Dầu mỏ nơi phân bố ở đâu

Tây Nam Á có lượng dầu thô khai thác rất lớn, sản lượng cao nhất trong các khu vực [21356,6 nghìn thùng/ngày]. Chiếm hơn 50% trữ lượng dầu mỏ thế giới, Tây Nam Á là khu vực cung cấp phần lớn lượng dầu thô trên thị trường thế giới.

Tây Nam Á là khu vực nằm ở Tây Nam của châu Á. Tây Nam Á được biết đến là khu vực có trữ lượng dầu mỏ lớn, chiếm hơn 50% trữ lượng dầu mỏ thế giới. Vậy Các mỏ dầu của khu vực Tây Nam Á phân bố chủ yếu ở đâu?

Câu hỏi: Các mỏ dầu của khu vực Tây Nam Á phân bố chủ yếu ở đâu?

A. Phía bắc khu vực.

B. Ven biển phía nam

C. Ven vịnh Pec – xích.

D. Ven biển Địa Trung Hải.

Đáp án: Đáp án đúng là đáp án: C. Các mỏ dầu của khu vực Tây Nam Á phân bố chủ yếu ở Ven vịnh Pec – xích.

Lý giải việc chọn đáp án C là đáp án đúng

Nguồn tài nguyên quan trọng nhất ở khu vực Tây Nam Á là dầu mỏ và khí tự nhiên. Các mỏ dầu của khu vực Tây Nam Á phân bố chủ yếu ở Ven vịnh Pec – xích.

Tây Nam Á có lượng dầu thô khai thác rất lớn, sản lượng cao nhất trong các khu vực [21356,6 nghìn thùng/ngày]. Chiếm hơn 50% trữ lượng dầu mỏ thế giới, Tây Nam Á là khu vực cung cấp phần lớn lượng dầu thô trên thị trường thế giới.

Hiện nay nhu cầu sử dụng dầu mỏ và khí tự nhiên của thế giới rất lớn, Tây Nam Á có khả năng cung cấp hơn 40% nhu cầu dầu mỏ của thế giới.

Việc nắm giữ trữ lượng dầu mỏ lớn mang đến nguồn thu rất lớn cho các nước Tây Nam Á, giúp thu về nhiều lợi nhuận từ xuất khẩu dầu mỏ.

Tuy nhiên cũng có nhiều khó khăn do việc sở hữu trữ lượng dầu mỏ lớn đó là Tây Nam Á trở thành mục tiêu nhòm ngó của nhiều cường quốc, nhiều tổ chức nhằm thao túng, giành giật quyền lợi từ dầu mỏ dẫn đến tình trạng bất ổn định về chính trị.

Giải thích nguyên nhân không chọn các phương án còn lại

Các phương án còn lại chưa đúng vì các lý do cụ thể như sau:

+ Phương án A. Các mỏ dầu của khu vực Tây Nam Á phân bố chủ yếu ở Phía bắc khu vực là đáp án sai, bởi vì khu vực có nhiều mỏ dầu của khu vực Tây Nam Á là ven vịnh Pec – xích.

+ Phương án B. Các mỏ dầu của khu vực Tây Nam Á phân bố chủ yếu ở Ven biển phía nam là đáp án chưa chính xác, bởi vì khu vực có nhiều mỏ dầu của khu vực Tây Nam Á là ven vịnh Pec – xích.

+ Phương án D. Các mỏ dầu của khu vực Tây Nam Á phân bố chủ yếu ở Ven biển Địa Trung Hải là đáp án chưa chính xác, bởi vì khu vực có nhiều mỏ dầu của khu vực Tây Nam Á là ven vịnh Pec – xích.

Như vậy, đáp án đúng và đầy đủ nhất là đáp án C. Các mỏ dầu của khu vực Tây Nam Á phân bố chủ yếu ở Ven vịnh Pec – xích.

1. Ả rập Saudi [trữ lượng dầu mỏ : 264,5 tỷ thùng]

{jcomments off}

Sản lượng dầu khai thác hiện nay khoảng 8,7 triệu thùng một ngày, là nguồn thu nhập chính của quốc gia, chiếm 75% thu ngân sách và 90% giá trị xuất khẩu. Hiện nay Arập Xêút là nước xuất khẩu dầu mỏ lớn nhất và giữ vai trò chủ chốt trong OPEC. Có khoảng 4 triệu công nhân, chuyên gia nước ngoài làm việc trong ngành dầu mỏ và dịch vụ tại Arập Xêút.

