Dịch vụ thiết kế website thuộc cpc bao nhiêu năm 2024

Đối với một người khi mới bắt đầu tập tành kinh doanh online thì, thay vì đăng ký tên miền, mua hosting, thiết kế kế website để bán hàng, thì xu hướng hiện tại đa phần lựa chọn Facebook là nơi để họ bắt đầu thử trải nghiệm cho việc kinh doanh online của mình. Vậy nên bài viết này nhằm mục đích chia sẻ kinh nghiệm chọn gói quảng cáo trên Facebook Ads.

Nếu bạn mới bắt đầu với quảng cáo Facebook, chắc chắn bạn sẽ phân vân nên chọn gói click CPC hay gói hiển thị CPM.

Gói click CPC chỉ trả phí khi khách hàng click vào quảng cáo, ví dụ 5000 vnđ/click, còn gói hiển thị CPM thì trả cho 1000 lượt hiển thị (1CPM), ví dụ 1500 đ/CPM

Với gói CPM, bạn có nguy cơ là mất toàn bộ ngân sách quảng cáo mà không có một click nào để vào thăm website và mua hàng của bạn, bởi đơn giản là số lượng truy cập online trên facebook là vô cùng lớn, với mỗi lần user chuyển từ trang này sang trang khác, refresh lại trang thì lại được tính là 1 impression.

Ngược lại, với CPC thì bạn chỉ trả tiền khi khách hàng click vào quảng cáo, với 5000 lượt hiển thị nhưng không có ai click vào thì vẫn không mất tiền. Bạn chỉ phải trả nếu có khách hàng thấy sản phẩm của bạn hấp dẫn và click vào để tìm hiểu rồi mua nó. Do đó, tỷ lệ CTR của CPC bao giờ cũng cao hơn CPM.

Dịch vụ thiết kế website thuộc cpc bao nhiêu năm 2024

  • Khi nào nên chọn CPM cho Facebook Ads?

Bạn nên chọn CPM khi mục tiêu của bạn là muốn quảng bá nhanh chóng thương hiệu của doanh nghiệp tới lượng lớn người dùng. Mục tiêu của CPM là exposure “phát tán”

Ví dụ: nếu bạn có một fanpage, và bạn muốn hướng tới nhóm fan cụ thể ví dụ “Hội thích du lịch khám phá” “Hội thích trẻ em ngộ nghĩnh”… khi đó bạn tạo chiến dịch với lời quảng cáo ví dụ như:

– Hội thích du lịch khám phá: nhấp chuột vào đây để cùng trải nghiệm

– Hội thích trẻ em ngộ nghĩnh: nhấp chuột vào đây trở về với tuổi thơ

….

Khi bạn chọn CPM, quảng cáo của bạn hiển thị thường xuyên, mọi người click vào đó, click “Like” trang fan page của bạn, và bạn có thể dễ dàng thu hút hàng nghìn fan vào trang và like trang của bạn có cùng sở thích đó.

CPM cũng phù hợp với mục tiêu quảng bá thương hiệu. Thương hiệu như Coca-cola hay Starbucks thường sử dụng CPM, bởi vì họ không cần khách hàng click vào và hành động gì đó như mua hàng, đăng ký thành viên…Mục tiêu của họ là tên tuổi doanh nghiệp, logo, hình ảnh doanh nghiệp được hiển thị thường xuyên trên tường Facebook.

Dịch vụ thiết kế website thuộc cpc bao nhiêu năm 2024
Chọn số lần nhấp vào liên kết thì gói phí sẽ là CPC

Khi nào nên chọn CPC cho Facebook Ads?

Bạn nên chọn đấu giá CPC nếu mục tiêu của bạn là tỷ lệ chuyển đổi conversion, tức là khách hàng có hành động cụ thể với quảng cáo của bạn, click vào trang web, mua sản phẩm

CPC đặc biệt nên dùng nếu bạn muốn kiểm tra hiệu quả của quảng cáo trên Facebook. Theo thời gian quảng cáo theo CPC sẽ tiết kiệm chi phí cho bạn, khi mà quảng cáo khá quen thuộc với người dùng thì số lượng click sẽ giảm xuống.

Ví dụ: Bạn đấu 5000 đ/click – khi có tầm 1000 lượt hiển thị – nếu quảng cáo của bạn đã quen với người dùng thì bạn sẽ nhận được ít click hơn ban đầu, nhưng tỷ lệ CTR là cao hơn rất nhiều so với tỷ lệ trung bình trên Facebook (0,02%)

Tuy nhiên, nếu bạn có được 1000 lượt hiển thị, và không ai click vào ad của bạn thì bạn không phải trả tiền. Khi đó, Facebook thường sẽ dừng hiển thị ad của bạn vì nó không được phổ biến. Nếu nó xảy ra, dừng quảng cáo của bạn ngay, và tạo một cái mới, chọn lọc lại.

