Công hữu về tư liệu sản xuất là gì

Đăng ngày: 17/01/2011 - 03:00Sửa đổi ngày: 17/01/2011 - 15:36

Buổi khai mạc Đại hội Đảng lần thứ 11 ngày 12/1/2011 Reuters

Các nhà quan sát trong và ngoài nước không ai chờ đợi bất ngờ về thành phần nhân sự mới, cũng như không ai trông chờ sẽ có đổi mới về chính trị, nhất là vì Đảng dứt khoát không từ bỏ độc quyền lãnh đạo. Nhưng ngay cả trong lĩnh vực kinh tế, cũng không chắc là sẽ có những thay đổi lớn, thậm chí lại có bước lùi về đường lối.

Tuy rằng Đại hội Đảng lần này có vẻ như chỉ là nhằm trình bày trước công luận một bộ mặt đoàn kết, ổn định của ban lãnh đạo Đảng, nhưng trong các phiên thảo luận công khai trong những ngày họp Đại hội vừa qua, nhiều đại biểu đã cho rằng phải quyết liệt chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế, vì giữ nguyên mô hình hiện tại có nghĩa là “dành lại phần rủi ro cho các thế hệ tương lai”, như tuyên bố của Phó Chủ tịch UBND Hà Nội Vũ Hồng Khanh.

Sau vụ gần như phá sản của tập đoàn Vinashin, một trong những vấn đề thường được nêu lên tại Đại hội đó là vai trò của doanh nghiệp Nhà nước. Các doanh nghiệp này thu hút đến 40% vốn đầu tư, nhưng chỉ đóng góp 25% GDP. Nhưng ông Võ Hồng Phúc, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã đặt vấn đề về một điều căn bản hơn, đó là bản dự thảo Cương lĩnh chủ trương nền “kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa” mà Việt Nam đang theo đuổi là dựa trên “chế độ công hữu tư liệu sản xuất chủ yếu”, giống như đã ghi trong Cương lĩnh năm 1991. Ông Võ Hồng Phúc đặt câu hỏi: “Liên Xô, Đông Âu theo mô hình ấy đã thất bại. Việt Nam rút ra bài học và đã thành công. Giờ sao lại bỏ đi?”. Ông phân tích: “Quá trình phát triển sau Cương lĩnh 1991, Đảng đã rút ra là phải xây dựng một nền kinh tế trên cơ sở đa sở hữu. Giờ bỏ đi, tư nhân ai dám đầu tư nữa?”

Mối lo ngại của ông Võ Hồng Phúc được một số đại biểu khác chia sẽ. Theo Sài Gòn Giải Phóng Online, đại biểu Cao Viết Sinh, Bộ Kế hoạch Đầu tư, nhận định : nền kinh tế Việt Nam hiện nay gồm nhiều thành phần trong đó có doanh nghiệp tư nhân và nhà đầu tư nước ngoài. Chiến lược phát triển kinh tế xã hội đã xác định khu vực kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng để phát triển đất nước. Vì vậy việc nêu rõ “công hữu tư liệu sản xuất” có thể gây lo ngại cho các loại hình doanh nghiệp vừa nêu.

Còn đại biểu Nguyễn Văn Thuận, Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật Quốc hội cho rằng, Đảng đang tự mâu thuẫn với chính mình khi xác định thời kỳ quá độ có mô hình nền kinh tế thị trường. Nếu xác định “công hữu về tư liệu sản xuất”  thì lại đi ngược với kinh tế đa sở hữu. Ông Thuận cho rằng, không thể trải thảm đỏ mời các nhà đầu tư nước ngoài, khuyến khích doanh nghiệp tư nhân, nếu vẫn giữ những nội dung đó.

Đây đúng là một bước thụt lùi về mặt đường lối, theo như nhận định của chuyên gia kinh tế Nguyễn Quang A trong bài trả lời phỏng vấn với RFI Việt ngữ sau đây:

Phỏng vấn Tiến sĩ Nguyễn Quang A

Thanh Phương

Được đặt ra từ phiên thảo luận chiều qua, đặc trưng kinh tế của xã hội chủ nghĩa với chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất là vấn đề được tiếp tục trao đổi tại phiên họp sáng nay [14/1] của Đại hội Đảng XI.Dự thảo Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội [bổ sung, phát triển năm 2011] nêu rõ, xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu.