2. Venezuela với 211,1 tỷ thùng.

Hãng tin Blommberg ngày 19-3 cho biết, với trữ lượng dầu thô đã kiểm chứng tính đến cuối năm 2009 đạt 211,173 tỷ thùng, Venezuela chính thức trở thành quốc gia sở hữu trữ lượng dầu mỏ thứ 2 thế giới, sau Saudi Arabia [266 tỷ thùng].

Trước đó, Venezuela đứng thứ tư trong số các nước có trữ lượng dầu thô lớn nhất thế giới, sau Saudi Arabia [264 tỷ thùng], Iraq [113 tỷ thùng] và Kuwait [94 tỷ thùng]. Năm 2005, Venezuela đã phát động “dự án xã hội chủ nghĩa” nhằm tăng trữ lượng dầu thô lên 314 tỷ thùng. Nếu dự án này thành công, Venezuela sẽ trở thành quốc gia có trữ lượng “vàng đen” lớn nhất thế giới.

3. Iran với 150, 31 tỷ thùng

Bộ trưởng Dầu mỏ Iran Massoud Mir Kazemi ngày 11/10/2010 thông báo, trữ lượng dầu thô được kiểm định của nước này đã tăng 9% lên 150,31 tỷ thùng – lớn thứ 3 thế giới, nhờ phát hiện những mỏ dầu mới.

Trữ lượng dầu thô của Iran cho đến trước đó ước đạt 138 tỷ thùng. Ông Kazemi nhấn mạnh: "Chúng tôi đang tiếp tục tính toán. Số liệu này được lấy từ một báo cáo sáu tháng dựa vào thông tin liên quan đến sản xuất và phát hiện những mỏ dầu mới."

Iran là nước xuất khẩu dầu lớn thứ hai OPEC và chiếm 10% trữ lượng dầu thế giới, song nước này phải phụ thuộc lớn vào nguồn xăng nhập khẩu, vì các nhà máy lọc dầu hoạt động không đúng công suất thiết kế.

Theo ông Kazemi, để đối phó với những biện pháp trừng phạt mới của các cường quốc thế giới nhằm vào lĩnh vực xăng dầu của Iran, Tehran đã xúc tiến một kế hoạch khẩn cấp đặt mục tiêu ngày 20/3/2011 có thể tự túc về xăng.

4. Iraq [trữ lượng dầu mỏ : 115 tỷ thùng]

Trong buổi họp báo ngày 4/10/2010 tại thủ đô Baghdad, Bộ trưởng Dầu mỏ Iraq Hussein al-Shahristani cho biết trữ lượng dầu mỏ của nước này đã tăng lên mức hơn 143 tỷ thùng.

Iraq đã có 66 mỏ dầu, 71% trữ lượng dầu tập trung ở miền Nam nước này, 20% ở miền Bắc và 9% ở khu vực miền Trung.

Tại Iraq, 95% thu nhập của chính phủ phụ thuộc vào xuất khẩu dầu mỏ. Trữ lượng dầu tăng mạnh tạo đà cho Iraq thúc đẩy tăng trưởng kinh tế cũng như xây dựng lại cơ sở hạ tầng cũ kỹ sau nhiều thập kỷ trì trệ do xung đột và các lệnh trừng phạt của quốc tế.

Hiện, sản lượng dầu của Iraq đạt 2,4 triệu thùng/ngày. Với các hợp đồng ký với các công ty nước ngoài năm ngoái nhằm khai thác 10 mỏ dầu, Iraq hy vọng có thể tăng gấp năm lần sản lượng hiện nay.

5. Canada: gần 100 tỷ thùng

Canada là một trong số ít các quốc gia phát triển có xuất khẩu ròng [xuất khẩu nhiều hơn nhập khẩu] năng lượng, trong đó dầu mỏ là mặt hàng chiến lược. Nước này cũng là nước tiêu thụ năng lượng bình quân đầu người cao nhất thế giới, nhất là về mùa đông. Nước này do nằm ở vĩ độ cao nên mùa đông rất lạnh, dân phải dùng nhiều khí đốt để sưởi ấm nhà.

Canada là nước có ngành công nghiệp nhôm rất phát triển ở bang Quebec, Alberta do có nguồn nhiên liệu dồi dào.

