Đối tượng nghiên cứu của luật so sánh năm 2024
Để nắm bắt được khoa học luật so sánh, vấn đề có ý nghĩa quyết định là cần phải làm rõ khái niệm luật học so sánh là gì. Trong khoa học pháp lý, từ rất sớm các nhà nghiên cứu đã làm quen với khái niệm so sánh pháp luật, phương pháp so sánh pháp luật là một trong những phương pháp quan trọng của sự nhận thức các hiện tượng pháp luật. Khái niệm luật học so sánh bao gồm: việc nghiên cứu khối lượng các văn bản quy phạm pháp luật, việc sử dụng phương pháp so sánh trong quá trình tiến hành so sánh các hệ thống pháp luật. Đánh giá, sử dụng các phương thức phản ánh và tiếp nhận các yếu tố đó trong hệ thống pháp luật quốc gia hay hệ thống pháp luật quốc gia khác, khuynh hướng, quy luật phát triển chung của pháp luật. Từ những phân tích trên có thể khái quát luật học so sánh là tổng thể các tri thức về việc nghiên cứu so sánh pháp luật nước ngoài.Trong quá trình nghiên cứu về luật học so sánh cần phải phân biệt thuật ngữ luật học so sánh trên 3 nghĩa: là một khoa học, là một phương pháp và là một môn học. Với tư cách là một phương pháp nghiên cứu khoa học, so sánh pháp luật là một trong những phương pháp quan trọng của việc nghiên cứu các hiện tượng pháp lý. Thông qua việc sử dụng phương pháp so sánh pháp luật mà chúng ta có khả năng làm sáng tỏ cái chung nhất, cái đặc thù và cái đơn nhất của các hệ thống pháp luật. Với tư cách là một ngành khoa học, luật học so sánh là tổng thể những tri thức khoa học về các hệ thống pháp luật hiện hành được thể hiện trong các công trình nghiên cứu khoa học của các học giả. Với tư cách là một môn học, luật học so sánh là đối tượng giảng dạy tại các cơ sở đào tạo luật, dưới các mức độ khác nhau, cụ thể có thể ở dạng nhập môn luật học so sánh và cũng có thể ở dưới dạng một lĩnh vực cụ thể như luật hành chính so sánh, luật thương mại so sánh, luật hình sự so sánh… Việc luật học so sánh có phải là một ngành khoa học hay không đã gây ra nhiều sự tranh cãi, tuy nhiên, trong thực tiễn cho thấy, ngày nay có những lĩnh vực, có những vấn đề, có những hệ thống pháp luật sẽ không thể được nghiên cứu có kết quả nếu không tiếp cận dưới góc độ so sánh pháp luật, chẳng hạn như việc nghiên cứu các hệ thống pháp luật khác nhau trên thế giới; việc nghiên cứu những cơ sở xã hội, kinh tế, chính trị và truyền thống của sự ra đời và nội dung của các chế định pháp luật tương ứng trong hệ thống pháp luật của các quốc gia khác nhau; việc nghiên cứu kinh nghiệm điều chỉnh pháp luật của nước ngoài…. Tất cả điều đó nói lên rằng, luật học so sánh có những đặc điểm, dấu hiệu riêng của một môn khoa học, nó có đối tượng nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu của riêng mình. Đối tượng nghiên cứu của luật học so sánhĐối tượng nghiên cứu của luật học so sánh là nghiên cứu pháp luật nước ngoài, trên cơ sở đối chiếu các hệ thống pháp luật với nhau và với hệ thống pháp luật quốc gia, cụ thể: – Những vấn đề phương pháp luận của nghiên cứu so sánh pháp luật (ở đây lý luận về phương pháp so sánh chiếm vị trí đặc biệt); việc thường xuyên so sánh các hệ thống PL với nhau đã tạo ra một hệ thống tri thức độc lập với hệ thống tri thức của các ngành khoa học độc lập khác
\==> nghiên cứu luật so sánh giúp cho việc xây dựng và áp dụng luật quốc tế (cả công pháp quốc tế và tư pháp quốc tế), tức là giúp cho việc xử lý được những xung đột PL giữa các quốc gia Giúp như thế nào?
Chú ý: mặc dù có thể “dịch nghĩa” của civil law là dân luật, hay dân sự, nhưng nếu sử dụng thuật ngữ “dòng họ PL dân luật / sự” thì dễ gây hiểu nhầm rằng dòng họ PL này chỉ có PL dân sự mà không có hình sự, không có hành chính, ... ==> như vậy là sai về bản chất, vì thực tế dòng họ PL civil law chỉ coi trọng PL dân sự, ưu tiên pháp điển hóa PL dân sự trước, nhưng vẫn có đầy đủ PL hình sự, hành chính, ....
bộ các hệ thống PL của nhân loại, rất nhiều quy tắc pháp lý, rất nhiều quy định PL của các quốc gia sau này bắt nguồn từ bộ tổng luật này. ==> chính vì tầm ảnh hưởng quá lớn của Corpus Juris Civilis mà nhiều học giả đồng nhất luật La Mã với bộ tổng luật này.
Công pháp Tư pháp Đối tượng điều chỉnh Quan hệ giữa cơ quan nhà nước với nhau, quan hệ giữa cơ quan nhà nước với người dân Quan hệ giữa người dân với nhau Mục đích Bảo vệ lợi ích công Bảo vệ lợi ích tư nhân Phương pháp điều chỉnh Phương pháp mệnh lệnh Phương pháp tự do thỏa thuận ý chí của các các bên tham gia Tính chất Thể hiện tính bất bình đẳng giữa các chủ Thể hiện sự bình đẳng của thể PL, trong đó cơ quan NN (hoặc người có thẩm quyền) thường ra các quyết định mang tính mệnh lệnh và bên chủ thể khác phải thi hành các chủ thể tham gia quan hệ PL Các ngành luật Hiến pháp, Hành chính, Hình sự, Cán bộ công chức viên chức, ... Dân sự, Thương mại, Lao động, Hôn nhân gia đình, ... Quy phạm PL Thường mang tính tổng quát cao Thường mang tính cụ thể, chi tiết Quá trình phát triển Đến thế kỷ 17 mới phát triển (khi xuất hiện trường phái PL tự nhiên trong đó đề cao quyền con người, và cách mạng tư sản liên tiếp thành công) Xuất hiện từ thời cổ đại (Hy Lạp cổ đại, La Mã cổ đại) Câu hỏi: Vì sao chưa có quốc gia nào ban hành được bộ luật hành chính ở mức độ đồ sộ như BLDS? Trả lời: Vì đối tượng điều chỉnh của luật hành chính sẽ là quan hệ giữa cơ quan nhà nước với nhau, quan hệ giữa cơ quan nhà nước với người dân ==> tức là có liên quan mật thiết đến mô hình bộ máy nhà nước và hoạt động quản lý nhà nước, mặc dù hiện nay tình hình các quốc gia hầu hết có sự ổn định, tuy nhiên vẫn tiềm ẩn rất nhiều biến động, chưa thể có đươc sự ổn định giống như quan hệ tư ==> các quốc gia chưa thể ban hành được bộ luật hành chính giống như BLDS. 2. Quy phạm pháp luật và giải thích quy phạm pháp luật
Chú ý: ở VN, nghị quyết của Hội đồng thẩm phán cũng nhằm để giải thích việc áp dụng PL, cũng có vai trò gần giống như “án lệ” 5. Các học thuyết pháp lý |