Tuy nhiên, phát biểu tại phiên thảo luận chiều qua [13/1], Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Võ Hồng Phúc nêu quan điểm khác, và ông đã đề nghị Đại hội “cùng thảo luận thật ra nhẽ và biểu quyết để tạo sự đồng thuận trong Đảng”.

Theo ông Phúc, quan điểm tại Đại hội X trước đây là “dựa trên một quan hệ sản xuất tiên tiến phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất”. Và phải tổng kết 20 năm đổi mới mới có được câu đó.Băn khoăn của Bộ trưởng Phúc là, quá trình phát triển sau Cương lĩnh 1991, Đảng đã rút ra là phải xây dựng một nền kinh tế trên cơ sở đa sở hữu. Giờ bỏ đi, tư nhân ai dám đầu tư nữa? Nhà máy điện, đường sá, hạ tầng cơ sở là những nút thắt cổ chai của nền kinh tế, ta đang thiếu, có phải là tư liệu sản xuất chủ yếu không? Nếu công hữu tư liệu sản xuất thì còn ai dám đầu tư nữa?Chủ trì điều hành phiên thảo luận, Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Phú Trọng, đề nghị đại hội phát huy dân chủ, có thêm những tranh luận qua lại với những vấn đề có ý kiến khác nhau, như vấn đề ông Phúc nêu trên.Tuy nhiên, chưa có ý kiến nào tranh luận tại phiên họp chiều qua,Nhấn mạnh chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất là vấn đề từng có nhiều ý kiến tranh luận, đầu phiên thảo luận sáng nay, đại biểu Lê Hữu Nghĩa, Ủy viên Trung ương Đảng, Giám đốc Học viện chính trị - hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh nhấn mạnh, “tôi tán thành với dự thảo Cương lĩnh”.Bởi, theo ông Nghĩa, thứ nhất, nói về chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất là nói về đặc trưng của chủ nghĩa xã hội khi đã xây dựng xong, còn trong thời kỳ quá độ thì khác.Hơn nữa Cương lĩnh nói rõ là công hữu các tư liệu sản xuất chủ yếu thôi chứ không phải tất cả các tư liệu sản xuất đều công hữu.“Nói đặc trưng này thì mới nói được đặc trưng cơ bản của quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa là gì chủ để phân biệt với quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa”, ông Nghĩa nhấn mạnh.Liên quan đến sự lo ngại của Bộ trưởng Phúc về thu hút đầu tư, ông Nghĩa khẳng định, “vấn đề đó tôi không lo ngại, vì nếu chúng ta có chính sách thông thoáng, rộng mở thì vẫn thu hút được đầu tư nước ngoài và khuyến khích kinh tế tư nhân phát triển”.“Cương lĩnh 1991 đã nói về công hữu tư liệu sản xuất rồi, nhưng từ đó đến nay 20 năm, chúng ta vẫn thu hút được rất nhiều đầu tư nước ngoài, kinh tế tư nhân vẫn có bước phát triển rất mới”, ông Nghĩa nói.Cũng theo ông Nghĩa, trước kia chúng ta coi nhẹ, muốn bóp nghẹt kinh tế tư nhân nhưng bây giờ chúng ta xác định kinh tế tư nhân là một trong những động lực phát triển của nền kinh tế. “Vì thế nói công hữu nhưng không ngại, 20 năm qua có phải vì công hữu mà các nhà đầu tư nước ngoài  ngại đầu tư, trong nước ngại phát triển kinh tế tư nhân đâu”.Cho rằng công hữu tư liệu sản xuất chủ yếu vấn đề lớn cần phải tiếp tục nghiên cứu, song ông Nghĩa cũng tỏ rõ quan điểm, nếu nói quan hệ sản xuất tiên tiến phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất “thì sẽ vướng về mặt lý luận, nó rất trừu tượng, không rõ là quan hệ sản xuất gì và mang đặc trưng gì”.“Chế độ nào cũng có quan hệ sản xuất phù hợp với chế độ đó cả, nên theo tôi nếu nói như vậy thì coi như không nói gì, coi như bằng không”, ông Nghĩa tranh luận.“Về các đặc trưng của xã hội chủ nghĩa mà dân ta đang xây dựng theo tôi còn là vấn đề mở, cần tiếp tục nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế, tìm tòi trong thực tiễn và đẩy mạnh nghiên cứu lý luận để bổ sung cho những đặc trưng đó”, ông Nghĩa kết thúc phần thảo luận của mình.Ngay sau đó, mở đầu phần phát biểu của mình, đại biểu Vũ Đức Huy, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Đảng ủy khối doanh nghiệp Trung ương cũng bày tỏ sự nhất trí với những phân tích của đại biểu Nghĩa về chế độ công hữu tư liệu sản xuất chủ yếu được nêu tại cương lĩnh.Chiều 14/1, Đại hội vẫn tiếp tục thảo luận tại hội trường về dự thảo các văn kiện.

