp. - Quản lý việc phát triển công nghiệp khu vực - Soạn thảo pháp quy công ty và chính sách tiền lương, giá cả của công nghiệp “Quốc hữu hóa” thuộc công ty quản lý - Quan hệ các loại sản phẩm của nguyên liệu công nghiệp Bộ Công nghiệp có 6 phòng: Phòng phát triển tổ chức khu vực và quản lý xí nghiệp nhỏ, Phòng kế hoạch công nghiệp và chính sách thương nghiệp, Phòng nghiên cứu và phát triển, ba phòng kiến nghị về công nghiệp (một phòng phụ trách về điện, công trình xí nghiệp cơ giới và gia công, máy tính và điện tử, xe cộ; một phòng phụ trách về nguyên liệu công nghiệp và các loại sản phẩm; một phòng phụ trách chính sách về sản phẩm hàng không, đóng tàu, bưu điện, công nghiệp quốc hữu hóa) Chức năng chủ yếu của Bộ việc làm: - Phụ trách “Sử dụng có hiệu quả” về nhân lực, giám sát tình hình sử dụng nhân lực các khu vực, giám sát tình hình sử dụng nhân lực các khu vực, điều hòa chính sách thuê mướn của các ngành, của Chính phủ. - Cải thiện quan hệ giữa người lao động và tư bản, tiến hành điều tra điều hòa và làm trọng tài cho các tranh chấp giữa lao động và nhà tư bản. - Phụ trách công việc huấn luyện viên chức, công việc về an toàn vệ sinh và phúc lợi của công nhân, đấu tranh đảm bảo quyền được hưởng thù lao như nam giới đối với nữ viên chức khi làm công việc như nhau. - Giải quyết vấn đề việc làm của lao động nước ngoài tại nước Anh, nghiên cứu chính sách, điều kiện tiền lương và thuê mướn lao động quốc tế. Bộ việc làm gồm có: Vụ quan hệ công việc loại một, nghiên cứu và kế hoạch; Vụ quan hệ công nghiệp loại hai, thu thập và thông tin; Vụ EU, chính sách kinh tế và phân lực, sức khỏe và an toàn lao động; Vụ tài vụ; Phòng dịch vụ quản lý; Sở công việc luật sư. Chức năng chủ yếu của Bộ y tế và An toàn xã hội: - Quản lý công nghiệp y tế quốc dân và “sự nghiệp phúc lợi” cung cấp cho ngươi già và người tàn tật, “thực phẩm phúc lợi” và sự nghiệp y tế công cộng. - Quản lý chi tiêu và quyên góp tiền hưu trí,tiền tuất, tiền dưỡng già, tiền cứu tế của nước Anh và việc trợ cấp cho gia đình - Cùng với các nước khác ký kết “Hiệp định bảo hiểm xã hội tương ứng” và đại diện nước Anh tham gia tổ chức y tế thế giới - Thông qua sự xác định của “Ủy ban cứu tế quỹ trợ cấp hàng năm” trực thuộc, trích từ số tiền quyên góp chi cho tiền dưỡng già, tiền cứu tế, trợ cấp thu nhập gia đình. Bộ y tế và an toàn xã hội gồm có 5 vụ, 7 tổ chức: Vụ tài vụ; Vụ y vụ; Vụ kế hoạch trung ương, chính sách khu cực xã hội; Vụ y tế cá nhân, chính sách dịch vụ y tế; Vụ y học cao cấp, dịch vụ khoa học và thuốc chữa bệnh. Tổ hành chính và an toàn xã hội; Tổ phát triển dịch vụ; Tổ y tế và cá nhân, khu vực dich vụ xã hội; Tổ nhân sự dịch vụ y tế toàn quốc; Tổ chính sách an toàn xã hội; Tổ hỗ trợ cứu tế trợ cấp gia đình; Tổ xí nghiệp cơ quan luật sư. b.5: Chính quyền địa phương: Về địa chính, Vương quốc Anh bao gồm: Anh với khoảng 83% tổng dân số, Xcốtlen với khoảng 9%, Uên với khoảng 5% và Bắc Ailen với khoảng 3%. - Anh và xứ Uên được chia