Mục đích của chỉ số trong giám sát và đánh giá là
GIÁM SÁT, ĐÁNH GIÁ TRONG TRƯỜNG HỌC
Tham khảo sách 'giám sát, đánh giá trong trường học', khoa học xã hội, kinh tế chính trị phục vụ nhu cầu học tập, nghiên cứu và làm việc hiệu quả
Tóm tắt nội dung tài liệu
- Tài liệu tăng cường năng lực quản lý trường học
DỰ ÁN HỖ TRỢ ĐỔI MỚI QUẢN LÝ GIÁO DỤC [SREM]
TÀI LIỆU TĂNG CƯỜNG NĂNG LỰC QUẢN LÝ TRƯỜNG HỌC
____________________________
QUYỂN 3
GIÁM SÁT, ĐÁNH GIÁ
TRONG TRƯỜNG HỌC
[Dùng cho thảo luận nội bộ]
Hà Nội, tháng 7/2009
1
Quyển 3 – Giám sát, đánh giá trong trường học
- Tài liệu tăng cường năng lực quản lý trường học
MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU 4
Lời giới thiệu 7
Chương 1: TỔNG QUAN VỀ GIÁM SÁT, ĐÁNH GIÁ .......................................... 8
I. KHÁI NIỆM VỀ GIÁM SÁT, ĐÁNH GIÁ ............................................................ 8
1. Giám sát ................................................................................................................... 8
2. Đánh giá ................................................................................................................... 9
II. GIÁM SÁT, ĐÁNH GIÁ TRONG GIÁO DỤC ................................................. 11
1. Khái niệm ............................................................................................................... 11
2. Các chức năng của giám sát, đánh giá trong giáo dục ........................................ 12
3. Mục đích của giám sát, đánh giá trong giáo dục ................................................. 12
4. Đối tượng, tiêu chí và các chuẩn mực đánh giá ................................................... 13
4.1. Đối tượng đánh giá........................................................................................... 13
4.2. Tiêu chí và chuẩn mực đánh giá ...................................................................... 14
4.3. Nguồn thông tin dữ liệu dùng cho đánh giá ..................................................... 15
5. Hệ thống các Chỉ số đánh giá ................................................................................ 16
6. Các bước trong đánh giá ........................................................................................ 18
7. Các loại hình đánh giá trong giáo dục .................................................................. 19
III. ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG TRƯỜNG HỌC ............................... 20
1. Hình thức tổ chức trường học và tác động của nó .............................................. 20
2. Các yếu tố có vai trò quan trọng trong giáo dục ................................................ 21
IV. THANH TRA........................................................................................................ 23
1. Giám sát trên cơ sở thanh tra trường học ............................................................ 24
2. Các hệ thống thanh tra trường học ..................................................................... 25
Chương 2: XÂY DỰNG HỆ THỐNG CHỈ SỐ GIÁM SÁT, ĐÁNH GIÁ TRƯỜNG
HỌC 27
1. Sử dụng chỉ số ở các cấp ........................................................................................ 28
2. Chỉ số đánh giá cấp trung ương ............................................................................ 28
3. Chỉ số giáo dục cấp trường .................................................................................... 29
Chương 3: HOẠT ĐỘNG TỰ ĐÁNH GIÁ TRONG TRƯỜNG HỌC ................. 31
1. Mục đích tự đánh giá ............................................................................................ 31
2. Các phương pháp tự đánh giá ............................................................................. 32
2.1 Đánh giá dựa trên ý kiến của trường................................................................ 32
2.2. Báo cáo thực trạng tổ chức .............................................................................. 33
2.3. Các hệ thống giám sát học sinh........................................................................ 33
2.4. Kiểm toán trường học ...................................................................................... 33
2.5. Đánh giá giáo viên ........................................................................................... 33
3. Các vấn đề kỹ thuật ................................................................................................ 33
4. Hệ thống chỉ số đánh giá chất lượng hiệu quả trường học ................................. 37
Chương 4: HỆ THỐNG CHỈ SỐ ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC VÀ HIỆU QUẢ HOẠT
ĐỘNG CỦA HIỆU TRƯỞNG ................................................................................103
I- Vai trò trách nhiệm của hiệu trưởng trong trường học....................................103
2
Quyển 3 – Giám sát, đánh giá trong trường học
- Tài liệu tăng cường năng lực quản lý trường học
Nhóm năng lực số 1: Xác định Tầm nhìn, Mục tiêu và Sứ mạng ........................ 105
1.1 Năng lực Xác định tầm nhìn, sứ mạng và mục tiêu chiến lược của trường... 105
1.2 Năng lực Xây dựng Kế hoạch phát triển nhà trường ...................................... 106
1.3 Năng lực theo dõi, đánh giá tiến độ thực hiện mục tiêu ................................ 106
1.4 Năng lực Xây dựng và duy trì một môi trường giáo dục theo định hướng kết quả.. 107
1.5 Năng lực lãnh đạo, chỉ đạo chuyên môn ......................................................... 108
Nhóm năng lực số 2: Năng lực điều hành nhà trường .......................................... 110
2.1 Năng lực định hướng hoạt động của nhà trường tập trung vào việc học tập vì sự
tiến bộ của tất cả học sinh................................................................................ 110
2.2 Năng lực tạo dựng và đảm bảo một môi trường học tập an ninh, an toàn ..... 110
2.3 Năng lực thiết lập quan hệ hợp tác và huy động cộng đồng chăm lo cho giáo dục
111
2.4 Năng lực thiết lập và duy trì bầu không khí làm việc tích cực trong nhà trường .... 111
Nhóm năng lực số 3: Lãnh đạo và quản lý nguồn nhân lực ................................. 112
3.1 Năng lực phát triển đội ngũ............................................................................ 112
3.2 Năng lực khơi dậy sự sáng tạo, tận tụy của cán bộ giáo viên ........................ 113
3.3 Năng lực khuyến khích giáo viên và những người khác làm lãnh đạo .......... 114
Nhóm năng lực số 4: Quản lý các nguồn lực .......................................................... 114
4.1 Năng lực Quản lý tài chính, cơ sở vật chất và trang thiết bị .......................... 114
4.2 Năng lực Quản lý và ứng dụng công nghệ...................................................... 115
4.3 Năng lực thực hiện nhiệm vụ Quản lý hành chính ........................................ 115
Phụ lục: XÂY DỰNG HỆ THỐNG QUẢN LÝ THEO KẾT QUẢ .....................143
1. Đặc trưng của một HTQLTKQ ......................................................................... 145
2. Xây dựng Hệ thống tiêu chí đánh giá kết quả hoạt động [KPIs] ...................... 146
3. Xây dựng một Môi trường Trách nhiệm ......................................................... 147
III. NĂM BƯỚC THIẾT LẬP CHƯƠNG TRÌNH QUẢN LÝ THEO KẾT QUẢ148
Bước 1: Xác định tầm nhìn, sứ mạng, và các mục tiêu chiến lược về kết quả hoạt động
của đơn vị. ....................................................................................................... 148
Bước 2: Thiết kế hệ thống tích hợp đánh giá kết quả hoạt động ......................... 150
Bước 3: Xây dựng quy trình tập hợp dữ liệu để đánh giá kết quả hoạt động ....... 152
Bước 4: Xây dựng hệ thống báo cáo và phân tích dữ liệu kết quả hoạt động ...... 153
Bước 5: Đưa vào quy trình sử dụng kết quả hoạt động để thúc đẩy cải thiện chất lượng
công tác ............................................................................................................ 154
3
Quyển 3 – Giám sát, đánh giá trong trường học
- Tài liệu tăng cường năng lực quản lý trường học
LỜI NÓI ĐẦU
Dự án Hỗ trợ đổi mới quản lý giáo dục [Suport to the Renovation of Education Management-viết
tắt là SREM] do Cộng đồng Châu Âu tài trợ. Mục tiêu lớn của Dự án là hỗ trợ Chính phủ thúc đẩy
việc hoàn thành các mục tiêu đề ra trong Chiến lược phát triển giáo dục của Việt Nam giai đoạn
đến 2010.
Dự án có nhiệm vụ hỗ trợ Bộ GD-ĐT thực hiện đổi mới quản lý giáo dục thông qua việc tăng
cường khung pháp lý cho phân cấp quản lý và thực hiện Luật Giáo dục 2005 đồng thời xây dựng
Hệ thống thông tin quản lý giáo dục, thực hiện đổi mới phương thức quản lý trên phạm vi toàn
ngành.
Dự án được ký kết chính thức vào ngày 01/9/2005, triển khai thực hiện từ tháng 4/2006, kết thúc
vào năm 2010.
Các nhiệm vụ cụ thể bao gồm hỗ trợ Bộ đẩy nhanh tiến trình đổi mới quản lý và cải cách hành
chính thông qua các hoạt động tăng cường năng lực thể chế và quản lý ở các cấp QLGD; thực
hiện và hỗ trợ thực hiện việc đào tạo, bồi dưỡng hiệu trưởng trường phổ thông; tăng cường năng
lực lập kế hoạch chiến lược và năng lực tổ chức thực hiện ở các địa phương thông qua việc hỗ trợ
tài chính trực tiếp cho một số tỉnh trong diện khó khăn để triển khai các nỗ lực đổi mới.
Hoạt động lớn và có tính phức tạp nhất là hỗ trợ Bộ thực hiện tin học hóa công tác quản lý nhằm
nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động trường học thông qua việc nâng cấp và xây dựng mới các
Hệ thống phần mềm quản lý thông tin giáo dục từ cấp cơ sở với các chức năng quản lý cán bộ,
quản lý học sinh, quản lý tài chính, hành chính, thư viện, thiết bị, quản lý công tác thanh tra, đánh
giá và thống kê giáo dục.
Với mục tiêu hỗ trợ hiệu trưởng tăng cường nhận thức về tiến trình đổi mới và nâng cao năng lực
quản lý trên cả phương diện lý luận lẫn thực tiễn, đồng thời thúc đẩy văn hóa tự học và học suốt
đời của cán bộ quản lý giáo dục, Dự án SREM biên soạn Bộ Tài liệu tăng cường năng lực quản lý
trường học. Bộ Tài liệu cung cấp nhiều khái niệm, lý thuyết chung về những lĩnh vực khác nhau
của quản lý giáo dục và những nhiệm vụ riêng trong quản lý trường học, từ cơ bản đến phức tạp.
Ngoài ra còn giới thiệu quá trình phát triển giáo dục ở Việt Nam và một số nước trên thế giới.