Mục lục bài viết

  • Phân tích quá trình phát triển của pháp luật sở hữu tại Việt Nam
  • 1. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1959
  • 2. Giai đoạn từ năm 1959 đến năm 1980
  • 3. Giai đoạn từ năm 1980 đến năm 1992
  • 4. Giai đoạn từ năm 1992 đến năm 2013
  • 5. Giai đoạn từ năm 2013 đến nay

Chế độ sở hữu xã hội chủ nghĩa là chế độ công hữu về tư liệu sản xuất - cơ sở của quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa. Chế độ sở hữu xã hội chủ nghĩa gồm hai hình thức sở hữu cơ bản là sở hữu toàn dân [sở hữu nhà nước] và sở hữu tập thể - nền tảng của nền kinh tế xã hội chủ nghĩa.

Phân tích quá trình phát triển của pháp luật sở hữu tại Việt Nam

1. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1959

Cách mạng tháng Tám thành công, ngày 2/9/1945, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa - Nhà nước công nông kiểu mới đã ra đời. Do nhận thức được vai trò, ý nghĩa của pháp luật nói chung trong đời sống xã hội và đặc biệt của pháp luật dân sự nói riêng nên chỉ hơn một tháng sau ngày tuyên bố độc lập, ngày 10/10/1945, Hồ Chủ tịch đã kí sắc lệnh 90/SL quy định về việc tạm thời sử dụng các luật lệ cũ hiện hành ở Việt Nam. Theo tinh thần của sắc lệnh này, các bộ luật của chính quyền cũ [gồm Bộ dân luật giản yếu Nam Kì ban hành năm 1883, Bộ dân luật Bắc Kì ban hành năm 1931 và Bộ Hoàng Việt Trung Kì hộ luật thường gọi là Bộ dân luật Trung ban hành năm 1936] vẫn có hiệu lực thi hành dưới chế độ Việt Nam dân chủ cộng hòa, trong khi chờ đợi việc ban hành pháp luật mới.

Sau khi Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hòa thông qua bản Hiến pháp vào ngày 9/11/1946 thì các nguyên tắc cơ bản về quyền lợi và nghĩa vụ của công dân, quy định về sở hữu... đã được chính thức ghi nhận. Hiến pháp năm 1946 đã tạo cơ sở pháp lí và từ đây quyền sở hữu tài sản riêng công dân đã trở thành quyền hiến định.

Cùng vói việc ban hành hiến pháp mới và ghi nhận quyền sở hữu hợp pháp của công dân thì một trong những nhiệm vụ cấp bách của cách mạng Việt Nam lúc bấy giờ là phải xoá bỏ quyền sở hữu đối với các tư liệu sản xuất quan trọng của thực dân Pháp, của các đế quốc khác, các thể lực phản động và thù nghịch, của giai cấp địa chủ phong kiến. Mọi đặc quyền, đặc lợi của các thành phần phản động, bóc lột, ngoại kiều cũng bị xoá bỏ. Việc xây dựng một cơ sở kinh tế mới tập trung trong tay Nhà nước chính là cơ sở vật chất bảo đảm cho sự tồn tại và phát triển của thể chế chính trị mới.

Để thực hiện được nhiệm vụ đó, Nhà nước ta đã thực hiện hàng loạt các biện pháp thích ứng và đã ban hành nhiều văn bản pháp luật để chuyển các tư liệu sản xuất quan trọng vào tay Nhà nước.

Thông qua nhiều sắc lệnh như: sắc lệnh ngày 22/9/1945 về việc bãi bỏ các nghiệp đoàn của chế độ cũ trên toàn cõi Việt Nam. Sắc lệnh ngày 15/11/1945 về việc bãi bỏ quyền khai trương tuyến đường hoả xa Hải Phòng - Vân Nam; sắc lệnh ngày 22/1/1950 quy định về quyền phân phối các nguồn khoáng chất ttong nước; sắc lệnh ngày 30/5/1950 quy định việc trưng thu, trưng dụng và trưng tập trong thời kì kháng chiến V.V.. Trên thực tế, Nhà nước ta đã chuyển các xí nghiệp, hầm mỏ, hệ thống giao thông, bưu điện, các nguồn khoáng sản... thành sở hữu của Nhà nước.