thành 47 hạt, 369 quận/huyện, và trong các quận huyện có hàng nghìn xã. Luân Đôn được chia làm 28 quận và thành phố Luân Đôn. Các hạt và các quận/huyện và các quận của thủ đô Luân Đôn có các hội đồng do dân bầu và các xã cùng có các hội đồng do dân bầu. Xcốtlen được chia thành 9 vùng, trong đó có 53 quận/huyện, 3 hòn đảo và khoảng 1000 cộng đồng tương tự như cấp xã của Anh hoặc Uên. Tất cả vùng, quận/ huyện, các hòn đảo và các cộng đồng đều có các hội đồng nhân dân bầu. Bắc Ailen được chia thành 6 hạt, trong các hạt có các quận/huyện với các Hội đồng do dân bầu, cũng giống như ở Anh và Uên. - Cải cách chính quyền địa phương: Luật chính quyền địa phương năm 1992 đã tạo điều luật cho việc thiết lập Ủy ban, chính quyền địa phương để nghiên cứu cơ cấu, ranh giới và những việc tổ chức bầu cử các chính quyền ở địa phương. Các nghiên cứu này đã xem xét việc liệu có nên thay đổi cơ cấu 2 tầng bằng các chính quyền đơn nhất trong mỗi vùng. Đối với hầu hết các khu vực, Uỷ ban kiến nghị duy trì chính quyền hai cấp nhưng đề nghị kiểu chính quyền đơn nhất cho một số vùng. Trong khi chấp nhận hầu hết các kiến nghị, Chính phủ đã yêu cầu Ủy ban tiến hành các nghiên cứu cập nhật đối với từng vùng riêng lẻ. Luật có ảnh hưởng tới Xcốtlen và xứ Uên đã được thông qua năm 1994: tại Xcốtlen, 29 hội đồng đơn tầng đã thay thế hệ thống của các hội đồng quận và hội đồng vùng từ 4-1996. Ba hội đồng của Ailen vẫn được duy trì. Tại xứ Uên, 22 chính quyền đơn nhất mới đã thay thế cơ cấu hiện tại cũng vào tháng 4-1996. - Các chức năng và dịch vụ của hội đồng: hiện nay tại Anh, các hội đồng hạt chịu trách nhiệm đối với việc xây dựng kế hoạch chiến lược, kế hoạch giao thông, đường cao tốc, luật giao thông, giáo dục, mặc dù các trường học có thể nằm ngoài vùng kiểm soát của chính quyền địa phương, bảo vệ người tiêu dùng, cảnh sát, cứu hỏa, các thư viện và các dịch vụ xã hội. Các hội đồng quận chịu trách nhiệm đối với các dịch vụ như bảo vệ môi trường, nhà cửa, quyết định áp dụng các kế hoạch của địa phương, thu gom rác. Cả hai cấp chính quyền địa phương đều có quyền cung cấp các cơ sở vật chất như bảo tàng, phòng trưng bày nghệ thuật, các bãi đỗ xe. Nơi các chính quyền đơn nhất đước thiết lập tại các vùng không trung tâm, họ chịu trách nhiệm đối với các chức năng của cả cấp hạt và cấp quận. - Tại các hạt trung tâm, các hội đồng quận chịu trách nhiệm đối với tất cả các dịch vụ trừ cảnh sát, cứu hỏa và giao thông công cộng. Tại Luân đôn, các chính quyền địa phương và các công ty của thành phố Luân đôn lại chịu trách nhiệm trước Thư ký nội vụ. Trách nhiệm đối với giao thông công cộng thuộc về Sở Giao thông Luân đôn. Về nhân lực: hiện có 2 triệu người làm việc cho chính quyền địa phương trong toàn Vương quốc Anh. Những người này bao gồm các nhân viện hành chính, nhân viên chuyên môn, nhân viên kỹ thuật, giáo viên, lính cứu hỏa. Giáo dục là ngành dịch vụ rộng lớn nhất thuê khoảng 40% tổng số những người làm việc cho các chính