Trên cơ sở các kiến thức này, mỗi hiệu trưởng sẽ tự rút ra bài học kinh nghiệm cho riêng mình,
vận dụng các kiến thức này trong hoàn cảnh thực tế và khả năng của từng trường.
Khi biên soạn, Dự án SREM cố gắng để Bộ Tài liệu đáp ứng được tình hình giáo dục Việt Nam
hiện tại, cũng như phải có những bứt phá cần thiết để hòa nhập với các chuẩn giáo dục quốc tế.
Dự án đã tham khảo các tài liệu quản lý giáo dục trong và ngoài nước và hệ thống hóa lại các vấn
đề cần thiết đối với hiệu trưởng, dựa trên cơ sở năng lực cần có của hiệu trưởng để đáp ứng những
yêu cầu quản lý mới. Bộ Tài liệu còn là sự tổng hợp những kiến thức, kinh nghiệm và thực tiễn
quản lý giáo dục mà Dự án thu thập được thông qua các hội thảo và thực tiễn nhằm giúp hiệu
trưởng có cái nhìn rộng hơn về xu thế giáo dục hiện nay của nhiều nước trên thế giới.
Bộ Tài liệu gồm 6 cuốn:
1. Quản lý nhà nước về giáo dục;
2. Quản lý điều hành các hoạt động trong trường học;
3. Giám sát, đánh giá trong trường học;
4. Sơ lược quá trình phát triển giáo dục của Việt Nam và một số nước trên thế giới;
5. Công nghệ thông tin trong quản lý trường học
6. Quản trị hiệu quả trường học.
Bộ Tài liệu được biên soạn cho hiệu trưởng các trường phổ thông [kể cả các trường ngoài công
lập] và cũng sẽ rất bổ ích đối với các phó hiệu trưởng, tổ trưởng bộ môn, những người giúp hiệu
trưởng thực hiện kế hoạch phát triển nhà trường. Một số độc giả khác, có thể là những giáo viên,
với hy vọng một ngày nào đó họ sẽ trở thành hiệu trưởng cũng có thể tham khảo tài liệu này.
Trong lúc chưa trở thành cán bộ quản lý, việc am tường các nhiệm vụ của hiệu trưởng cũng giúp
4
Quyển 3 – Giám sát, đánh giá trong trường học
- Tài liệu tăng cường năng lực quản lý trường học
họ có khả năng giám sát hoặc hỗ trợ hiệu trưởng tốt hơn trong quá trình quản lý đang ngày càng
được yêu cầu theo hướng công khai, minh bạch.
Dự án hy vọng các cơ sở đào tạo về quản lý giáo dục, thậm chí cả các trường sư phạm cũng tìm
thấy sự hữu dụng trong bộ tài liệu này khi thực hiện các khóa đào tạo sinh viên sư phạm.
Dự án tin rằng những người công tác trong ngành giáo dục, từ các cán bộ trong Bộ GD-ĐT, cho
tới các cán bộ công tác tại các Sở GD-ĐT, Phòng GD-ĐT và những ai tiến hành các hoạt động
nghiên cứu về việc nâng cao hiệu quả hoạt động của trường học cũng sẽ tìm thấy những nội dung
bổ ích trong Bộ Tài liệu này.
Bộ Tài liệu này sẽ hỗ trợ các hiệu trưởng nói riêng và các nhà quản lý giáo dục nói chung phát
triển năng lực quản lý của mình. Tuy nhiên, do điều kiện địa lý, kinh tế và giáo dục tại các vùng
miền của nước ta rất khác nhau, tài liệu có thể chưa bao quát và đáp ứng đầy đủ nhu cầu thực tiễn
quản lý cho từng địa phương. Điều này đòi hỏi sự sáng tạo của mỗi cán bộ quản lý trong việc áp
dụng linh hoạt kiến thức quản lý giáo dục nói chung vào thực tiễn địa phương mình, phù hợp với
đặc thù nhà trường và đặc thù giáo dục của vùng miền.
Bộ tài liệu có thể được sử dụng cho nhiều mục đích: tự học, trao đổi thảo luận trong các nhóm
chuyên môn hoặc trong các hội thảo và cũng có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho các khóa đào
tạo cán bộ quản lý ở các trường, hay các khoa sư phạm, trường sư phạm.
Phương pháp sử dụng tài liệu
Do mỗi người có một xuất phát điểm khác nhau về trình độ và kinh nghiệm chuyên môn nên nhu
cầu học tập của mỗi người là rất khác nhau. Cách sử dụng phù hợp nhất là tự học theo những định
hướng phát triển của bản thân [còn gọi là học tập theo lối mở]. Có nghĩa là, người đọc tự chọn
thời gian và nội dung muốn học theo thứ tự ưu tiên của chính mình. Bằng cách này, Dự án hy
vọng rằng mỗi người học sẽ tìm được những điều mới mẻ và phù hợp với nhu cầu của riêng mình.
Nếu tự học, người đọc cần suy ngẫm về những điều vừa đọc được, so sánh, vận dụng vào thực tế
đang diễn ra. Có thể làm điều này bất cứ lúc nào, khi ở trường, ở nhà thậm chí trên đường đi công
tác. Theo cách này, người học sẽ không phải chịu áp lực từ bên ngoài mà lại có thể tự tìm ra
những gì phù hợp nhất để áp dụng cho bản thân và đơn vị của mình. Tựu chung lại, người đọc có
thể đọc từng cuốn trong Bộ Tài liệu theo bất cứ trình tự nào.
Để có thể áp dụng vào thực tiễn trường học của mình, mỗi hiệu trưởng phải tư duy và thực hành
các công việc qua các chủ đề. Cách thực hành này có thể gồm những hoạt động như lập ra các
bảng danh mục hoạt động cần kiểm tra, trả lời các câu hỏi, tập hợp dữ liệu và thảo luận với các
đồng nghiệp, có thể là giáo viên trong trường hoặc các hiệu trưởng khác.
Khi nghiên cứu, học tập Bộ Tài liệu này, bạn đọc nên tham khảo thêm các tài liệu khác, ví dụ các
quy chế, qui định được ban hành bởi các cơ quan có thẩm quyền hoặc các tài liệu tập huấn của các
cơ sở đào tạo tại trung ương hoặc địa phương để có vận dụng sát với thực tiễn. Phần các văn bản
qui phạm pháp luật liên quan tới giáo dục cập nhật tới thời điểm phát hành được cung cấp trong
đĩa CD kèm theo Bộ Tài liệu này.
Hiệu trưởng cũng nên trao đổi thảo luận giữa hiệu trưởng, các phó hiệu trưởng và các cán bộ cốt
cán trong trường để sưu tầm thêm các tài liệu về lịch sử và quá trình phát triển ngành giáo dục ở
địa phương mình hoặc các kinh nghiệm giáo dục để cụ thể hóa các nội dung và tình huống quản lý
ở trường minh, tiếp thêm sức sống cho Bộ Tài liệu.
Các hiệu trưởng cũng nên trao đổi cùng với hiệu trưởng khác trong cùng xã, huyện [trong các đợt
học tập do Phòng/Sở tổ chức] và các cán bộ quản lý tại các Phòng/Sở GD-ĐT để làm giàu lý luận
về quản lý giáo dục.
Có thể sử dụng Bộ Tài liệu này một cách chính qui hơn, ví dụ tại các hội thảo chuyên đề đổi mới
phương pháp quản lý trường học hay dùng làm tài liệu bổ trợ cho các khóa đào tạo/bồi dưỡng
hiệu trưởng hoặc những người chuẩn bị được bổ nhiệm làm hiệu trưởng do một cơ sở đào tạo về
quản lý giáo dục tiến hành.
5
Quyển 3 – Giám sát, đánh giá trong trường học
- Tài liệu tăng cường năng lực quản lý trường học
Quản lý giáo dục là một lĩnh vực khó, liên quan đến sự phát triển toàn diện của nhà trường cũng
như của từng cá nhân, đòi hỏi kiến thức sâu rộng, tích hợp nhiều kỹ năng và kinh nghiệm thực
tiễn của mỗi cán bộ quản lý, các nội dung được biên soạn trong tài liệu sẽ là những gợi ý hữu ích
cho những người làm công tác quản lý.
Dự án SREM chân thành cảm ơn sự cộng tác của hàng trăm hiệu trưởng và cán bộ quản lý các cấp
và các chuyên gia tư vấn quốc tế đã tham gia vào quá trình xây dựng Bộ tài liệu này thông qua các
cuộc hội thảo và các đợt làm việc. Danh sách các tác giả chính tham gia soạn thảo và biên tập Bộ
Tài liệu có thể tìm thấy trong mỗi cuốn.
Dự án đặc biệt cảm ơn vị Lãnh đạo cao nhất của ngành, Bộ trưởng Nguyễn Thiện Nhân đã gợi ý
Dự án xây dựng Bộ Tài liệu này.
Dự án mong rằng Bộ Tài liệu sẽ đóng góp vào tiến trình đổi mới quản lý giáo dục nhằm tăng hiệu
quả giáo dục. Hiệu quả của Bộ Tài liệu này với việc nâng cao chất lượng trường học sẽ chỉ được
nhận thấy sau một thời gian, nhưng chắc chắn Bộ Tài liệu sẽ có tác động ngay tới các Hiệu trưởng
vì tính đầy đủ và thực tiễn của nó.
GIÁM ĐỐC DỰ ÁN
GS.TS Phạm Vũ Luận
THỨ TRƯỞNG BỘ GD-ĐT
6
Quyển 3 – Giám sát, đánh giá trong trường học
- Tài liệu tăng cường năng lực quản lý trường học
Lời giới thiệu
Khi Dự án khởi thảo xây dựng cuốn sách này, đã có rất nhiều tranh luận được đưa ra về sự
cần thiết hay không cần thiết của các kiến thức cơ bản về giám sát, đánh giá và chỉ số đánh giá
chất lượng, hiệu quả hoạt động trường học. Những ý kiến không đồng thuận cho rằng, Bộ GD-ĐT
đã ban hành các tiêu chuẩn đánh giá chất lượng trường học, vì vậy, sẽ không cần đến hệ thống chỉ
số này. Việc đưa các lý thuyết về giám sát đánh giá nói chung và trong lĩnh vực giáo dục nói riêng
là không cần thiết cho đối tượng hiệu trưởng, có thể chỉ hữu ích cho số ít người muốn nghiên cứu
sâu về giám sát, đánh giá trong giáo dục.