Đặc biệt, bằng biện pháp kiên quyết, Nhà nước ta đã ban hành và thực hiện trên quy mô rộng lớn Luật cải cách ruộng đất [ngày 19/12/1953]. Tiến trình cách mạng trong những năm đầu của thập niên 50 đã từng bước thực hiện thành công khẩu hiệu "Người cày có ruộng". Đây là kết quả có ý nghĩa vô cùng quan trọng của cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân. Bước đầu đã xoá bỏ quyền sở hữu của địa chủ, phong kiến về đất đai đồng thời xác lập nên quyền sở hữu ruộng đất cho nhân dân lao động.

Ngoài việc ban hành các văn bản pháp luật nhằm xoá bỏ triệt để các hình thức sở hữu của chính quyền thực dân phong kiến thì trong giai đoạn này, trên cơ sở quy định của Hiên pháp năm 1946, Nhà nước ta cũng ban hành các văn bản pháp luật nhằm bảo vệ quyền sở hữu hợp pháp của công dân: sắc lệnh số 97/SL ngày 22/5/1950 về việc sửa đổi một sô quy lệ và chế định trong dân luật; sắc lệnh số 85/SL ngày 20/2/1952 ban hành thể lệ trước bạ về việc mua bán, cho và đổi nhà cửa, ruộng đất; Nghị định số 47/NĐ ngày 12/6/1958 của Bộ giao thông và bưu điện ban hành quy định điều lệ tạm thời về việc đăng kí các phương tiện vận tải đường sông, thuyền buồm đi biển V.V..

Nhìn chung, "Quyền tư hữu tài sản của công dân Việt Nam được bảo đảm” [Điều 12 Hiến pháp năm 1946] nhưng theo một tinh thần hoàn toàn mới. Đó là người ta chỉ được hưởng dụng và sừ dụng các vật thuộc quyền sở hữu của mình một cách hợp pháp và không thiệt hại đến quyền lợi của nhân dân [Điều 12, Sắc lệnh số 97/SL].

Pháp luật về sở hữu giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1959 đã tạo ra những tiền đề quan ưọng trong việc xác lập quan hệ sở hữu mới dưới chính quyền dân chủ nhân dân.

2. Giai đoạn từ năm 1959 đến năm 1980

Sau khi kết thúc thắng lợi chiến dịch Điện Biên Phủ, cách mạng Việt Nam bước sang giai đoạn mới. Miền Bắc tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, miền Nam tiếp tục tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong điều kiện mới.

Ở miền Nam, dưới các chính thể của ngụy quyền Sài Gòn, pháp luật dân sự nói chung và pháp luật về sở hữu nói riêng vẫn áp dụng hai bộ dân luật cũ tại Nam Kì và Trung Kì. Năm 1972, chính quyền Nguyễn Văn Thiệu ban hành Bộ dân luật, thực chất của Bộ dân luật năm 1972 cũng là việc rút tỉa những nguyên tắc đại cương của Bộ dân luật Pháp năm 1804. Quyền tư hữu tài sản trong Bộ dân luật năm 1972 cũng được coi là quyền tuyệt đối.

Ở miền Bắc, cùng với việc ban hành hiến pháp mới [Hiến pháp năm 1959], Nhà nước ta đã hoàn thành một cách cãn bản công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa. Nhiệm vụ then chốt trong giai đoạn này là: Xác lập và hoàn thiện chế độ sở hữu xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc. Điều 12 Hiến pháp năm 1959 đã khẳng định: "Kinh tế quốc doanh thuộc sở hữu toàn dân, giữ vai trò lãnh đạo trong nền kinh tế quốc dân và được Nhà nước bảo đảm phát triển ưu tiên.

Các hầm mỏ, sông ngòi và những rừng cây, đất hoang, tài nguyên khác mà pháp luật quy định là của Nhà nước, đều thuộc sở hữu toàn dân".