6. Kuwait [trữ lượng dầu mỏ : 104 tỷ thùng]

Kuwait là một quốc gia tại Trung Đông.Nằm trên bờ Vịnh Péc-xích[Persia], giáp với Arập-Xêút ở phía nam và với Irắc ở hướng Tây và hướng Bắc. Tên nước được rút ra từ trong tiếng Ả Rập có nghĩa là "Pháo đài được xây dựng gần nước". Dân số gần 3.1 triệu người và diện tích lên đến 17.818 km².

7. Các tiểu vương quốc Ảrập thống nhất [UAE] [trữ lượng dầu mỏ : 97,8 tỷ thùng]

Các Tiểu Vương quốc Ả Rập Thống nhất [cũng gọi là Emirates hay UAE, viết tắt tiếng Anh của United Arab Emirates] là một nước ở vùng Trung Đông nằm ở phía đông nam Bán đảo Ả Rập tại Tây Nam Á trên Vịnh Péc xích, gồm bảy tiểu vương quốc: Abu Dhabi, Ajmān, Dubai, Fujairah, Ras al-Khaimah, Sharjah và Umm al-Qaiwain.

Trước năm 1971, các nước này được gọi là Các quốc gia ngừng bắn hay Oman ngừng bắn, có liên quan tới một sự ngừng bắn ở thế kỷ 19 giữa Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland và một số sheikh Ả Rập.

8. Nga [trữ lượng dầu mỏ : 60 tỷ thùng]

Nga hay Liên Bang Nga là quốc gia rộng nhất thế giới trải dài từ miền đông châu Âu, qua trên phía bắc châu Á, sang đến bờ Thái Bình Dương.

9. Libya [trữ lượng dầu mỏ: 41,46 tỷ thùng]

Libya là một quốc gia tại Bắc Phi. Nước này có biên giới giáp với Địa Trung Hải ở phía bắc, Ai Cập ở phía đông, Sudan ở phía đông nam, Tchad và Niger ở phía nam, Algérie và Tunisia ở phía tây.

Với diện tích hơi lớn hơn bang Alaska, Libya là nước lớn thứ tư ở châu Phi và thứ 17 trên thế giới. Thủ đô của Libya là thành phố Tripoli, với 1,7 triệu trong tổng số 5,8 triệu dân cả nước. Ba khu vực truyền thống của quốc gia này là Tripolitania, Fezzan và Cyrenaica.

Libya có mức thu nhập kinh tế quốc dân trên đầu người cao nhất Bắc Phi, cũng như là một trong những nước có mức GDP trên đầu người cao ở châu Phi dù nước này có tổng diện tích 1,8 triệu kilômét vuông, 90% trong đó là sa mạc.

10. Nigeria [trữ lượng dầu mỏ : 36,2 tỷ thùng]

Nigeria, tên chính thức là Cộng hòa Liên bang Nigeria [tiếng Anh: Federal Republic of Nigeria] là một quốc gia thuộc khu vực Tây Phi đồng thời cũng là nước đông dân nhất tại châu Phi và đông dân thứ 9 trên thế giới.

Theo số liệu tháng 7 năm 2007, dân số của Nigeria là 135 031 164 người, mật độ dân số khoảng 139 người/km². Nigeria giáp với Benin về phía tây, với Niger về phía bắc, với Chad về phía đông bắc và với Cameroon về phía đông. Phía nam Nigeria là Vịnh Guinea, một bộ phận của Đại Tây Dương.

Nguồn VietNamNet

Page 2

TTCT - Trữ lượng dầu khí luôn là một trong những thông số cơ bản của các tính toán kinh tế dựa trên dầu khí, nhất là khi doanh

thu từ xuất khẩu dầu thô
chiếm 22-28% tổng thu nộp ngân sách VN hằng năm [số liệu Vietsovpetro].

Một số nước xuất khẩu dầu một thời oanh liệt, như Nigeria hay Indonesia, trong những năm sau này đã lâm cảnh khó khăn xăng dầu [ở Indonesia đã có một dạo bất ổn xã hội vì dân chúng phản đối tăng giá dầu] do đã không quản lý tốt nguồn tài nguyên này, không đẩy mạnh công tác thăm dò dầu khí, cũng như do đã không “quản” nổi nạn tham nhũng [như ở Nigeria]. Dầu hỏa và khí đốt của VN ra sao? [Còn] nhiều hay ít?