Vậy tại sao Dự án lại vẫn đưa các kiến thức này vào cuốn sách dành cho các hiệu trưởng?
Lời diễn giải của chúng tôi là: xu thế quản lý giáo dục của nhiều nước trên thế giới hiện nay là
phân cấp quản lý một cách triệt để cho các hiệu trưởng. Họ được tự quyết định nhiều vấn đề liên
quan đến việc đảm bảo môi trường học tập và các điều kiện giảng dạy tốt nhất cho học sinh [trong
khuôn khổ những qui định của các cấp quản lý cao hơn]. Họ bị đòi hỏi phải giải trình nhiều hơn
về việc sử dụng, huy động các nguồn lực với yêu cầu ở mức độ hiệu quả nhất. Và tất nhiên, hiệu
trưởng các trường sẽ phải chịu trách nhiệm hoàn toàn về các hoạt động đã được phân cấp bởi các
cấp trên. Các hiệu trưởng sẽ phải chứng minh được họ đang dẫn dắt nhà trường đi theo đúng
đường lối, yêu cầu của các cấp quản lý, nắm chính xác tình trạng hiện tại của nhà trường để điều
hành các hoạt động theo các chuẩn mực qui định của nhà nước. Bên cạnh đó, hiệu trưởng cũng
phải xác định được mức độ tiến bộ của nhà trường, tính hiệu quả của các hoạt động, sự đáp ứng
các nhu cầu giáo dục của cộng đồng…vv.
Cách tiếp cận của chúng tôi về giám sát đánh giá trường học không phải là cách tiếp cận
“một cỡ cho tất cả”. Bởi mỗi trường học, ở mỗi môi trường khác nhau, nằm trong các vùng địa lý,
kinh tế, văn hóa khác nhau sẽ phải có các sứ mạng và mục tiêu [nói cách khác là nhiệm vụ chính
trị] khác nhau dầu rằng đều phục vụ mục tiêu giáo dục tổng thể là “nâng cao dân trí và đào tạo
nhân tài”.
Hệ thống chỉ số được Dự án xây dựng theo cách xây dựng bản đồ theo nhiều tỷ lệ, nhằm
phục vụ các loại đối tượng cần nghiên cứu. Toàn bộ các nội dung hoạt động, khía cạnh quản lý
được thể hiện trên bản đồ chi tiết nhất sẽ là công cụ quan trọng để hiệu trưởng hiểu rõ trường
mình với những thế mạnh, điểm yếu, tiềm năng, cơ hội phát triển. Hệ thống được xây dựng để đáp
ứng cho mọi thời gian mà không bị bó hẹp với các chính sách, các vấn đề cần đáp ứng trong một
khoảng thời gian nào.
Lý do khác khiến chúng tôi xây dựng hệ thống chỉ số này bởi các qui định hiện hành về
đánh giá không tập trung nhiều vào chất lượng thực hiện nhiệm vụ. Các chính sách đánh giá cán
bộ hoặc thanh tra trường học hầu như chỉ dừng ở mức độ “có hay không”, “đúng hay không
đúng”, rất ít thước đo để đánh giá được “tốt đến mức nào” và càng khó khăn để so sánh với các
trường tương đương và so sánh sự tiến bộ của chính các trường này.
Hiệu quả hoạt động của trường học được tính trên cơ sở kết quả thực hiện công việc [được
hoàn thành với chất lượng tốt nhất, thời gian thực hiện trong khoảng thời gian cho phép và sự sử
dụng đầy đủ, tiết kiệm các nguồn lực trong và ngoài nhà trường. Chính vì vậy, một số chỉ số đơn
lẻ không thể đưa đến các kết luận chính xác về tình trạng hoạt động và mức độ thành công của
một trường mà phải cần đến các nhóm chỉ số. Bởi vậy, hệ thống chỉ số của dự án được xây dựng
theo 4 phương diện: bối cảnh, đầu vào, quá trình và đầu ra.
Chúng tôi cũng đưa vào cuốn sách này Bộ chỉ số dành cho hiệu trưởng tự đánh giá bản thân
theo yêu cầu năng lực cần có đối với hiệu trưởng. Hy vọng rằng cuốn sách sẽ là tài liệu tham khảo
hữu ích cho các hiệu trưởng trong việc giám sát các hoạt động trong trường học và tự đánh giá sự
tiến bộ của trường mình.
Thay mặt nhóm soạn thảo
Th.S Nguyễn Thị Thái
Phó Vụ trưởng, Phó GĐ dự án
7
Quyển 3 – Giám sát, đánh giá trong trường học
- Tài liệu tăng cường năng lực quản lý trường học
Chương 1: TỔNG QUAN VỀ GIÁM SÁT, ĐÁNH GIÁ
Nhu cầu tăng cường công tác giám sát, đánh giá
Ngày nay, chính phủ các nước đều rất quan tâm tới việc nâng cao chất lượng và hiệu quả
hoạt động của các cơ quan quản lý nhà nước, vì họ phải đối mặt ngày càng nhiều với những yêu
cầu cải cách của các bên hữu quan, phải chứng minh tính trách nhiệm, tính minh bạch, yêu cầu
thiết lập các chính sách công bằng, cung cấp hàng hoá, dịch vụ kịp thời và hiệu quả. Hầu hết các
nước đều phải dùng biện pháp cắt giảm biên chế, cắt giảm ngân sách, đưa ra các lựa chọn tối ưu
để sử dụng nguồn lực một cách hiệu quả nhất. Những áp lực đó ngày càng gia tăng khi phải làm
việc nhiều hơn với nguồn lực hạn chế mà vẫn phải đảm bảo đạt được các kết quả mong đợi.
Càng ngày người ta càng phải quan tâm hơn tới các kết quả thực tế. Liệu các chính sách,
chương trình hoặc các dự án có đem lại kết quả như mong đợi không? Làm sao có thể biết được là
chúng ta đang đi đúng hướng? Làm sao có thể nhận biết được các “vấn đề” trong quá trình thực
hiện? Làm sao có thể phân biệt được thành công và thất bại, tiến lên hay thụt lùi? Liệu các
chương trình cải cách có đem lại thay đổi tốt hơn? Làm sao có thể phát hiện được các trở ngại có
thể gặp phải khi thực hiện? Ít nhất thì cũng cần biết được tình trạng ban đầu để có thể xác định
khoảng cách phải đi để đạt được mục tiêu?
Xu hướng thực hiện các chương trình cải cách như phân cấp quản lý, tự do hoá, thương
mại hoá, tư nhân hoá đã làm tăng nhu cầu giám sát, đánh giá tại các cấp quản lý. Nhu cầu này
càng tăng lên khi các tổ chức tư nhân được phép đảm nhận một số chức năng mà trước đây chỉ do
các cơ quan nhà nước thực hiện.
Với sự tăng cường chính sách phân cấp quản lý, chính phủ phải tăng cường việc theo dõi,
đánh giá sự tác động của các chính sách, chương trình, dự án đã ban hành, không phân biệt ai là
người thực hiện các chính sách, chương trình, dự án đó. Lúc này, những người thực hiện cần phải
thể hiện tính tự chịu trách nhiệm, phải đạt được những kết quả thực sự đáp ứng yêu cầu của các
bên hữu quan.
Thực tế này đòi hỏi các chính phủ ngày càng phải quan tâm tới các công cụ quản lý quá
trình thực hiện.
I. KHÁI NIỆM VỀ GIÁM SÁT, ĐÁNH GIÁ
1. Giám sát
Giám sát là hoạt động được tiến hành thường xuyên, liên tục thông qua một hệ thống
công cụ để thu thập, cập nhật, so sánh và phân tích các thông tin dữ liệu trong suốt quá trình thực
hiện. Nó giúp các nhà quản lí xem xét tiến độ triển khai và kết quả đạt được; giúp họ biết được
tình trạng tương đối của chính sách, chương trình, dự án tại một thời điểm nào đó [hoặc trong một
khoảng thời gian nào đó] so với các chỉ tiêu và kết cục tương ứng.
Giám sát không phải là việc tự thân đánh giá, mà là một quy trình mà nhờ đó tiến độ hoạt
động được quan sát và phân tích thường xuyên và liên tục nhằm đảm bảo việc đạt được những kết
quả mong muốn. Giám sát được thực hiện bằng cách thường xuyên tập hợp và phân tích thông tin
để kiểm tra kết quả thực hiện các hoạt động của chương trình. Cụ thể là làm rõ mục tiêu của các
hoạt động, gắn kết các hoạt động và nguồn lực với các mục tiêu rồi chuyển thành các chỉ số phản
ánh kết quả hoạt động, sau đó so sánh số liệu thật thu thập được với các chỉ tiêu đã đề ra. Cuối
cùng là báo cáo tiến độ cho các nhà quản lí và cảnh báo về các vấn đề phát sinh.
Việc giám sát thường được tiến hành trong nội bộ do những người có trách nhiệm quản lý
tiến hành, họ cần biết:
• các đầu vào [nguồn lực] có được sử dụng hay không? và sử dụng như thế nào?
• các hoạt động có được tiến hành theo kế hoạch không? Có hoàn thành không? Như thế
nào? và
• các đầu ra có đạt được như mong đợi hay không?
8
Quyển 3 – Giám sát, đánh giá trong trường học
- Tài liệu tăng cường năng lực quản lý trường học
Mục đích của giám sát là để:
- hỗ trợ công tác quản lý;
- chỉ cho người quản lý thấy việc thực hiện diễn ra như thế nào, tiến độ thực hiện có
đúng kế hoạch không để điều chỉnh/cải tiến việc thực hiện;
- giúp người quản lý xác định các dấu hiệu của sự chậm trễ và nguyên nhân của nó;
- cảnh báo về các điều chỉnh cần thiết phải tiến hành nhằm đảm bảo sự thành công;
- giúp người quản lý lựa chọn các hành động cần thiết để đưa việc thực hiện về đúng
hướng như kế hoạch đã định, đáp ứng được các yêu cầu về số lượng và qui cách kỹ thuật như đề
ra trong mục tiêu.
Một hệ thống giám sát hiệu quả có thể cung cấp các thông tin phục vụ cho nhiều mục đích
khác nhau, có thể là các thông tin về tiến độ, về kết quả của các hoạt động, về nguyên nhân dẫn
đến thành công hoặc thất bại. Giám sát chỉ ra những chậm trễ và nguyên nhân của nó để giúp nhà
quản lý quyết định các hành động tiếp theo. Hoạt động giám sát được thực hiện theo trình tự các
bước, sử dụng các phương pháp và công cụ đặc trưng.