Trong giai đoạn này, bên cạnh hình thức sở hữu nhà nước còn tồn tại nhiều hình thức sở hữu khác như: Sở hữu của các nhà tư sản dân tộc, của những người tiểu thương, thợ thủ công, hộ nông dân cá thể V.V.. Chính vì vậy, Hiến pháp năm 1959 đã xác nhận và bảo hộ những hình thức sở hữu chủ yếu về tư liệu sản xuất là: Hình thức sở hữu nhà nước [tức là sở hữu toàn dân], hình thức sở hữu của hợp tác xã [tức là sở hữu tập thể của nhân dân lao động], hình thức sở hữu của người lao động riêng lẻ và hình thức sở hữu của nhà tư sản dân tộc [Điều 11 Hiến pháp năm 1959].

Mục đích cơ bản của chính sách kinh tế của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa là "phát triển và cải tạo nền kinh tế quốc dân theo chủ nghĩa xã hội" [Điều 9 Hiến pháp năm 1959]. Để thực hiện chính sách lớn của Đảng và Nhà nước trong giai đoạn này là: Cải tạo xã hội chủ nghĩa, thực hiện chủ trương xoá bỏ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, tiến hành công hữu hoá tư liệu sản xuất dưới hai hình thức sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể, xoá bỏ hoàn toàn việc người bóc lột người thông qua các quan hệ tư hữu... Nhà nước ta đã ban hành một loạt các văn bản pháp luật để thực hiện mục tiêu trên. Các văn bản đã được ban hành gồm: >

Nghị định số 19/CP ngày 29/6/1960 của Hội đồng Chính phủ về chính sách đối với việc cho thuê nhà của tư nhân ở các tỉnh, thành phố và thị xã; Nghị định số 115/CP ngày 29/7/1964 quy định về điều lệ cho thuê nhà ở thành phố, thị xã; Quyết định số 188/CP về chính sách xoá bỏ triệt để tàn tích chiếm hữu ruộng đất và các hình thức bóc lột thực dân, phong kiến ở miền Nam Việt Nam; Nghị định số 111/CP ngày 14/4/1977 về chính sách quản lí và cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nhà, đất cho thuê ở các đô thị các tỉnh phía Nam... Cùng với các văn bản pháp luật nhằm cải tạo và công hữu hoá tư liệu sản xuất, Nhà nước ta còn ban hành pháp luật nhằm bảo vệ chế độ sở hữu xã hội chủ nghĩa đã được xác lập [Pháp lệnh ngày 21/10/1970 trừng trị các tội xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa].

Do bối cảnh lịch sử giai đoạn từ năm 1954 đến năm 1975 đất nước bị phân chia làm hai miền với hai chế độ chính trị khác nhau, nên pháp luật về sở hữu ở miền Bắc trong giai đoạn này có tính chất mềm dẻo trong một số mặt để thực hiện chính sách đoàn kết dân tộc. Tính chưa triệt để ttong pháp luật về sở hữu thời kì này thể hiện: Khi chúng ta thực hiện cải tạo xã hội chủ nghĩa thì trong một chừng mực nhất định, Nhà nước vẫn bảo hộ quyền sở hữu về ruộng đất và các tư liệu sản xuất khác của các hộ nông dân cá thể, người làm thợ thủ công và những người lao động riêng lẻ khác [Điều 14, 15 Hiến pháp năm 1959]. Trong quá trình thực hiện chính sách này, Thủ tướng Chính phủ cũng đã có Thông tư số 48/TTg ngày 3/6/1963 hướng dẫn về việc chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật bảo đảm quyền tư hữu về tư liệu sản xuất ở nông thôn. Nhà nước cũng đã ban hành Pháp lệnh ngày 21/10/1970 để trừng trị các tội xâm phạm tài sản riêng của công dân.

Pháp luật về sở hữu trong giai đoạn này chưa xác nhận việc công hữu hoá hoàn toàn đất đai [theo quy định của Hiến pháp năm 1959] nên quyền tư hữu của các hộ nông dân cá thể vẫn được Nhà nước bảo hộ cùng với những quyền sở hữu tài sản khác. Tuy nhiên, Nhà nước nghiêm cấm việc lợi dụng tài sàn tư hữu để làm rối loạn nền kinh tể của xã hội, phá hoại kế hoạch kinh tế nhà nước.