quyền địa phương. Chi phí của chính quyền địa phương, tổng số khoảng 70200 triệu bảng Anh( 1993-1994), chiếm 25% tổng chi phí công. Chính phủ cố gắng gây ảnh hưởng đối với việc chi tiêu của chính quyền địa phương như là một phần của chính sách chung nhằm kiểm soát sự tăng trưởng của toàn bộ chi phí công.chính phủ có quyền hạn chế hoặc cấp ngân sách của chính quyền địa phương bằng cách đặt ra một khoảng tối đa cho các chính quyền địa phương, mà theo quan điểm của chính phủ, đã lập ngân sách một cách quá đáng. Hệ thống tài chính: Các chính quyền địa phương thuộc Vương quốc( trừ Bắc Ailen) có thu nhập từ: - Các khoản cấp từ chính phủ Trung ương chiêm 85%chi phí. - Thuế phí nội địa. - Thuế hội đồng và các khoản chi phí. Thuế phí nội địa là một loại thuế đối với những người chiếm hữu các tài sản không ở trong nước. Giá trị đánh thuến của tài sản được đành giá bởi tiền cho thuê hàng năm và được xem xét lại 5 năm một lần. Tại Anh và xứ Wales, thuế phí nội địa được định trên cấp quốc gia do Chính phủ Trung ương và chính quyền địa phương thu. Khoản này được đóng góp vào nguồn vốn quốc gia và được phân bổ lại cho các chính quyền địa phương theo tỉ lệ dân số. tại Scotlen, thuế phí nội địa các chính quyền địa phương thu. Tại Bắc ai len, khoản này không được chi cho các công trnh công nghiệp hoặc thương mại các khu kinh doanh. 2.Tổ chức nhân sự a, Khái niệm công chức Ở Anh chưa có một định nghĩa mang tính pháp lý về công chức. Tuy nhiên, có thể khái quát công chức Anh là: “các nô bộc của nhà Vua, không phải là những người giữ các chức vụ chính trị hoặc tư pháp, những viên chức dân sự hưởng lương trực tiếp và hoàn toàn từ ngân sách được Nghị viện thông qua”. Như vậy, chỉ những người làm việc tại các bộ, ngành ở trung ương mới được gọi là công chức nhà nước, còn các nhân viên làm việc tại chính quyền địa phương không phải là công chức nhà nước. Vương quốc Anh hiện nay có khoảng 4,69 triệu cán bộ công chức, trong đó công chức nhà nước là 558.000 người, công chức địa phương là 2,1 triệu còn lại là viên chức nghành y tế. Thông thường , thời hạn tuyển dụng của các nhân viên chính quyền địa phương là 5 năm, sau thời hạn đó có thể tiếp tục kéo dài hợp đồng hoặc chuyển sang làm công việc khác. b, Tuyển dụng Cơ quan chịu trách nhiệm việc tuyển dụng công chức mới là Hội đồng công vụ. Hội đồng này tổ chức các kỳ thi sát hạch, qua đó những người dự tuyển thể hiện khả năng của mình xem có phù hợp với công việc trong công vụ hay không. Sau đó những người đã qua kỳ sát hạch sẽ được đào tạo tại Học viện Công vụ trước khi được bổ nhiệm chính thức vào chức danh trong công vụ. Hệ thống thi tuyển Anh cũng như một số nước (Pháp, Nhật, Tây Ban Nha…) được coi là khách quan nhất và cho phép tuyển được những ứng cử viên giỏi nhất, vì có một hội đồng thi độc lập với cơ quan hành chính xem xét các khả năng của thí sinh và xếp hạng thí sinh theo thứ tự xứng đáng của thí sinh thông qua các chứng chỉ (bằng cấp) và quá khứ nghề nghiệp (kinh nghiệm trong khu vực tư hoặc công) hoặc từ các kỳ thi viết, nói. Việc đánh giá các khả năng của thí sinh để thực hiện công việc của một công chức theo 3 thông số: hiểu biết (kiến thức), biết cách làm (khả năng hành động), biết cách đối xử (hành vi xã hội) được kết hợp với chiều dài thời gian cần thiết: kiến thức đo đếm được vào thời điểm tuyển dụng (bằng cấp, chứng chỉ, văn hóa chung, trí tuệ nhanh nhạy); khả năng huy động và phát triển trong tình huống làm việc, và tiềm năng trở thành giá trị hiện thực trong tiến trình nghề nghiệp hay để thực hiện những chức năng khác. c, Đào tạo bồi dưỡng Nước Anh có truyền thống mở các trường đào tạo công chức. Ngay từ năm 1613 đã có trường đào tạo nổi tiếng, từng đào tạo bồi dưỡng hơn 2000 tùy viên sứ quán. Trước và sau khi thành lập chế độ công chức thường nhiệm, Học viện thương mại tại Luân Đôn và các thành phố lớn khác cũng đã góp phần đào tạo một bộ phận quan chức cấp cao. Năm 1963, nước Anh thành lập một trung tâm đào tạo bồi dưỡng công chức chuyên môn nhưng chỉ hạn chế trong pham vi các quan chức cấp cao và với thời gian ngắn từ 3 đến 6 tuần. Việc đào tạo công vụ đối với các công chức cấp cao ở Anh được thực hiện tại Trường cao đẳng Công vụ. Và trên thực tế, khi nói đến đào tạo công vụ ở Anh (cũng như ở một số nước công nghiệp phát triển) là tập trung chủ yếu vào các nhà quản lý cao cấp- các công chức cấp cao có cả trách nhiệm hoạch định chính sách và quản lý. Tuy hiên trong nội dung đào tạo của Trường cao đẳng Công vụ ở Anh vẫn còn nhiều điểm hạn chế là mặc dù có giới thiệu các yếu tố về phân tích chính sách, nhưng cách tiếp cận chung vẫn thiên về kiến thức kinh viện và khái niệm. d, Đánh giá, đề bạt Anh rất coi trong công tác đánh giá công chức. Việc đánh giá công chức ở Anh chủ yếu là xem xét về thái độ cần cù trong công việc và thành tích thực tế trong công tác, đặc biệt lấy sát hạch thành tích làm trọng điểm. Đánh giá về mặt thành tích bao gồm nhiều nhân tố; - Kiến thức, hiểu biết về công việc - Tính tình , nhân cách. - Khả năng phán đoán. - Tinh thần trách nhiệm. - Khả năng sáng tạo. - Độ tin cậy. - Tính thích ứng nhanh nhạy. - Năng lực giám sát. - Lòng nhiệt tình. - Hành vi đạo đức Mỗi năm tiến hành đánh giá thành tích một lần, kiểm tra thành tích thực tế trong công việc Việc đề bạt, bổ nhiệm công chức sẽ căn cứ vào bản đánh giá thành tích hàng năm. Trong số những người có thâm niên công tác như nhau, ai có thành tích tốt hơn sẽ có cơ hội đề bạt lớn hơn. Ở Anh việc đề bạt công chức bậc trung (chấp hành) lên công chúc bậc cao không nhiều, nhưng ngược lại, việc thăng cấp trong nội bộ các công chức cao cấp thì ngày càng tăng, từ chỗ trước đây chỉ khoảng trên 30% nay đã lên đến trên 80%. e, Chế độ lương bổng Chế độ tiền lương công chức của Vương quốc Anh là tương đối hậu đãi. Chế độ tiền lương này dựa trên 4 nguyên tắc: Lịch sửCác đảng chính trị bắt đầu xuất hiện tại Anh từ năm 1662 sau khi cuộc Nội chiến Anh kết thúc với sự ra đời của