Nguồn thông tin và dữ liệu phục vụ giám sát bao gồm những tài liệu chuyên môn nội bộ
như các báo cáo nhiệm vụ, báo cáo tháng/quý, hồ sơ đào tạo, biên bản các cuộc họp, v.v.
2. Đánh giá
Đánh giá là việc xem xét, rà soát một cách có hệ thống và khách quan về một chính sách,
chương trình, dự án đang triển khai hoặc đã hoàn thành. Đánh giá giúp làm rõ việc tuân thủ, thực
hiện trách nhiệm giải trình và phát hiện những khó khăn, vướng mắc nảy sinh nhằm tìm biện pháp
khắc phục hoặc phòng ngừa. Quá trình đánh giá cung cấp các thông tin đáng tin cậy và hữu ích,
cho phép rút ra các bài học kinh nghiệm trong việc ra quyết định của cơ quan quản lý nguồn lực.
Đánh giá đôi khi được dùng để bao hàm cả việc giám sát nhưng thường thì người ta sử dụng đánh
giá theo nghĩa hẹp hơn là việc kiểm tra toàn diện các đầu ra và tác động của một chương trình/dự
án, việc nó đóng góp vào mục đích và mục tiêu của chương trình/dự án đó như thế nào.
Đánh giá cung cấp bằng chứng về các chỉ tiêu và kết quả thực hiện, tìm cách giải quyết
các vấn đề trên cơ sở quan hệ nhân quả và tập trung chú ý vào kết cục và tác động.
Đánh giá trả lời các câu hỏi:
[i] "Vì sao?", tức là cái gì đã gây ra các thay đổi đang được giám sát;
[ii] "Như thế nào?" tức là tiến trình nào đã dẫn đến các kết quả thành công hay thất bại;
[iii]"Việc tuân thủ và trách nhiệm đến đâu?", tức là làm rõ các hoạt động đã lên kế hoạch
có được thực hiện theo kế hoạch hay không.
Đánh giá có những mục đích sau:
i. Đánh giá, kiểm tra định kỳ 5 tiêu chí liên quan đến tình hình thực hiện: thích hợp; hiệu
suất; hiệu quả; tác động và tính bền vững [của một hoạt động, chương trình, dự án] *.
ii. Phân tích và làm rõ sự tương quan giữa kết quả đạt được trên thực tế so với mục tiêu
đã nêu trong văn bản được cấp thẩm quyền phê duyệt;
iii. Xác định các vấn đề và những vướng mắc nảy sinh hoặc tiềm ẩn để khuyến nghị các
hành động khắc phục, giải pháp phòng ngừa hiệu quả;
iv. Đảm bảo tuân thủ các qui trình, thủ tục quản lý;
v. Cung cấp thông tin cho các bên liên quan về kết quả và tác động của chương trình, dự
án [kết quả và tác động đó có bền vững hay không];
vi. Rút ra bài học kinh nghiệm cho việc lập kế hoạch và thiết kế các hoạt động, chương
trình, dự án tiếp theo và hoàn thiện các chính sách phát triển;
9
Quyển 3 – Giám sát, đánh giá trong trường học
- Tài liệu tăng cường năng lực quản lý trường học
vii. Tạo điều kiện thực hiện trách nhiệm giải trình, bao gồm cả việc cung cấp thông tin cho
công chúng.
Đánh giá được thực hiện theo trình tự các bước, sử dụng các phương pháp và công cụ đặc
trưng. Giám sát, đánh giá có thể thực hiện ở cấp vĩ mô, cấp hoạch định chính sách, và ở cấp cơ sở.
* 5 tiêu chí của quá trình thực hiện
• Tính thích hợp: chương trình, chính sách hoặc dự án có giải quyết được các mục tiêu, yêu cầu đã
được xác định không? Sản phẩm của các chương trình, chính sách này có được chấp nhận không?
• Hiệu suất: chúng ta có đang sử dụng nguồn lực có sẵn một cách khôn ngoan và hiệu
quả hay không? Số lượng các nguồn lực được sử dụng để sản xuất ra sản phẩm có vượt quá các
chuẩn mực không?
• Hiệu quả: những đầu ra mong muốn có đạt được hay không? chương trình, chính sách
hoặc dự án có đạt được kết quả đề ra hay không? Mục tiêu hoặc một kết quả mong muốn có đạt ở
mức cao nhất với chi phí thấp nhất không?
• Ảnh hưởng/tác động: những mục tiêu rộng hơn có đạt được không? Những thay đổi
nào đã diễn ra lấy đích là các cá nhân và/hoặc cộng đồng? Hiệu quả đối với cộng đồng, xã hội và
môi trường do việc theo đuổi và đạt một mục tiêu.
• Tính bền vững: Ảnh hưởng/tác động mà chương trình, chính sách hoặc dự án tạo ra có bền
vững không? Liệu các cơ cấu và quy trình có được thiết lập để tồn tại bền vững không? những lợi
ích và thay đổi do chương trình hoặc dự án đem lại có được tiếp tục sau khi kết thúc chương trình
không?
Phân loại đánh giá
Tùy thuộc vào bản chất của chương trình và mục đích của việc đánh giá, người ta có thể
phân loại các hoạt động đánh giá theo các tiêu chí phân định khác nhau.
Nếu dựa vào đối tượng tiến hành việc đánh giá, ta có thể phân thành:
• Đánh giá nội bộ - Internal evaluation [đôi khi gọi là đánh giá trong]: là khi việc đánh
giá liên quan đến một chương trình được thực hiện hoàn toàn trong cơ quan/tổ chức, do những
người ở cùng một cơ quan/tổ chức với những người quản lý chương trình thực hiện, đôi khi có
hợp tác với sự giúp đỡ của những người đánh giá bên ngoài;
• Đánh giá ngoài – external evaluation [còn gọi là đánh giá độc lập]: là khi việc đánh
giá liên quan đến một chương trình mà việc thực hiện chương trình này do những người ở ngoài
cơ quan, [thường là những cán bộ đánh giá độc lập] tiến hành.
• Tự đánh giá – self-evaluation: là một hình thức đánh giá nội bộ do chỉ những người
thực hiện chương trình thực hiện; và
Nếu dựa vào mục đích sử dụng kết quả đánh giá, có thể chia ra:
• Đánh giá định hình: khi mục đích đánh giá là điều tra thực trạng
Loại đánh giá này bao gồm các hoạt động điều tra nhằm thu thập ý kiến, cải tiến và đưa ra
phương pháp tiếp cận mới, giúp cho việc thiết kế chương trình hoặc thực hiện chương trình. Ví
dụ: khi soạn thảo một cuốn sách giáo khoa mới, cuốn sách này cần được đánh giá ở các giai đoạn
khác nhau. Đầu tiên, việc soạn thảo nội dung được đưa ra tham khảo ý kiến của các chuyên gia sư
phạm. Sau đó, các phần khác nhau trong sách giáo khoa được đưa vào sử dụng trên quy mô nhỏ.
Bản đầu tiên của cuốn sách được đánh giá trong quá trình đưa vào giảng dạy trên thực tế. Kết quả
của quá trình đánh giá định hình có thể được sử dụng để từ đó sửa đổi cho phù hợp với thực tế.
Đánh giá định hình còn mang tính phê bình và có thể dẫn đến việc dừng quá trình thực hiện.
• Đánh giá tổng kết: Mục đích đánh giá này là rút ra các bài học kinh nghiệm cho tương
lai khi thực hiện xong một chính sách, chương trình, dự án.
10
Quyển 3 – Giám sát, đánh giá trong trường học
- Tài liệu tăng cường năng lực quản lý trường học
• Đánh giá tác động: Mục đích đánh giá này là rút ra kết luận về những tác động, ảnh
hưởng và tính bền vững của một chương trình, chính sách, dự án [sau khi chương trình, chính
sách, dự án đó đã thực hiện xong một thời gian]. Đánh giá tác động được dùng để đánh giá kết
quả cuối cùng. Tuy nhiên, theo lý thuyết về đánh giá, không nên phân biệt quá rạch ròi giữa đánh
giá định hình và đánh giá tác động vì bản chất việc ra quyết định cũng hiếm khi đưa ra quyết định
‘dừng lại/tiếp tục’ một cách rõ ràng. Do đó, kết quả đánh giá tác động cũng có thể dẫn đến việc
dần dần đưa ra quyết định hoặc xây dựng chương trình.
Mối tương quan giữa giám sát và đánh giá
Giám sát và đánh giá đều là những công cụ quản lý, có chức năng khác nhau và thường
phục vụ cho các đối tượng sử dụng khác nhau. Bảng 1 dưới đây cho thấy sự khác nhau giữa GS
và ĐG. Giám sát và đánh giá liên hệ mật thiết với nhau, hỗ trợ cho nhau và quan trọng như nhau.
Cụ thể:
- Giám sát cung cấp thông tin định tính và định lượng thông qua việc sử dụng những chỉ số
đã được lựa chọn và những thông tin này trở thành đầu vào cho hoạt động đánh giá.
- Nếu chỉ có giám sát mà không có đánh giá thì chỉ giúp được chính sách, chương trình đi
đúng hướng; có cảnh báo sớm; tránh được thất thoát nhưng không thấy được tác động của
chúng, không rút ra được những bài học kinh nghiệm. Ở khía cạnh này, đánh giá hỗ trợ
cho giám sát.
- Nếu chỉ có đánh giá mà không có giám sát thì sẽ không cập nhật được tình hình thường
xuyên, không thực hiện được công tác báo cáo, không có những cảnh báo sớm kịp thời và
do đó, trách nhiệm giải trình cũng không được thực hiện kịp thời.
Bảng 1. Sự khác nhau giữa giám sát và đánh giá
Giám sát Đánh giá
Thực hiện liên tục hoặc định kỳ Thực hiện theo giai đoạn hoặc đột xuất
Giám sát tình hình thực hiện các mục Đánh giá các mục tiêu trong mối quan hệ với các
tiêu đã đặt ra. mục đích ở cấp độ cao hơn hoặc với các vấn đề phát
sinh cần giải quyết.
So sánh với các chỉ số tiến độ đã xác Đặt câu hỏi về tính đúng đắn và hợp lý của các chỉ
định trước. số định trước.
Theo dõi tiến độ dựa vào một số ít Giải quyết các vấn đề thuộc nhiều phạm vi khác
các chỉ số đã được xác định trước. nhau.