Mặc dù còn có những hạn chế do hoàn cảnh lịch sử lúc bấy giờ nhưng pháp luật về sở hữu vẫn là một công cụ pháp lí quan trọng và có hiệu quả để Nhà nước thực hiện các chủ trương xoá bỏ tư hữu về tư liệu sản xuất, thực hiện chỉnh sách cải tạo xã hội chủ nghĩa và công hữu tư liệu sản xuất; thực hiện các nghị quyết của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III, thứ IV của Đảng là vừa xây dựng, vừa cải tạo, ttong cải tạo có xây dựng... Các văn bản pháp luật về sở hữu trong giai đoạn này đã tạo ra tiền đề quan trọng có ý nghĩa to lớn ttong thời kì tiếp theo.

3. Giai đoạn từ năm 1980 đến năm 1992

Để đáp ứng yêu cầu và phù hợp với tình hình cách mạng ttong giai đoạn này, năm 1980 Quốc hội đã ban hành bản Hiến pháp mới. Hiến pháp năm 1980 đã ghi nhận những định hướng chiến lược và trở thành cơ sở pháp lí để xây dựng hệ thống pháp luật nói chung và pháp luật về sở hữu nói riêng.

Là luật cơ bản của Nhà nước, Hiển pháp năm 1980 đã ghi nhận phạm vi và bản chất của sở hữu nhà nước mà các bản Hiến pháp năm 1946, năm 1959 chưa quy định. Đó là việc khẳng định: Đất đai, rừng núi, sông hồ, hàm mỏ, tài nguyên thiên nhiên trong lòng đất, ở vùng biển và thềm lục địa, các xí nghiệp cồng nghiệp, nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, thương nghiệp quốc doanh; ngân hàng và tổ chức bảo hiểm; công trình phục vụ lợi ích công cộng; hệ thong đường sắt, đường bộ, đường không... đều thuộc sở hữu toàn dân [Điều 19 Hiến pháp năm 1980].

Bản Hiến pháp năm 1980 đã ghi nhận các chế độ sở hữu đang tồn tại ở nước ta bao gồm các hình thức: Sở hữu nhà nước hay còn gọi là sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể và sở hữu của công dân [quy định trong các điều 18, 19, 23, 24, 27]. Hiến pháp năm 1980 còn quy định một cách cụ thể về các loại khách thể của những hình thức sở hữu nhất định và ưu tiên cho hai hình thức sở hữu được xác định là sở hữu then chốt. Điều 18 Hiến pháp năm 1980 đã quy định: "Thiết lập và củng cố chế độ sở hữu xã hội chủ nghĩa về tư liệu sản xuất nhằm thực hiện một nền kinh tế quốc dân chủ yếu có hai thành phần: thành phần kinh tế quốc doanh thuộc sở hữu toàn dân và thành phần kinh tế hợp tác xã thuộc sở hữu tập thể của nhân dân lao động".

Nhằm cụ thể hoá việc thực hiện Hiến pháp, các vãn bản pháp luật về sở hữu ttong những năm đầu của thập kỷ 80 vẫn tiếp tục thực hiện chính sách cải tạo xã hội chủ nghĩa trong việc thiết lập và củng cố chế độ sở hữu xã hội chủ nghĩa. Theo quy định của Hiến pháp, các văn bản pháp luật đã quy định việc giao quyền sừ dụng đất đai [gồm cả đất rừng, đất thổ canh...] cho người sử dụng để khai thác giá trị của đất nhưng phải bảo đảm quyền quản lí của Nhà nước: Quyết định số 201/CP ngày 1/7/1980 của Hội đồng Chính phủ về việc thống nhất quản lí ruộng đất và tăng cường công tác quản lí ruộng đất trong cả nước; Quyết định số 184/HĐBT ngày 6/11/1982 của Hội đồng bộ trưởng [nay là Chính phủ] về việc đẩy mạnh giao đất, giao rừng cho tập thể và nhân dân trồng cây, gây rừng.

Đặc biệt, từ khi thực hiện chính sách đổi mới của Đảng, Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản pháp luật về sở hữu. Pháp luật về sở hữu giai đoạn này đã quy định rõ các quyền và nghĩa vụ của chủ sở hữu trong các trường hợp cụ thể; đã xử lí đúng đắn vấn đề lợi ích nên đã trở thành động lực thúc đẩy giao lưu dân sự trong điều kiện nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lí của Nhà nước phát triển mạnh mẽ. Ví dụ: Pháp lệnh về thừa kế ngày 10/9/1990; Pháp lệnh về nhà ở ngày 26/3/1991; Luật đất đai năm 1987; Pháp lệnh bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp ngày 11/2/1989...