Dầu

Trong thực tế sản lượng dầu ở VN đã bắt đầu giảm: năm 2005, sản lượng dầu thô của VN bình quân khoảng 370.000 thùng/ngày, thấp hơn so với năm 2004 [vốn là 403.000 thùng/ngày] gần 10%. Việc giảm sản lượng dầu năm 2004-2005 là do giảm sản xuất tại mỏ Bạch Hổ [nguồn: Bộ Năng lượng Hoa Kỳ EIA/DOE] bởi phần lớn sản lượng dầu thô của VN là từ mỏ Bạch Hổ.

Điều này đã được dự báo từ lâu. “Theo dự báo của các chuyên gia dầu khí, từ nay đến năm 2005 sản lượng dầu thô của VN có thể đạt 16 triệu tấn/năm, sau đó sẽ giảm rất nhanh nếu không tìm kiếm thêm được những nguồn dầu mới. Các chuyên gia cũng cho rằng khả năng phát hiện những mỏ dầu lớn như Bạch Hổ ở VN là rất thấp và chỉ có thể còn những mỏ nhỏ, trữ lượng ít” [nguồn: TTXVN 16-3-2001].

Theo Petro Vietnam, tính đến tháng 1-2000, trữ lượng dầu và khí của VN là 2,7 tỉ thùng và 12.800 tỉ bộ khối [Tcf], đứng ở vị trí 35 và 42 trong số các quốc gia trên thế giới. Số liệu này khác với số liệu của Oil and Gas Journal, theo đó VN có 600 triệu thùng dầu dự trữ. Nếu căn cứ trên hai con số này, sẽ thấy số ngày còn dầu để khai thác, theo tốc độ hiện nay:

- 2,7 tỉ thùng: 0,370 triệu thùng/ngày = 7.297 ngày [tức khoảng > 20 năm].

- 600 triệu thùng: 0,370 triệu thùng/ngày = 1.621 ngày [tức khoảng 4,5 năm].

Tất nhiên, có những lý do giải thích việc sản lượng “khựng lại”. Từ 20 năm qua, Vietsovpetro [VSP] - một liên doanh giữa Petro Vietnam và Zarubezhneft [Nga] - đã không ngừng khai thác mỏ Bạch Hổ. Đã có một giai đoạn do những yếu tố lịch sử, các hoạt động thăm dò đã chỉ trong tay một, hai công ty như trong thời kỳ 1981-1988: “Đây là khoảng thời gian dài vắng bóng các công ty dầu khí nước ngoài hoạt động trên thềm lục địa VN” [nguồn: Petro Vietnam].

Giai đoạn tiếp theo lạc quan hơn: “Sau 13 năm thực hiện Luật đầu tư nước ngoài năm 1987 và bảy năm thực hiện Luật dầu khí [sửa đổi vào năm 2000], VN đã thu hút được 3 tỉ USD đầu tư nước ngoài vào ngành công nghiệp dầu khí [chủ yếu cho công tác tìm kiếm thăm dò]...” [nguồn đã dẫn].

Kết quả là: “Năm 2002, các mỏ Cá Ngừ Vàng [Golden Tuna] và Voi Trắng [White Elephant] được loan báo, trong đó riêng Cá Ngừ Vàng có trữ lượng 250 triệu thùng. Tháng 4-2003, Petro Vietnam phát hiện tại mỏ Đại Hùng một khả năng sản xuất khoảng 6.300 thùng/ngày. Đầu năm 2004, một phát hiện khác tại lô số 15-1 mỏ Sư Tử Trắng [White Lion] với khoảng 8.682 thùng/ngày, có thể đưa vào sản xuất năm 2008. Tháng 7-2004, VSP phát hiện thêm dầu tại mỏ Rồng.

Ba tháng sau, một liên doanh gồm American Technologies, Petronas, Singapore Petroleum và Petro Vietnam loan báo phát hiện một mỏ dầu có trữ lượng 100 triệu thùng tại bờ biển phía Bắc. Cũng tháng 10-2004, các hãng dầu Nhật Bản Nippon Oil Exploration, Idemitsu Kosan và Teikoku Oil [30 percent] loan báo kế hoạch góp vốn vào các lô 05.1b và 05.1c tại bồn trũng Nam Côn Sơn.