Tập trung vào các kết quả dự kiến. Xác định các kết quả dự kiến và ngoài dự kiến.
Chủ yếu sử dụng phương pháp định Sử dụng phương pháp định lượng và phương pháp
lượng. định tính.
Thu thập dữ liệu thường xuyên. Thu thập dữ liệu từ nhiều nguồn khác nhau.
Thường là một chức năng của quản lý Thường do các chuyên gia đánh giá độc lập và các
nội bộ. cơ quan bên ngoài khởi xướng và thực hiện.
II. GIÁM SÁT, ĐÁNH GIÁ TRONG GIÁO DỤC
1. Khái niệm
Giám sát trong giáo dục là hoạt động theo dõi quá trình thực hiện các hoạt động giáo dục
thông qua việc thường xuyên xem xét, rà soát sự tiến bộ, việc sử dụng các nguồn lực, so sánh với
các kết quả đầu ra, dựa trên các chỉ số hoạt động, và đưa ra các ý kiến phản hồi cho các cấp quản
11
Quyển 3 – Giám sát, đánh giá trong trường học
- Tài liệu tăng cường năng lực quản lý trường học
lý và các bên liên quan. Giám sát cần thiết cho việc xác định hiệu quả thực hiện các hoạt động
nhằm đạt được các mục tiêu lâu dài. Giám sát hỗ trợ cho đánh giá.
Đánh giá trong giáo dục là việc xem xét, xác định chất lượng của đối tượng được đánh giá
[có thể là một cơ sở giáo dục hay cá nhân hoặc một chương trình, chính sách, dự án giáo dục],
trên cơ sở thu thập thông tin một cách hệ thống nhằm hỗ trợ việc ra quyết định và rút ra bài học
kinh nghiệm.
Cũng như các hệ thống khác, GS-ĐG trong giáo dục sử dụng bộ thước đo gồm các tiêu
chí/tiêu chuẩn/chỉ số để đo lường các lĩnh vực hoạt động giáo dục. Bộ công cụ này có thể dùng để
đánh giá, đo lường các điều kiện đảm bảo chất lượng, chất lượng giáo dục và hiệu quả hoạt động
giáo dục.
Việc GS-ĐG chất lượng giáo dục phục vụ các mục đích khác nhau như: xếp hạng, khuyến
khích tài chính và kiểm định công nhận.
2. Các chức năng của giám sát, đánh giá trong giáo dục
2.1. Kiểm định và cấp chứng chỉ
Chức năng này cho phép cơ quan, tổ chức đánh giá chứng nhận rằng cơ sở giáo dục hoặc
cá nhân [học sinh, sinh viên, giáo viên..] đã đạt được các chuẩn mực một cách chính thức và hợp
pháp [ví dụ: một trường đạt được chuẩn chất lượng ở mức nào đó hoặc học sinh nhận được bằng
tốt nghiệp/chứng chỉ chứng nhận đã hoàn thành khóa học].
2.2. Trách nhiệm giải trình
Chức năng này cho phép các cơ quan quản lý cấp trên thanh tra, kiểm tra chất lượng, hiệu
quả thực hiện các hoạt động của các cơ sở giáo dục hoặc các cơ quan quản lý cấp dưới theo thẩm
quyền, trách nhiệm được giao, kiểm tra việc tuân thủ các qui định về nghĩa vụ quyền hạn và để
nhận biết những phần hoạt động chưa hiệu quả. Chức năng này thường được thực hiện bởi thanh
tra các cấp.
2.3. Rút ra bài học kinh nghiệm để cải thiện tình hình
Trong chức năng này, GS-ĐG đóng vai trò đánh giá định hình [đánh giá tình hình trước
hoặc trong khi triển khai một chính sách/chương trình] vì nó cung cấp các thông tin thực trạng
phục vụ cho việc hoạch định một chính sách, thúc đẩy một hoạt động/chương trình hay để sửa
đổi/điều chỉnh trong quá trình thực hiện. Ví dụ: kết quả các kỳ kiểm tra chất lượng đầu vào được
dùng để tìm ra những điểm yếu của học sinh và tìm biện pháp hỗ trợ chứ không phải là quyết định
xem liệu học sinh học tập có đạt yêu cầu để cấp chứng chỉ không.
Đánh giá giáo dục được coi là hoạt động phân tích từ phương tiện đến mục đích. Phân tích
này cũng tương tự như phân tích nguyên nhân và kết quả, và vì thế đánh giá không chỉ đơn thuần
xem xét đã đạt được các thành tựu trong hoạt động hay chưa mà nó còn có mang tính chất của
việc phân tích nguyên nhân.
3. Mục đích của giám sát, đánh giá trong giáo dục
Giám sát, đánh giá có nhiều mục đích, có thể qui lại thành một số mục đích lớn dưới đây:
3.1. Điều chỉnh định mức chất lượng và chất lượng phục vụ
- Việc tổ chức các kỳ thi là để đánh giá học sinh. Kết quả các kì thi sẽ cho biết không chỉ kết quả học
tập của từng học sinh mà còn cho thấy chất lượng của cả hệ thống giáo dục hoặc ở các phạm vi
hẹp hơn như giáo dục của một tỉnh, một huyện hoặc một trường.
- Tỷ lệ học sinh thi đỗ [ví dụ đỗ vào đại học] có thể dùng để đánh giá chất lượng chương
trình học và chất lượng dạy và học tại các trường [cùng với một số chỉ số bối cảnh khác].
- Các hệ thống kiểm soát chất lượng được áp dụng để kiểm tra các điều kiện đảm bảo chất
lượng thông qua quản lý giáo dục và các quy trình quản lý tại các cơ sở giáo dục.
12
Quyển 3 – Giám sát, đánh giá trong trường học
- Tài liệu tăng cường năng lực quản lý trường học
3.2. Thực hiện trách nhiệm giải trình của hệ thống giáo dục
Các nhà trường phải thực hiện trách nhiệm giải trình trước các cơ quan quản lý cấp trên và
với cộng đồng, xã hội về trách nhiệm của nhà trường trong việc:
+ Đảm bảo sử dụng hiệu quả các nguồn lực chi cho các hoạt động giáo dục.
+ Tổ chức thực hiện hiệu quả các hoạt động giáo dục và đảm bảo chất lượng các hoạt động
[hoặc vượt yêu cầu]. Chất lượng các hoạt động có thể liên quan đến:
Việc lựa chọn đúng đắn các mục tiêu giáo dục,
Việc đạt được các mục tiêu giáo dục,
Việc phân bổ công bằng và đồng đều các nguồn lực giáo dục,
Việc sử dụng tiết kiệm, hiệu quả các nguồn lực.
3.3. Là cơ chế kích thích nâng cao chất lượng giáo dục
Kết quả giám sát, đánh giá luôn là căn cứ quan trọng để thực hiện các hoạt động sửa đổi
tiếp theo hoặc cải thiện tình hình. Qui trình đánh giá – cho ý kiến phản hồi – hành động chính là
cơ chế của một quá trình ‘học tập mang tính tổ chức’ và cũng là cơ chế khuyến khích quá trình tự
học và nâng cao năng lực ở các cơ sở giáo dục.
Học tập những bài học kinh nghiệm từ đánh giá, đặc biệt từ các hoạt động không thành
công có một vai trò quan trọng trong việc điều chỉnh hay thiết kế lại các chương trình/hoạt động
giáo dục.
4. Đối tượng, tiêu chí và các chuẩn mực đánh giá
4.1. Đối tượng đánh giá
Trong lĩnh vực giáo dục, các đối tượng đánh giá có thể gồm: hệ thống giáo dục quốc gia
hay một khu vực nhỏ trong hệ thống giáo dục, ví dụ giáo dục của một tỉnh, một trường, một nhóm
trường [ví dụ các trường chuyên], một chương trình cụ thể nào đó [ví dụ chương trình đổi mới
sách giáo khoa], hoặc cá nhân [ví dụ giáo viên và học sinh].
Để đánh giá một tổ chức, các nhà nghiên cứu đưa ra một cấu trúc phác họa chức năng của
một tổ chức [không loại trừ nhà trường] như một chiếc hộp đen, với giả định là trong hộp đen,
diễn ra các quá trình chuyển hóa đầu vào thành đầu ra.
Đầu vào Tổ chức như một chiếc “hộp đen” Đầu ra
Mô hình này coi hệ thống giáo dục có các chức năng sản xuất: các đầu vào của giáo dục
được chuyển thành các đầu ra giáo dục. Các đầu vào thông thường là các nguồn lực vật chất và tài
chính, đặc tính của các cấu trúc hoặc quá trình mang tính tổ chức và định hướng. Đầu ra của quá
trình học tập là kết quả học tập của học sinh [qua các kỳ kiểm tra]. Vì vậy, đánh giá chất lượng
của hộp đen chính là đánh giá sản phẩm đầu ra. Về mặt kinh tế, hiệu suất chính là tỉ lệ đầu ra với
đầu vào, trong đó đầu ra là chất lượng sản phẩm ở mức độ dung sai cho phép. Còn đầu vào có thể
được hiểu rộng hơn bao gồm cả các nguồn tài chính hay cơ sở vật chất.
Như vậy, khi muốn xác định quá trình nào là hiệu quả nhất để đạt được mức độ đầu ra
mong muốn thì sơ đồ này chưa đáp ứng. Ví dụ muốn so sánh hiệu quả chi phí của các trường có
tỷ lệ học sinh khá giỏi ngang nhau [hoặc có kết quả thi quốc gia tương đương nhau] nhưng khác
nhau về chỉ số chi tiêu ngân sách trên đầu học sinh thì không thể kết luận ngay là trường chi tiêu ít
hơn sẽ được coi là trường có hiệu quả kinh tế tốt hơn. Kết luận này chưa chính xác bởi ta cần xét
đến tỷ lệ học sinh/lớp của các trường. Ví dụ các trường miền núi có tỷ lệ học sinh/lớp nhỏ hơn sẽ
đòi hỏi các chi phí cơ bản cao hơn. Chất lượng đầu vào của học sinh cũng góp phần làm dễ dàng
13
Quyển 3 – Giám sát, đánh giá trong trường học
- Tài liệu tăng cường năng lực quản lý trường học
hơn [hay làm khó khăn lên] quá trình giảng dạy của giáo viên. Trong trường hợp này, cần có các
chỉ số bối cảnh làm căn cứ đánh giá cho chỉ số hiệu quả chi phí cho giáo dục.