Ngoài ra, dưới góc độ lập pháp cũng cần phải thấy rằng hiệu lực pháp lí của các văn bản pháp luật về sở hữu ban hành trong thời kì từ năm 1980 đến năm 1992 cao hơn so với thời kì trước năm 1980, do đó tính ổn định cao hơn. Điều này đã tạo ra tâm lí yên tâm và tin tưởng vào sự bảo hộ của pháp luật đối với các quan hệ sở hữu. Qua quá trình áp dụng trong thực tế, các văn bản pháp luật về sở hữu giai đoạn này đã phản ánh đúng quy luật khách quan và có tính khả thi nên phần lớn được Luật đất đai sửa đổi và BLDS ghi nhận.

4. Giai đoạn từ năm 1992 đến năm 2013

Dưới ánh sáng của nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng cộng sản Việt Nam, công cuộc đổi mới toàn diện ở đất nước ta đã đạt được những thành tựu bước đầu vô cùng quan trọng, nhất là trong những năm đầu của thập niên 90 của thế kỉ trước. Để đáp ứng nhu càu của tình hình và nhiệm vụ mới, Quốc hội đã quyết định ban hành Hiến pháp năm 1992. Hiến pháp năm 1992 [được Quốc hội thông qua ngày 15/4/1992] đã kế thừa những quy định của các bản Hiến pháp trước đây và đã xác nhận chế độ kinh tế của nước ta bao gồm ba hình thức sở hữu chủ yếu. Điều 15 Hiến pháp năm 1992 ghi nhận: "Nhà nước phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lí của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần với các hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh đa dạng dựa trên chế độ sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân, trong đó sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể là nền tảng".

Với xu thế phát triển của một nền kinh tế đa dạng, Hiến pháp năm 1992 đã xác nhận sự tồn tại của hình thức sở hữu tư nhân, nhiều thành phần kinh tế khác nhau cùng tồn tại và phát triển. Để tạo điêu kiện cho lực lượng sản xuất phát triển mạnh mẽ, Nhà nước chủ trương cho các thành phần kinh tế thuộc sở hữu tư nhân phát triển với nhiều hình thức tổ chức kinh doanh đa dạng. Mức độ và phạm vi của sở hữu tư nhân ngày càng được mở rộng. Điều 21 Hiến pháp năm 1992 quy định: "Kinh tế cá thể, kình tế tư bản tư nhân được chọn hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh, được thành lập doanh nghiệp không bị hạn chế về quy mô hoạt động trong những ngành nghề có lợi cho quốc kế dân sinh".

Tuy nhiên, Nhà nước vẫn luôn luôn xác định vai trò nền tảng của hình thức sở hữu toàn dân và sờ hữu tập thể; xác định kinh tế quốc doanh [thuộc sở hữu toàn dân] phải là thành phần kinh tế giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân.

Đối với việc sở hữu tư liệu sản xuất quan ttọng là đất đai, Điều 18 Hiến pháp năm 1992 vẫn tiếp tục khẳng định: "Nhà nước thong nhất quản lí toàn bộ đất đai theo quỵ hoạch và pháp luật, bảo đảm sử dụng đúng mục đích và có hiệu quả". So với Hiến pháp năm 1980, Hiến pháp năm 1992 quy định cụ thể về việc sử dụng đất. Đó là: Nhà nước giao đất cho các tổ chức và cá nhân sử dụng ổn định lâu dài; người sử dụng được chuyển quyền sử dụng đất được Nhà nước giao theo quy định của pháp luật.

Quy định trên đây của Hiến pháp năm 1992 đã tạo cơ sở pháp lí cho việc sửa đổi Luật đất đai năm 1987. Quyền sử dụng đất đã được coi là quyền tài sản có giá trị và có thể chuyển giao được trong giao lưu dân sự. Tinh thần trên của Hiến pháp năm 1992 đã được cụ thể thành năm quyền của người sử dụng đất trong Luật đất đai năm 1993 là: Quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, thế chấp, thừa kế quyền sử dụng đất. Sau này khi ban hành BLDS, năm quyền cơ bản trên đây cũng được Phần thứ năm của BLDS năm 1995 và BLDS năm 2005 ghi nhận.