Đảng Cung đình (Court Party) và Đảng Nông thôn (Country Party), sau này trở thành Đảng Tory (nay là đảng Bảo thủ, mặc dù vẫn thường được gọi là “Tory”) và Đảng Whig (nay là đảng Dân chủ Tự do). Hai chính đảng này vẫn duy trì vị thế chính trị quan trọng trong cho đến thế kỷ 20. Tên gọi của hai đảng này bắt nguồn từ cuộc khủng hoảng Dự luật Khai trừ trong những năm 1678-1681 – đảng Whig ủng hộ việc khai trừ Công tước xứ York theo đức tin Công giáo khỏi quyền kế thừa ngai vàng của xứ Anh, Ái Nhĩ Lan và xứ Tô Cách Lan, trong khi đảng Tory chống lại chủ trương khai trừ này. Cả hai tên gọi được dùng để biểu thị sự khinh miệt: “whiggamor” là “đồ chăn bò” (cattle driver) và “tory” trong tiếng Ái Nhĩ Lan nghĩa là “đồ vô lại” (an outlaw). Đại thể, đảng Tory có quan hệ với giới thượng lưu và Giáo hội Anh, trong khi đảng Whig gần gũi hơn với giới nghiệp đoàn, tài chính và chủ đất. Đảng Cấp tiến Rochdale qui tụ những người theo đuổi khuynh hướng cải cách triệt để, hoạt động tích cực cho phong trào hợp tác xã. Họ chủ trương xây dựng một xã hội bình đẳng hơn. Đảng này nên được xếp vào cánh tả nếu xét theo tiêu chuẩn đương đại. Sau năm 1815, đảng Tory trải qua một cuộc cải tổ sâu sắc dưới ảnh hưởng của Robert Peel, một nhà công nghiệp, trong năm 1834 với bản Tuyên ngôn Tamworth, Peel phác thảo triết lý “Bảo thủ” chủ trương cải cách những tệ nạn trong khi vẫn bảo tồn những tập quán tốt. Năm 1846, do bất đồng về vấn đề tự do thương mại, một số người ủng hộ Peel tách khỏi đảng Tory để gia nhập đảng Whig và kết hợp với đảng Cấp tiến để thành lập Đảng Tự do, trong khi chủ trương của Peel vẫn được duy trì trong đảng Tory, từ đó đảng này chính thức chấp nhận danh xưng Bảo thủ. Mặc dù đã được sử dụng trong những thập niên trước đó, tên “Đảng Tự do” trở nên danh xưng chính thức trong năm 1868. Năm 1870 Đảng Tự do thành lập chính phủ, từ đó cùng với Đảng Bảo thủ luân phiên cầm quyền suốt từ cuối thế kỷ 19 đến đầu thế kỷ 20. Năm 1882, Đảng Đại nghị Ái Nhĩ Lan được thành lập để thế chỗ của Liên minh Cầm quyền Nội địa. Mãi đến năm 1918 đảng này vẫn là chính đảng lớn thứ ba trong chính trường Anh quốc, thường thủ giữ vị trí cân bằng lực lượng. Năm 1900, Ủy ban Đại diện Lao động ra đời, đến năm 1906 đổi tên thành Đảng Lao động. Sau Đệ Nhất Thế chiến, đảng Lao động được xem là động lực cải cách chính tại Anh. Sự hiện diện của Đảng Lao động ở phe tả của chính trường Anh Quốc dần dà làm suy yếu Đảng Tự do để cuối cùng đẩy đảng này xuống vị trí thứ ba trong nền chính trị quốc gia. Sau những kết quả nghèo nàn trong các cuộc tuyển cử năm 1922, 1923 và 1924, đảng Tự do đã bị thế chỗ bởi Đảng Lao động trong vị trí của một chính đảng cánh tả. Theo sau hai giai đoạn ngắn thành lập chính phủ thiểu số trong năm 1924 và 1929-1931, đảng Lao động có được chiến thắng đầu tiên sau Đệ Nhị Thế chiến trong cuộc bầu cử năm 1945. Trong những năm còn lại của thế kỷ 20, đảng Lao động cùng với đảng Bảo thủ luân phiên thành lập chính phủ. Phần