Để có thể đánh giá chính xác hơn chất lượng, hiệu quả hoạt động của một tổ chức, các nhà
khoa học đưa ra mô hình đánh giá cơ bản trong đó người tiến hành đánh giá phải xem xét đến cả 4
phương diện: Đầu vào, Quá trình, Đầu ra và Bối cảnh.
Sơ đồ dưới đây giúp xác định các đối tượng đánh giá một cách đầy đủ hơn. Bản thân mỗi
yếu tố đầu vào, quá trình thực hiện, đầu ra và điều kiện thực tế [bối cảnh] đều được đánh giá.
Theo đó, có thể phân biệt việc đánh giá từng phương diện đầu vào, quá trình, đầu ra và bối cảnh,
trong đó đánh giá quá trình thực hiện và đầu ra là thường gặp nhất. Trong trường hợp đánh giá
đầu ra, nguồn lực tài chính dành cho hệ thống giáo dục quốc gia sẽ được miêu tả và xem xét ở
mức độ được cho là đủ để có thể vận hành hệ thống. Các chỉ số của quá trình thực hiện có thể
được đánh giá bằng cách so sánh chúng với các khái niệm về chất lượng giáo dục tốt, trong khi
đầu ra có thể được xem xét dựa trên những chuẩn mực định trước.
Sơ đồ 1: Mô hình các hệ thống cơ bản
Bối cảnh
Đầu vào Quá trình hoặc số liệu nhập vào Đầu ra
Cấp trường
Cấp lớp
4.2. Tiêu chí và chuẩn mực đánh giá
Tiêu chí đánh giá là thước đo được hình thành từ các diễn giải mang tính đánh giá. Ví dụ,
một bài kiểm tra toán có thể được sử dụng như một tiêu chí trong đánh giá giáo dục. Còn Chuẩn
mực đánh giá liên quan đến hai vấn đề: tiêu chí [theo cách giải thích ở trên] và quy tắc mà dựa
vào đó để xác định mức độ “thành công”hay “thất bại”.
Đo lường các tiêu chí
Đánh giá đầu ra
Giáo dục và chức năng của các tổ chức giáo dục được phân loại thành “mục đích” và “phương
tiện”. Các mục tiêu giáo dục, các tiêu chuẩn, các kết quả cần đạt được sau một thời gian đi học
được coi là “mục đích”. Các sắp xếp mang tính tổ chức, việc cung cấp thiết bị, thời gian đầu tư
của giáo viên, các chiến lược dạy và học là các “phương tiện” để đạt được mục tiêu đó.
Để đánh giá đầu ra trong giáo dục, các hình thức thường dùng nhất là kiểm tra kết quả học tập của
học sinh qua các bài thi. Tuy nhiên, thi, kiểm tra cũng không được coi là cách thức hoàn hảo để
đánh giá, bởi vì ngay cả việc thi, kiểm tra cũng có sai sót. Sai sót này được thể hiện thông qua sự
không nhất quán giữa kết quả trên bài thi và trình độ thực tế [do rất nhiều nguyên nhân]. Khi
nguồn gốc của sai sót được coi là những yếu tố bất thường phụ thuộc vào những điều kiện bên
ngoài [chẳng hạn như học sinh bị ốm khi đi thi, học sinh bị tiếng động xây dựng trong trường
hoặc khí hậu nắng nóng làm ảnh hưởng trong lúc làm bài thi], thì sẽ dẫn đến những kết quả thiếu
14
Quyển 3 – Giám sát, đánh giá trong trường học
- Tài liệu tăng cường năng lực quản lý trường học
độ tin cậy. Khi các sai sót mang tính kỹ thuật hoặc có tính hệ thống thì vấn đề đặt ra là kết quả có
hợp lệ hay không hợp lệ [nhầm đề, bóc sai đề thi, lộ đề thi, thi hộ].
Để giải quyết vấn đề về độ tin cậy, các đề thi cần chính xác và rõ ràng để chúng không dễ bị ảnh
hưởng bởi các xáo trộn bên ngoài. Độ tin cậy thường được kiểm tra thông qua các tình huống thi
thử trong quá trình xây dựng đề thi, có thể tổ chức thi thử hai lần với cùng một đối tượng. Việc
kiểm tra tính hợp lệ của bài thi nhằm đảm bảo kỳ thi có thể đạt được mục đích đánh giá đã được
đề ra lúc đầu. Độ tin cậy là điều kiện đi trước đảm bảo tính hợp lệ, song điều đó không có nghĩa là
một đề thi đáng tin cậy sẽ hợp lệ.
Đánh giá đầu vào, quá trình thực hiện và bối cảnh thực hiện
Đầu vào của giáo dục được xác định một cách linh hoạt. Chúng được coi là nguồn lực con người
chứ không phải là nguồn lực vật chất hay tài chính. Đầu vào cũng được phân biệt theo bốn nhóm:
[i] học sinh [ví dụ các thông tin cơ bản về học sinh, sự hỗ trợ của gia đình, sự giáo dục của gia
đình, thành tích trước đây…]; [ii] lớp học [ví dụ kinh nghiệm của giáo viên, sự tận tình của giáo
viên, quy mô lớp học…]; [iii] trường học [ví dụ cơ sở vật chất, nguồn lực tài chính, tỉ lệ học
sinh/giáo viên, quy mô trường…]; [iv] bối cảnh [ví dụ sự thúc đẩy của cấp trên về việc đạt các chỉ tiêu
đề ra trong kế hoạch, yêu cầu bảo vệ quyền lợi của người tham gia giáo dục..].
Việc xác định nguồn lực tài chính dựa trên các phương pháp kế toán và việc xây dựng chỉ số. Chỉ
số quan trọng nhất là chi phí cho một học sinh. Các biến số khác như các điều kiện bên ngoài, sự
tận tình của giáo viên, hoàn cảnh gia đình của học sinh thường được tìm hiểu thông qua phiếu câu
hỏi.
Dữ liệu về lớp học thường được thu thập bằng các kỹ năng quan sát trực tiếp khi dự giờ. Các biện
pháp khác bao gồm việc tự quan sát, theo đó giáo viên có thể sử dụng sơ đồ để quan sát học sinh
hoặc giáo viên tự báo cáo về một số vấn đề liên quan đến giờ đứng lớp của họ. Các phương pháp
nghiên cứu sâu khác như phỏng vấn, quan sát ngẫu nhiên, phân tích tài liệu được dùng để đo chỉ
số ở cấp trường về các vấn đề như quản lý trường học, không khí trong trường.
4.3. Nguồn thông tin dữ liệu dùng cho đánh giá
- Kết quả học tập rèn luyện của học sinh [tỉ lệ tốt nghiệp, số học sinh theo học lên bậc cao hơn].
- Số liệu thống kê trong giáo dục [số liệu về đầu vào như chi phí và nguồn nhân lực, vật lực, qui
mô trường lớp, tỷ lệ theo học..];
- Các chỉ số đánh giá chất lượng giáo dục: là một số liệu thống kê cụ thể đại diện cho một khía
cạnh chủ chốt của giáo dục bằng việc kết hợp một vài số liệu thống kê hoặc biến số [ví dụ: tỉ
lệ học sinh/giáo viên];
- Thông tin, dữ liệu từ các báo cáo tổng kết.
Hệ thống thông tin quản lý cấp ngành
Số liệu thống kê giáo dục có vai trò quan trọng trong giám sát, đánh giá giáo dục. Số liệu
thống kê giáo dục cấp ngành phải có được những thông tin cơ bản nhất về qui mô trường, lớp, qui
mô giáo viên, học sinh và các phương tiện điều kiện phục vụ các hoạt động giáo dục. Các số liệu
về tài chính cũng rất cần thiết để tính hiệu quả chi phí cho giáo dục. Thông tin về dòng di chuyển
của học sinh trong hệ thống giáo dục, tỉ lệ nhập học, tỷ lệ các nhóm trẻ thiệt thòi, tỉ lệ thành công
trong nhóm tuổi cũng rất cần thiết.
Để quản lý hệ thống thông tin quốc gia cần phải có một đơn vị chịu trách nhiệm về số liệu
thống kê giáo dục. Trong đơn vị đó cần có một phòng chuyên trách để xây dựng các chỉ số trong
các lĩnh vực mà số liệu thống kê không bao quát được hết các phạm trù có trong mô hình lý
thuyết.
15
Quyển 3 – Giám sát, đánh giá trong trường học
- Tài liệu tăng cường năng lực quản lý trường học
Mức độ cụ thể của hệ thống thông tin quản lý cần phải phù hợp với mẫu hình quản lý tập
trung hay phân cấp của hệ thống giáo dục hiện hành. Sự thiếu phù hợp sẽ dẫn đến tình trạng đối
lập kiểu “quản lý tập trung” trong một bối cảnh phân cấp.
Hệ thống thông tin quản lý cấp trường
Hệ thống thông tin quản lý cấp trường là một hệ thống thông tin dựa trên một hoặc một số
máy tính, bao gồm ngân hàng dữ liệu và một/một số phần mềm ứng dụng, giúp cho việc lưu trữ
dữ liệu trên máy tính, phân tích dữ liệu và cung cấp dữ liệu.
Hệ thống thông tin quản lý trường học giúp trả lời câu hỏi kiểu như: sau một thời gian áp
dụng các biện pháp đối với tình trạng vắng mặt không lý do, tình trạng này đã được cải thiện hay
chưa. Nhà trường dựa vào thông tin do hệ thống này cung cấp để có những điều chỉnh cần thiết
cho hoạt động của trường, do đó cán bộ quản lý và các cán bộ khác trong trường là những người
chủ yếu sử dụng những thông tin này.
Chính quyền địa phương và các cơ quan quản lý giáo dục cấp trên [Phòng/Sở] sẽ có thể
cần đến những thông tin cụ thể nào đó lấy ra từ hệ thống này.
Hệ thống thông tin quản lý có tiềm năng rất lớn trong việc cung cấp thông tin quan trọng
hàng ngày. Thông thường, trường cần phải có đủ máy tính và phần mềm chuyên nghiệp. Một số
chức năng bảo hành cần được thực hiện, trong khi đó một số chức năng khác cần được thực hiện
đầy đủ để đảm bảo việc nhập dữ liệu thường xuyên. Việc xây dựng hệ thống thông tin quản lý
trường đòi hỏi chi phí đáng kể để phát triển hệ thống, bao gồm việc cung cấp cơ sở hạ tầng phần
cứng, đường truyền thông tin, phần mềm, soạn thảo cẩm nang sử dụng và qui định về việc báo
cáo, bảo trì và cập nhật thông tin thường xuyên.