Hai tháng sau, Hãng dầu Korean National Oil Corporation [KNOC] của Hàn Quốc cùng các công ty dầu khác cũng của Hàn Quốc quyết định đầu tư 300 triệu USD cho việc triển khai tại lô 11-2. Tháng 10-2005, Hãng dầu ONGC của Ấn Độ được cấp giấy phép tại lô 127 ở bồn trũng Phú Khánh cùng lúc với Hãng dầu ChevronTexaco của Mỹ tại lô 122 ở đây [nguồn: EIA/DOE].

Các nỗ lực thăm dò trên cho thấy có nhiều triển vọng tăng trữ lượng dầu, do những nỗ lực “đa phương hóa” trong lĩnh vực kinh tế quan trọng này. Nếu so với trước [chỉ một liên doanh dầu khí] tình hình sau khi có Luật dầu khí sửa đổi đã “đa diện” hơn với phần lớn là các hợp đồng chia sản phẩm [PSC], bên cạnh một số ít hợp đồng điều hành chung [JOC] và hợp đồng hợp tác kinh doanh [BCC].

UNDP và WB [ESMAP] thông qua “Chương trình hỗ trợ quản lý lĩnh vực năng lượng” đã khuyến cáo: hình thức hợp đồng thường được sử dụng nhất với các nhà đầu tư nước ngoài là hình thức PSC, hợp đồng chia sản phẩm. VN nên sử dụng các hợp đồng PSC này như là loại hợp đồng chủ yếu, thay vì các hợp đồng liên doanh hay các loại thỏa thuận khác. Bởi lẽ như đánh giá của ESMAP: “Tiềm năng dầu và khí thềm lục địa của VN vẫn còn chưa được thăm dò nhiều lắm so với các nước láng giềng Trung Quốc, Indonesia, Malaysia và Thái Lan”.

Theo các tác giả chương trình này, có thể sử dụng những đòn bẩy kinh tế cần thiết trong các trường hợp trữ lượng dầu ít để, thay vì xếp xó các mỏ dầu nhỏ, vẫn có thể đưa vào khai thác được: “Chính sách tô nhượng không linh hoạt của VN có thể làm nản lòng việc triển khai các mỏ dầu nhỏ. VN nên tỏ ra “nhạy cảm” hơn đối với giá cả và sản xuất sao cho các mỏ nhỏ này có thể trở nên kinh tế hơn...”.

Theo tác giả của “Ảnh hưởng của giá dầu thô lên các dự án thăm dò và khai thác dầu khí ở vùng biển nước cạn VN”, giá dầu thô ở mức xa trên con số trung bình 20 USD/thùng vừa khuyến khích các công ty đang khai thác tăng sản lượng, vừa nâng cao hiệu quả đầu tư cho các công ty thăm dò. Nói cách khác, nếu như giá dầu ở mức 20 USD/thùng như trước kia, thì khai thác cầm chắc là lỗ huống hồ là thăm dò.

Song, khi giá dầu liên tục trên ngưỡng 60 USD/thùng, thậm chí có lúc vượt cả ngưỡng 75 USD/thùng, thì đây chính là thời cơ để có những quyết định khuyến khích các công ty mạnh dạn đầu tư thăm dò ở những vùng có tiềm năng thấp để có thể đi đến kết quả là: “Nhiều mỏ dầu mới được triển khai trong những năm tới sẽ làm tăng sản lượng dầu hỏa của VN. Một giếng dầu mới ở lô 15-1 Sư Tử Trắng với sản lượng 8.682 thùng/ngày được dự trù cho năm 2008” [nguồn: EIA/DOE].

Khí

Nếu như việc khai thác dầu đã tròn 20 “tuổi” [tính từ mỏ Bạch Hổ] thì việc khai thác khí đốt ở VN lại “lớn tuổi” hơn: mỏ khí Tiền Hải C, với trữ lượng khoảng 1,3 tỉ m3 [BCM], đã được đưa vào khai thác từ năm 1981 tuy với sản lượng khiêm tốn.

Tâm điểm của hi vọng khai thác khí đốt là lượng khí đồng hành của mỏ dầu Bạch Hổ, vốn đã được khai thác từ năm 1986 song vẫn cứ “phải đốt bỏ ngày càng lớn, lên đến 1 tỉ m3 khí mỗi năm” [từ ngữ của Petro Vietnam]. Hiện vẫn chưa có giải thích chính thức nào về việc phải đốt bỏ khí đồng hành này.