Nếu bạn cần một hành động cụ thể của khách hàng (vào thăm website, mua hàng, gia nhập gì đó…), CPC là hiệu quả nhất để đem lại ROI cao (return on investment) cho chiến dịch!

Do đó, bà Ngọc chọn áp dụng Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (Hiệp định CPTPP) vì Malaysia và Việt Nam đều là thành viên của Hiệp định này. Trong quá trình nghiên cứu Hiệp định CPTPP, bà Ngọc nhận thấy một số điều sau:

Theo Điều 10.5 (Tiếp cận thị trường) và Điều 10.7 (Các biện pháp không tương thích), Việt Nam sẽ không được áp dụng các biện pháp hạn chế việc cung cấp dịch vụ qua biên giới của nhà đầu tư thuộc nước thành viên (ví dụ Malaysia), ngoại trừ các biện pháp hạn chế tại Phụ lục I và II.

Theo Phụ lục I và II, ông Ngọc không thấy có bất kỳ hạn chế cụ thể nào áp dụng đối với dịch vụ “thiết kế nội thất” (CPC-89707).

Tuy nhiên, bà Ngọc nhận thấy Phụ lục II có ghi nhận rằng “Việt Nam bảo lưu quyền áp dụng và duy trì bất kỳ biện pháp nào không phù hợp với nghĩa vụ của Việt Nam theo Điều XVI của Hiệp định chung về Thương mại dịch vụ của WTO (GATS) và vì mục tiêu của bảo lưu này, Biểu cam kết cụ thể của Việt Nam theo WTO được điều chỉnh tại Tiểu Phụ lục II.A của Hiệp định CPTPP”. Theo đó, sau khi kiểm tra Biểu cam kết cụ thể của Việt Nam theo WTO và Tiểu Phụ lục II.A của Hiệp định CPTPP, bà Ngọc cũng không thấy có bất kỳ hạn chế cụ thể nào áp dụng đối với dịch vụ “Thiết kế nội thất” (CPC-89707).

Từ các quy định ở trên, bà Ngọc hiểu rằng theo Hiệp định CPTPP, Việt Nam hoàn toàn mở cửa cho nhà đầu tư (quốc tịch Malaysia) được đầu tư hoạt động “Thiết kế nội thất” tại Việt Nam, bao gồm việc nhà đầu tư thành lập công ty con thuộc sở hữu 100% của mình để cung cấp dịch vụ này tại Việt Nam. Bà Ngọc hỏi, cách hiểu của bà như trên có phù hợp với tinh thần của Hiệp định CPTPP và pháp luật Việt Nam hay không?

Về vấn đề này, Bộ Công Thương trả lời như sau:

Theo phân loại của WTO tại tài liệu MTN.GNS/W/120 và tài liệu Hệ thống phân loại sản phẩm trung tâm tạm thời (PCPC 1991) của Liên hợp quốc, dịch vụ “thiết kế nội thất – Interior Design” được phân loại dịch vụ “thiết kế đặc biệt – Special Design services – CPC 87907” (không phải là ngành dịch vụ phân loại mã CPC 87907 như bà Nguyễn Đình Vân Ngọc hỏi).

Trong Biểu cam kết cụ thể về dịch vụ của Việt Nam trong WTO, Việt Nam cam kết mở cửa thị trường dịch vụ theo phương thức chọn – cho. Theo đó, đối với dịch vụ “thiết kế đặc biệt” (bao gồm dịch vụ “thiết kế nội thất”), Việt Nam không cam kết. Do đó, Việt Nam có toàn quyền áp dụng các biện pháp quản lý lĩnh vực này đối với các nhà cung cấp dịch vụ đến từ bất kỳ nước thành viên WTO nào.

Đối với Hiệp định CPTPP, Việt Nam cam kết mở cửa thị trường dịch vụ - đầu tư theo phương thức chọn – bỏ. Theo đó, đối với lĩnh vực này, các nước CPTPP được quyền đưa ra các biện pháp bảo lưu trái với 4 nghĩa vụ chính của chương Dịch vụ (Đối xử quốc gia, Đối xử tối huệ quốc, Tiếp cận thị trường, và Hiện diện tại nước sở tại) và 4 nghĩa vụ chính của Chương Đầu tư (Đối xử quốc gia, Đối xử tối huệ quốc, Yêu cầu thực hiện, và Quản lý nhân sự cấp cao và ban giám đốc) dưới hình thức là một danh mục gọi là “Danh mục các biện pháp bảo lưu không tương thích với nghĩa vụ tài chính của chương Dịch vụ và chương Đầu tư” (danh mục NCM dịch vụ - đầu tư). Ngoài ra, mọi biện pháp quản lý, nếu không có yếu tố phân biệt đối xử, đều được phép duy trì mà không cần phải bảo lưu trong Hiệp định.