Thành tựu lập pháp cao nhất trong lĩnh vực sở hữu đó là các quy định về tài sản và quyền sở hữu tại Phần thứ hai BLDS. Với các quy định tương đối đầy đủ và hoàn thiện về sở hữu chắc chắn sẽ tạo ra những tiền đề thuận tiện cho việc ổn định và phát triển các quan hệ hàng hoá tiền tệ trong nền kinh tế thị trường nhiều thành phần có sự quản lí của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Các quy định cụ thể về tài sản và quyền sở hữu trong Phần thứ hai BLDS là những "chuẩn mực" pháp lí ổn định, tạo ra hành lang pháp lí an toàn có hiệu lực pháp luật cao sẽ hướng cho quan hệ tài sản phát triển trong một môi trường ổn định và thuận lợi.

Nhìn lại những quy định pháp luật về sở hữu trong giai đoạn từ năm 1992 đến nay chúng ta thấy rằng pháp luật về sở hữu nói riêng và pháp luật về dân sự nói chung của Việt Nam đã xích lại gần pháp luật các nước, phù hợp với thông lệ và tập quán quốc tế. Pháp luật về sở hữu ổn định, có giá trị pháp lí cao sẽ là yếu tố tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Điều này có ý nghĩa vô cùng quan trọng khi giao lưu quốc tế ngày càng mở rộng và nước ta đã trở thành thành viên chính thức của ASEAN, WTO.

5. Giai đoạn từ năm 2013 đến nay

Ngày 28 tháng 11 năm 2013, tại kì họp thứ 6, Quốc hội Khoá XIII đã thông qua Hiến pháp năm 2013. Nội dung của Hiến pháp năm 2013 khẳng định: “nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu... các thành phần kinh tế đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân. Các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật” [Điều 51].

Vẫn tiếp tục phát triển nền kinh tế đa dạng, nhiều thành phần, Hiến pháp năm 2013 thể hiện rõ định hướng xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, phát huy nội lực của các thành phần khác nhau. Đây chính là nền tảng pháp lí bền vững để tạo điều kiện cho các quan hệ sở hữu được phát triển trên cơ sở tôn trọng sự bình đẳng, tiến bộ.

Hiến pháp năm 2013 nhấn mạnh vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước và khẳng định sở hữu toàn dân đối với các tài sản mang ý nghĩa kinh tế lớn, ý nghĩa về an ninh quốc phòng: “đất đai, tài nguyên nước, tài nguyên khoáng sản, nguồn lợi ở vùng biển, vùng trời, tài nguyên thiên nhiên khác và các tài sản do Nhà nước đầu tư, quản lí là tài sản công thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thổng nhất quản lí” [Điều 53].

BLDS năm 2015 được thông qua vào ngày 24/11/2015 và có hiệu lực bắt đầu từ ngày 01//01/2017 thấm nhuần định hướng của Hiến pháp năm 2013. BLDS năm 2015 với sáu Phần, 689 Điều đã thể hiện những nội dung rất tiến bộ và hiện đại liên quan đến quan hệ sở hữu. Theo đó, lần đầu tiên, chiếm hữu được ghi nhận ttong bộ luật, bên cạnh giá trị là một quyền năng thuộc quyền sở hữu, là một trạng thái pháp lí và người chiếm hữu được bảo vệ quyền của họ đối với tài sản họ đang chiếm hữu. BLDS năm 2015 cũng lần đầu tiên quy định bên cạnh quyền sở hữu của chủ sở hữu đối với tài sản có quyền của các chủ thể khác như quyền bề mặt, quyền hưởng dụng. Quyền đối với bất động sản liền kề được quy định theo hướng khái quát và chính xác hơn khi xác định đó là quyền gắn liền với bất động sản và không thay đổi cho dù chủ sở hữu của bất động sản có thay đổi.

BLDS năm 2015 với những quy định sửa đổi và bổ sung so với quy định của BLDS năm 2005 về tài sản và sở hữu đã mở ra hành lang pháp lí tiến bộ, là cơ sở để các chủ thể có thể khai thác tối đa lợi ích của tài sản và đem lại các giá ttị vật chất, góp phần phát triển xã hội.

Mọi vướng mắc pháp lý về luật dân sự về chế độ sở hữu cũng như các vấn đề khác liên quan ... Hãy gọi ngay: 1900.6162 để được Luật sư tư vấn pháp luật dân sự, thừa kế trực tuyến.

Trân trọng./.

Bộ phận tư vấn pháp luật dân sự - Công ty luật Minh Khuê

Video liên quan

Chủ Đề