lớn thời gian cầm quyền thuộc về Đảng Bảo thủ trong khi Đảng Lao động chịu đựng “thời kỳ hoạn nạn” trong những năm 1951-1964 (thất bại trong ba kỳ tổng tuyển cử liên tiếp) và năm 1979-1997 (thất bại trong bốn kỳ tổng tuyển cử liên tiếp). Năm 1975, Margaret Thatcher, một chính trị gia hữu khuynh, nắm quyền lãnh đạo Đảng Bảo Thủ và bắt tay tiến hành những cải cách cơ bản trong chính sách của đảng hướng theo chủ trương tân tự do. Trong cuộc tổng tuyển cử năm 1979, Thatcher đánh bại chính phủ đảng Lao động của James Callaghan đang gặp khó khăn sau những cuộc đình công lan rộng đòi tăng lương khởi xướng bởi các nghiệp đoàn trong “mùa đông bất bình” năm 1978-79. Trong thập niên 1980 và 1990, dưới sự lãnh đạo của người kế nhiệm John Major, chính phủ Bảo thủ theo đuổi chính sách tư hữu hóa, đối kháng nghiệp đoàn và tiền tệ, được gọi chung là chủ thuyết Thatcher. Đảng Lao động bầu một nhân vật khuynh hữu, Michael Foot, vào vị trí lãnh tụ đảng sau thất bại trong cuộc tuyển cử năm 1979. Nhằm giải quyết những bất bình trong nội bộ đảng, Foot theo đuổi các chính sách cấp tiến cổ xúy bởi các đảng viên ở hạ tầng cơ sở. Năm 1981, một số nghị sĩ cánh hữu thành lập một nhóm ly khai gọi là Đảng Dân chủ Xã hội (SDP); hành động gây phân hóa trong đảng Lao động và được xem là nguyên nhân dẫn đến sự thất bại của đảng trong suốt một thập niên. Đảng Dân chủ Xã hội thành lập liên minh với Đảng Tự do, trong các cuộc tổng tuyển cử năm 1983 và 1987 liên minh này được xem là một chọn lựa cho những cử tri tìm kiếm một khuynh hướng trung dung giữa đảng Lao động và đảng Bảo thủ. Sau một vài thành công ban đầu, đảng Dân chủ Xã hội trở nên trì trệ có lẽ vì phải chia phiếu trong vòng cử tri chống đảng Bảo thủ. Cuối cùng vào năm 1988, đảng Dân chủ Xã hội sáp nhập với đảng Tự do để trở thành Đảng Dân chủ Tự do. Sự ủng hộ dành cho đảng tân lập gia tăng từ đó, dành thêm ghế trong Viện Thứ dân qua các cuộc bầu cử năm 1997 và 2001. Trong cuộc tổng tuyển cử năm 1983, đảng Lao động thất bại thảm hại trước đảng Bảo thủ. Michael Foot phải ra đi và được thay thế bởi Neil Kinnok trong vị trí lãnh tụ đảng. Kinnok trục xuất nhóm tả khuynh Militant Tendency và tìm cách dung hòa các chính sách của đảng. Sau thất bại sít sao trong cuộc tổng tuyển cử năm 1992, Kinnok bị thay thế bởi John Smith. Năm 1994,Tony Blair trở nên lãnh tụ đảng Lao động sau cái chết đột ngột vì bệnh tim của John Smith. Blair tiếp tục hướng đảng Lao động về phía hữu bằng cách nới lỏng các quan hệ với giới nghiệp đoàn đồng thời áp dụng nhiều chính sách của Margaret Thatcher. Chủ trương này, cùng với tiến trình chuyên nghiệp hóa phương pháp tiếp cận với các phương tiện truyền thông, giúp mang lại thành công cho đảng Lao động trong cuộc tổng tuyển cử năm 1997 với chiến thắng vang dội. Do bớt nhấn mạnh đến khía cạnh xã hội và tập chú nhiều hơn vào tính dân chủ mà đảng Lao động đã giành được ba chiến thắng áp đảo nhưng lại trở nên xa lạ với nhiều đảng viên cốt cán của mình. |