Danh mục NCM dịch vụ - đầu tư

Danh mục NCM dịch vụ - đầu tư đều bao gồm 2 Phụ lục:

- Phụ lục I: gọi là Phụ lục bảo lưu các biện pháp hiện hành, bao gồm các biện pháp không tương thích với các nghĩa vụ về đầu tư và thương mại dịch vụ được quy định tại các văn bản pháp luật hoặc chính sách hiện hành của một nước thành viên. Đối với các biện pháp được liệt kê trong Phụ lục này, các nước được tiếp tục áp dụng theo đúng nội dung đã được mô tả. Tuy nhiên, cần lưu ý một số điểm sau:

Các nước được quyền sửa đổi nội dung bảo lưu nhưng với điều kiện việc sửa đổi không được kém thuận lợi hơn nội dung đã được bảo lưu trong Phụ lục. Nguyên tắc này gọi là nguyên tắc “giữ nguyên hiện trạng (standstill)”.

Các nước được quyền đơn phương sửa đổi các nội dung đã bảo lưu theo hướng thuận lợi hơn nhưng khi đã đưa ra rồi thì không được quyền rút lại nội dung đã được sửa đổi đó. Nguyên tắc này còn được gọi là nguyên tắc “chỉ tiến, không lùi (ratchet)”.

Lưu ý: Trong thời gian 3 năm kể từ khi Hiệp định CPTPP có hiệu lực, Việt Nam không phải tuân thủ nguyên tắc ratchet. Đây là linh hoạt mà các nước CPTPP dành riêng cho Việt Nam.

- Phụ lục II: gọi là Phụ lục bảo lưu các biện pháp lâu dài, bao gồm các biện pháp không tương thích với các nghĩa vụ về đầu tư và thương mại dịch vụ mà các nước không muốn loại bỏ trong giai đoạn hiện tại và muốn bảo lưu lâu dài. Đối với Phụ lục này, các nước được toàn quyền đưa ra các nội dung trái với các nghĩa vụ chính của Hiệp định hoặc toàn quyền hạn chế nhà đầu tư nước ngoài trong các lĩnh vực được bảo lưu.

Trong Phụ lục I và II của Danh mục NCM này, hiện nay, Việt Nam không đưa ra bảo lưu riêng đối với dịch vụ “thiết kế đặc biệt” (CPC 87907). Tuy nhiên, tại Phụ lục II, Việt Nam có một bảo lưu quét liên quan tới nghĩa vụ Tiếp cận thị trường của Chương 10 – Cung cấp dịch vụ xuyên biên giới. Theo đó, Việt Nam bảo lưu quyền thông qua và duy trì bất kỳ biện pháp nào không trái với Điều 16 – Tiếp cận thị trường đối với một số phân ngành dịch vụ, trong đó không bao gồm dịch vụ thiết kế đặc biệt (CPC 87907), bao gồm dịch vụ thiết kế nội thất.

Do đó, Việt Nam toàn quyền ban hành các biện pháp hạn chế Tiếp cận thị trường đối với dịch vụ này trong tương lai, bao gồm 5 loại như sau: (i) Hạn chế về số lượng nhà cung cấp dịch vụ; (ii) Hạn chế về tổng giá trị các giao dịch hoặc tài sản; (iii) Hạn chế về tổng số hoạt động dịch vụ hoặc số lượng dịch vụ cung cấp; (iv) Hạn chế về số lượng lao động; (v) Hạn chế về hình thức thành lập doanh nghiệp.

Tuy nhiên, trong Phụ lục I và II nêu trên, Việt Nam không bảo lưu đối với nghĩa vụ Đối xử quốc gia của Chương 10. Do đó, nếu quy định của pháp luật hiện hành của Việt Nam có cho phép nhà cung cấp dịch vụ trong nước kinh doanh dịch vụ này thì Việt Nam có nghĩa vụ dành sự đối xử không kém thuận lợi hơn cho các nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài, “trong hoàn cảnh tương tự”.

Ngoài ra, cần lưu ý rằng đến nay, Malaysia là một trong 4 nước CPTPP còn lại chưa hoàn tất quá trình phê chuẩn Hiệp định này nên Hiệp định này chưa có hiệu lực giữa Việt Nam và Malaysia. Do đó, Việt Nam chưa có nghĩa vụ phải thực hiện cam kết này đối với nhà cung cấp dịch vụ đến từ Malaysia ngay cả trong trường hợp chứng minh được đầy đủ việc quy định pháp luật Việt Nam có cho phép nhà cung cấp dịch vụ trong nước kinh doanh dịch vụ này và nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài cũng có “hoàn cảnh tương tự” với nhà cung cấp dịch vụ trong nước.