Việc đưa hệ thống vào sử dụng cần phải phù hợp với phong cách quản lý trường học, cần
có các diễn đàn thông tin đầy đủ và làm quen với các khía cạnh liên quan đến công nghệ thông
tin. Thông thường sẽ có nhiều chức năng mới cần được thực hiện.
Các vấn đề nảy sinh trong quá trình thực hiện là sự cân bằng giữa chi phí và lợi ích. Ngoài
ra còn vấn đề khác là các phương pháp kỹ thuật có thể không phù hợp với văn hóa của trường học.
5. Hệ thống các Chỉ số đánh giá
Chỉ số là một số lượng hoặc tỉ lệ [một giá trị trên một nấc thang đo lường] bắt nguồn từ
một loạt các sự kiện được quan sát và tính toán có thể cho thấy những thay đổi tương đối như một
hàm số thời gian. Chỉ số dùng để đo kết quả thực hiện, đóng vai trò quyết định trong kiểm tra và
đánh giá. Các chỉ số cụ thể hoá các đích thực tế [tối thiểu và khác] để đo hoặc phán xét xem các
mục tiêu có đạt được hay không; đồng thời cũng cung cấp cơ sở để kiểm tra và phản hồi tới tổ
chức hoặc dự án. Qui trình xác lập các chỉ số góp phần vào tính minh bạch, đồng thuận và sở hữu
các mục tiêu và kế hoạch tổng thể của một tổ chức/dự án. Các chỉ số sẽ mang tính khách quan hơn
nếu chúng bao gồm các yếu tố số lượng, chất lượng và thời gian.
Các hệ thống thông tin quản lý phụ thuộc vào các chỉ số. Chỉ số giáo dục là các số liệu
thống kê cho phép đánh giá các khía cạnh khác nhau về chức năng của hệ thống giáo dục. Để
nhấn mạnh bản chất đánh giá của những chỉ số đó, thuật ngữ “chỉ số hiệu quả hoạt động” thường
được sử dụng. Định nghĩa về chỉ số giáo dục có thể bao gồm những yếu tố sau:
o Khái niệm giúp đo lường các đặc tính của hệ thống giáo dục;
o Thực hiện đo lường những ‘khía cạnh chủ chốt’, để đưa ra hiện trạng chung của hệ
thống chứ không phải miêu tả cụ thể;
o Yêu cầu các chỉ số phải cho thấy được điều gì đó về chất lượng giáo dục, có nghĩa
là các chỉ số là các số thống kê mà dựa vào đó có thể đưa ra những ý kiến đánh giá.
Chỉ số có thể dựa trên số liệu thống kê đơn lẻ hoặc là kết hợp của các số liệu thống kê, ví
dụ như tỉ lệ học sinh/giáo viên. Hệ thống chỉ số đa cấp còn có những yêu cầu kỹ thuật khác đi
kèm, ví dụ như thu thập số liệu tại các đơn vị có mối quan hệ liên đới; lồng ghép số liệu thống kê
16
Quyển 3 – Giám sát, đánh giá trong trường học
- Tài liệu tăng cường năng lực quản lý trường học
và các dữ liệu đánh giá học sinh. Đối với hệ thống chỉ số đa cấp, cần có thêm một số kỹ năng
khác bao gồm phương pháp điều tra, khảo sát và đánh giá.
Các hệ thống chỉ số phải dựa trên một mô hình cụ thể của hệ thống giáo dục. Mô hình bối
cảnh - đầu vào - quá trình - đầu ra là một mô hình hữu ích trong việc phân loại chỉ số giáo dục.
Khi các chỉ số được xác định ở cấp độ quốc gia, chúng được coi là hệ thống chỉ số của ngành.
Trong trường hợp đánh giá các cấp cùng một lúc, có thể dùng đến các loại chỉ số khác. Vì các chỉ
số này cũng do cùng một đơn vị hoặc đơn vị liên quan thu thập, chúng ta gọi chúng là hệ thống
chỉ số đa cấp.
Các chỉ số giáo dục đưa ra bức tranh toàn cảnh về chức năng của hệ thống giáo dục. Chính
phủ và các cơ quan trực thuộc là những đơn vị chính sử dụng các thông tin đánh giá. Đối với
trường hợp hệ thống chỉ số đa cấp, hệ thống thông tin quản lý có thể được phản hồi xuống các cấp
thấp hơn.
Có thể phân loại các chỉ số theo cách dưới đây:
a] Chỉ số trực tiếp [thường mang tính chất thống kê]. Những chỉ số này được dùng cho
những mục tiêu liên quan đến những thay đổi có thể quan sát trực tiếp được do các hoạt động và
kết quả đem lại. Chẳng hạn, nếu kết quả mong đợi là tăng số lượng cán bộ chuyên ngành nào đó
trong một thời gian nhất định thì dữ liệu phải được tập hợp thường xuyên và sẵn sàng cho giám
sát, đánh giá. Ví dụ, nếu kết quả mong đợi là: ''đào tạo 10.000 hiệu trưởng về quản lý nhà nước
trong 2 năm" thì chỉ số thống kê trực tiếp sẽ là đếm số lượng những người hoàn thành khóa đào
tạo trong lĩnh vực này theo chu kỳ kết thúc khóa học.
b] Chỉ số gián tiếp hoặc chỉ số đại diện dùng để thay thế hoặc bổ sung cho chỉ số trực
tiếp trong trường hợp nếu việc đạt mục tiêu không thể trực tiếp quan sát được [ví dụ tăng cường
năng lực quản lý giáo dục] hoặc chỉ có thể đo trực tiếp được với giá thành cao hoặc chỉ có thể đo
được sau một thời gian dài vượt quá thời lượng của chương trình/dự án [ví dụ các kỹ thuật tập
huấn được người học ứng dụng hiệu quả trong thực tế]. Tuy nhiên, phải có mối quan hệ qua lại
giữa chỉ số đại diện và kết quả mong muốn. Ví dụ nếu kết quả mong muốn là: "Nhận thức tốt hơn
của công chúng và những nhà hoạch định chính sách về những thách thức lớn của HIV/AIDS
trong giáo dục", thì chỉ số đại diện có thể là tập hợp dữ liệu về số lần những nhân vật nhiều người
biết đến nói về những thách thức này, và/hoặc số lượt các phương tiện thông tin đại chúng tường
thuật về những thách thức này. Trong trường hợp này, tập hợp dữ liệu sáu tháng một lần là đạt
yêu cầu. Về lâu dài, việc đánh giá chương trình phải cho các dữ liệu thống kê để xác định chính
xác hơn tổng các nhân tố và các biến số tham gia.
Các chỉ số định lượng và định tính
Khi xây dựng hệ thống chỉ số cần có sự cân đối giữa các chỉ số, trong đó một số tập trung
vào định lượng và những chỉ số khác vào định tính. Các chỉ số định lượng có thể liên quan tới tần
suất các cuộc họp, số người tham gia thi giáo viên giỏi, số sách giáo khoa, số bộ thiết bị, số phòng
học, số học sinh dân tộc..vv.Cần đặc biệt quan tâm đến việc xây dựng các chỉ số định tính, các chỉ
số này có thể cho biết mức độ tham gia của một nhóm các bên quan tâm, quan điểm/sự hài lòng
của các bên quan tâm/liên quan, năng lực lãnh đạo, ra quyết định, sự thay đổi thái độ, hành vi, sự
phát triển của nhóm và tình đoàn kết..vv.
Các chỉ số định tính đôi khi còn được gọi là chỉ số tường thuật. Ví dụ sau đây minh hoạ
các chỉ số tường thuật có thể được sử dụng như thế nào. Nếu như kết quả mong muốn là " Tăng
cường năng lực cấp tỉnh về tổ chức và quản lý giáo dục phi chính quy" thì một chỉ số tường thuật
giá trị có thể là phiếu điều tra các cá nhân đã tham gia vào các hoạt động tập huấn/đào tạo để hỏi
họ xem họ đã làm gì ở tỉnh sau các chương trình hành động của Bộ. Phiếu điều tra này không phải
là khảo sát sự hài lòng của khách hàng. Phiếu đó cần hỏi: "Bạn đã làm được những gì từ sau khi
hoàn thành đợt tập huấn/khóa đào tạo?'. Phiếu điều tra có thể gửi tới các bên quan tâm vài lần - ít
nhất mỗi năm một lần - để xây dựng một "ranh giới" và như thế bắt đầu đánh giá biến thiên những
thay đổi. Phỏng vấn miệng có thể được dùng thay thế cho trả lời viết chính thức. Các chỉ số tường
17
Quyển 3 – Giám sát, đánh giá trong trường học
- Tài liệu tăng cường năng lực quản lý trường học
thuật cho phép một tổ chức đánh giá mối tương quan giữa các yếu tố mà không cần nhờ đến các
nghiên cứu thống kê cực kỳ tốn kém. Theo cách này người ta có thể thể hiện "thành công cục bộ"
ngay cả khi các yếu tố khác có thể đã ngăn trở "việc tăng cường năng lực" tổng thể.
Chỉ số đại diện có thể kết hợp với chỉ số tường thuật, trong ví dụ này, một chỉ số đại diện
đáng tin cậy có thể là Số lượng các trung tâm giáo dục cộng đồng mới được thành lập. Chỉ số đại
diện, lúc này, không đo được"năng lực tăng cường", nhưng cho thấy những ảnh hưởng của nó đến
việc giáo dục không chính qui.
Trong nhiều trường hợp khi mà kết quả mong đợi có thể mang tính định tính [thay đổi thái
độ, xây dựng năng lực, v.v.], thì phương pháp phi thống kê gần như là cách duy nhất để biểu thị
"tiến độ", ví dụ như các cuộc khảo sát, điều tra thông qua phiếu hỏi; phỏng vấn bán cấu trúc..vv
bởi các chỉ số định tính chủ yếu tập trung vào "quy trình thay đổi". Để có thể có thông tin, người
đánh giá cần hỏi các bên quan tâm xem họ tham gia vào các hoạt động như thế nào, làm gì, cảm
nhận của họ về những thay đổi thế nào? Kỹ thuật này có tác dụng đặc biệt tốt trong những trường
hợp đánh giá các hội nghị chuyên đề và hội thảo đào tạo.