Mãi đến năm 1993, dự án khai thác khí đốt bỏ này mới thành hình với một dự án của Petro Vietnam, với số vốn khoảng 460 triệu USD, lắp đặt tuyến ống từ ngoài khơi về Nhà máy điện Bà Rịa. Lúc đầu cung cấp 1 tỉ m3 khí/ngày; đến cuối năm 2001 nâng lên 5,8 tỉ m3 khí/ngày.

Tháng 12-1998, Nhà máy chế biến khí Dinh Cố được đưa vào vận hành, mỗi ngày có 4,2 triệu m3 khí được xử lý, chế biến thành khí hóa lỏng [LPG] và condensate cung cấp cho thị trường. Petro Vietnam còn đang xem xét việc nâng công suất của toàn bộ hệ thống thu gom vận chuyển khí từ bể Cửu Long lên 2 tỉ m3 khí/năm.

Song song, năm 1993 liên minh BP - Statoil đã phát hiện các mỏ khí Lan Tây và Lan Đỏ với trữ lượng xác minh là 57 tỉ m3 khí, đảm bảo nguồn cung cấp ổn định lâu dài ở mức 2,7 tỉ m3 khí/năm. Cùng thời gian này, đã phát hiện hàng loạt mỏ khí ở bể Nam Côn Sơn, cho phép nghĩ đến một khả năng cung cấp 5-6 tỉ m3 khí/năm trong tương lai gần.

Ngày 28-3-2005, các công ty BP, Statoil, Mobil và BHP đã cùng nhau ký với Petro Vietnam một thỏa thuận hợp tác lập báo cáo nghiên cứu khả thi. Cùng với việc triển khai dự án Nam Côn Sơn, dự án xây dựng tuyến ống Phú Mỹ - TP.HCM cũng đã được chuẩn bị. Từ khí ngày nào đốt bỏ, một loại nhà máy điện tuôcbin khí [ở Phú Mỹ] mà công suất đã hơn 1/2 tổng công suất điện toàn quốc chỉ nhờ dòng khí đốt này đã được đưa vào hoạt động.

Page 3

Tập đoàn Dầu khí Việt Nam [Petro Vietnam] vừa công bố những dự án lớn của tập đoàn này trong năm 2009.

Tại hội nghị triển khai kế hoạch sản xuất, kinh doanh năm 2009 và đón nhận danh hiệu Anh hùng Lao động, diễn ra sáng 19/1, ông Đinh La Thăng, Chủ tịch Hội đồng Quản trị Tập đoàn Dầu khí Việt Nam [Petro Vietnam] cho biết, trong năm nay, tập đoàn này dự kiến sẽ tổ chức khởi công nhiều dự án quan trọng.

 Trong đó, sẽ thành lập và đi vào hoạt động liên doanh dầu khí GazpromViet với Tập đoàn Dầu khí Gazprom và liên doanh dầu khí với Tổng công ty Dầu khí Zarubezhneft của Liên bang Nga

Bên cạnh đó, tập đoàn cũng sẽ thành lập liên doanh dầu khí tại Venezuela.           Ở trong nước, Petro Vietnam dự kiến sẽ thành lập liên doanh đầu tư Nhà máy Lọc dầu Long Sơn tại Bà Rịa Vũng Tàu và khởi công xây dựng nhà máy sản xuất xơ sợi tổng hợp Đình Vũ [Hải Phòng], cùng hai nhà máy sản xuất ethanol ở miền Trung và miền Bắc.                      

Ngoài ra, tập đoàn cũng dự kiến sẽ ký hợp đồng EPC và khởi công xây dựng đường ống dẫn khí Lô B - Ô Môn; khánh thành nhà máy điện Nhơn Trạch 1; khởi công xây dựng nhà máy điện Nhơn Trạch 2; đưa vào vận hành thương mại Nhà máy Lọc dầu Dung Quất vào tháng 2/2009 và khánh thành Nhà máy vào quý 3/2009.

                      Đặc biệt, dự kiến trong quý 1 năm nay, Petro Vietnam sẽ tiến hành khởi công khu tổ hợp văn phòng cho thuê và khách sạn 5 sao tại Mỹ Đình trên diện tích 25 ha       

Video liên quan

Chủ Đề