Độ tin cậy của các chỉ số
Các chỉ số như thế nào là lý tưởng? ví dụ như tỷ lệ vắng mặt của giáo viên trên lớp? Nếu
tỷ lệ này là 0%, thoạt nhìn có thể cho đánh giá về sự khoa học của công tác lập thời khóa biểu và
sự chấp hành tốt của đội ngũ giáo viên. Tuy nhiên, rõ ràng là khi xếp TKB người ta không thể tính
trước được các trường hợp nghỉ đột xuất do giáo viên bị ốm, phải nghỉ việc vì người nhà ốm đau,
tai nạn hay đơn giản là giáo viên không thể đến trường do giao thông bị chia cắt vì mưa lũ. Ví dụ
khác như kinh phí trả tiền ngoài giờ tăng vọt cũng chưa hẳn do quản lý kém, mà có thể do những
đợt trưng tập đột xuất của các cơ quan quản lý cấp trên trong khoảng thời gian đó [đi thanh tra, đi
tập huấn, hội thảo hoặc tham gia các chương trình mới do cấp trên tổ chức].
Vì ngữ cảnh là luôn thay đổi và nhiều đặc tính của giáo viên và học sinh cũng thay đổi
theo nên các nhà hoạch định chính sách cần phải theo dõi để nắm bắt, hoạch định và điều chỉnh sự
thay đổi.
Bất kỳ chỉ số nào cũng phải có giá trị sử dụng của nó, để trả lời hoặc hỗ trợ trả lời một câu
hỏi nào đó về mặt chính sách [kể cả vĩ mô lẫn vi mô]. Nếu chỉ số không cung cấp được những
thông tin có giá trị thì không đáng để thu thập dù chỉ số đó chính xác, đáng tin cậy, không tốn
nhiều công thu thập và đáp ứng đúng thời gian.
Phương pháp thu thập thông tin quyết định tính chính xác, tin cậy của thông tin. Mọi so
sánh chỉ mang lại giá trị khi nó được dựa trên các thang chuẩn và sự nhất quán của các chỉ số, đặc
biệt khi so sánh sự tiến bộ của chính cơ sở giáo dục.
6. Các bước trong đánh giá
Cần phân biệt các bước sau trong đánh giá:
a. Xác định mục đích đánh giá và đối tượng làm việc;
b. Thu thập thông tin;
c. Phân tích, đánh giá;
d. Sử dụng kết quả đánh giá.
a. Xác định mục đích đánh giá và đối tượng làm việc. Trong khoa học đánh giá,
người khởi xướng hoạt động đánh giá có thể không phải là người trực tiếp làm công tác đánh giá.
Vào giai đoạn soạn thảo kế hoạch đánh giá, người khởi xướng và đánh giá viên cùng nhau xác
định mục đích đánh giá, vai trò của đánh giá, và bối cảnh thực hiện hoạt động đánh giá. Mục tiêu
đánh giá bao gồm đối tượng đánh giá, tiêu chuẩn và tiêu chí đánh giá.
Trong giai đoạn đầu của quá trình đánh giá, đối tượng, tiêu chuẩn và tiêu chí đánh giá
thường mờ nhạt. Thông thường, người ta thường tập trung vào phương pháp thu thập dữ liệu
trước. Tuy nhiên, ngay cả khi đối tượng, tiêu chuẩn và tiêu chí đánh giá đã được xác định rõ, vẫn
18
Quyển 3 – Giám sát, đánh giá trong trường học
- Tài liệu tăng cường năng lực quản lý trường học
nảy sinh các tranh cãi và các vấn đề trong thực tế, đặc biệt nếu chúng không được định hình rõ từ
giai đoạn đầu của quá trình đánh giá.
Nếu các mục đích của chương trình không rõ ràng thì rất khó thống nhất về tiêu chí và tiêu
chuẩn đánh giá. Do vậy, điều quan trọng là phải để các bên tham gia cùng xác định rõ các tiêu chí và
tiêu chuẩn đánh giá. Nếu điều kiện trên không được đảm bảo, sẽ có nguy cơ là kết quả đánh giá không
được công nhận và được coi là không giải quyết được vấn đề một cách thực chất.
b. Thu thập thông tin
Thông tin, dữ liệu được thu thập dựa trên việc quyết định các tiêu chí và tiêu chuẩn đánh giá
[mục đích] và cấu trúc của chương trình [phương tiện] và việc xác định khả năng đánh giá. Thông
thường các phương pháp chuẩn của lĩnh vực khoa học xã hội như kiểm tra, điều tra, quan sát và
nghiên cứu sâu thường được sử dụng để thu thập thông tin trong đánh giá.
c. Phân tích, đánh giá
Khi các tiêu chuẩn đánh giá đã được xác định xong, việc phân tích đánh giá các dữ liệu sẽ
được tiến hành, và ngay lập tức chúng ta có thể xác định được liệu những kết quả đạt được đã đạt
chuẩn hay chưa.
Nếu các kết quả đạt được đã đạt chuẩn, vấn đề đặt ra tiếp theo là liệu có cần thành lập
nhóm quản lý chất lượng không. Nhóm này sẽ củng cố chắc chắn thêm là chương trình đã thành
công.
d. Sử dụng kết quả đánh giá
Các kết quả đánh giá thường được sử dụng vào việc tái cơ cấu chương trình, điều chỉnh, thay
đổi chính sách của trường, hỗ trợ ra quyết định liên quan đến các nguồn lực [ví dụ việc phân công lại
giáo viên dựa trên kết quả kiểm tra định kỳ các môn học của học sinh]. Các giáo viên trong trường
cũng là đối tượng chính sử dụng các kết quả tự đánh giá của trường [ví dụ vào việc điều chỉnh nội
dung, phương pháp giảng dạy của mình đối với từng lớp, từng học sinh].
Thông tin từ hoạt động rà soát trường học còn được hiệu trưởng sử dụng để xây dựng lại
kế hoạch phát triển trường học, vạch ra chiến lược giảng dạy tốt hơn, phân nhóm học sinh và xây
dựng định hướng phát triển chuyên môn cho giáo viên.
Trong nhiều trường hợp, một phần của kết quả này cũng được trình lên các cơ quan hành
chính cấp trên, cha mẹ học sinh hoặc các bên liên quan trong cộng đồng địa phương.
7. Các loại hình đánh giá trong giáo dục
Bằng cách đan chéo các yếu tố trên, các hình thức GS-ĐG chính trong giáo dục có thể
được tổng kết như sau:
+ Các chương trình đánh giá quốc gia, quốc tế
+ Báo cáo hoạt động trường học
+ Các hệ thống giám sát học sinh
+ Đánh giá nội bộ trường học
+ Các kì thi
Các số liệu thống kê và số liệu hành chính [từ hệ thống thông tin quản lý cấp trung ương
và hệ thống thông tin quản lý cấp trường]
Các hình thức đánh giá sau đây dựa vào các tổng kết mang tính chuyên môn:
+ Thanh tra trường học
+ Đánh giá nội bộ trường học [gồm cả đánh giá giáo viên]
+ Kiểm toán trường học
+ GS-ĐG một phần công tác giảng dạy
19
Quyển 3 – Giám sát, đánh giá trong trường học
- Tài liệu tăng cường năng lực quản lý trường học
Cuối cùng, còn hai loại hình đánh giá khác không phụ thuộc vào nguồn dữ liệu:
+ Đánh giá chương trình
+ Các hình thức đánh giá giáo viên
III. ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG TRƯỜNG HỌC
Dưới góc độ kinh tế, các định nghĩa như hiệu quả và hiệu suất liên quan đến quá trình sản
xuất của một tổ chức. Quá trình sản xuất thực chất là quá trình chuyển “đầu vào” thành “đầu ra”.
Đầu vào của một trường học hoặc một hệ thống trường bao gồm học sinh, tài chính và các nguồn
hỗ trợ vật chất. Đầu ra bao gồm thành tích của học sinh vào cuối giai đoạn học tập. Quá trình
chuyển đổi trong trường có thể được hiểu là các phương pháp hướng dẫn, sự lựa chọn chương
trình học, và các điều kiện tổ chức ban đầu giúp học sinh thu nạp kiến thức. Các đầu ra dài hạn
hơn được miêu tả bằng thuật ngữ kết quả.
Hiệu quả chính là mức độ đạt được đầu ra mong muốn. Hiệu suất được coi là mức độ đạt
đầu ra trên mức chi phí thấp nhất. Nói cách khác, hiệu suất chính là hiệu quả cộng thêm yêu cầu
phải đạt được kết quả với mức chi phí thấp nhất.
Hiệu quả hoạt động của trường học được coi là mức độ đạt mục tiêu mà trường đề ra
trong mối tương quan so sánh với chuẩn quốc gia, đồng thời so sánh với các trường khác có
sự ngang bằng về số lượng và chất lượng học sinh nhập học.
Điều hết sức quan trọng trong phân tích kinh tế về hiệu quả và hiệu suất là giá trị của đầu
vào và đầu ra được đo bằng tiền. Để quyết định hiệu suất, cần phải xác định được đầu vào như tài
liệu giảng dạy và lương giáo viên. Khi nhìn vào đầu ra dưới góc độ tài chính, việc xác định hiệu
suất giống như phân tích chi phí - lợi ích.
Câu hỏi đặt ra là làm thế nào có thể xác định được “đầu ra mong muốn” của một trường,
thậm chí nếu chỉ tập trung vào các yếu tố ngắn hạn. Ví dụ, lợi ích thu được từ giáo dục trung học
có thể đo được bằng số học sinh thi đỗ vào các trường đại học, cao đẳng. Đơn vị đo sản phẩm
trong trường hợp này là số học sinh được học ở cấp học cao hơn. Tuy nhiên, trong một số trường
hợp, sản phẩm lại có thể được đo bằng điểm số của học sinh ở các môn thi [ví dụ, tỷ lệ thi đạt tốt
nghiệp mức khá, giỏi]. Tóm lại, có rất nhiều sự lựa chọn cho việc đo lường hiệu quả hoạt động
của trường.
1. Hình thức tổ chức trường học và tác động của nó
Phần này phân biệt các đặc điểm của chức năng trường học để có thể đạt được hiệu quả dự
kiến. Cần có một bức tranh tổng quát về các nhân tố và khía cạnh của tổ chức trường học và hoạt
động trường học nhằm nâng cao hiệu quả. Những yếu tố sau đây được sử dụng như một khung cơ
bản để phân biệt các nhân tố và khía cạnh đó:
• Mục đích
• Cấu trúc của đơn vị
• Cấu trúc của các thủ tục
• Các quy trình hoạt động của tổ chức
• Văn hóa
• Môi trường trong tổ chức
20
Quyển 3 – Giám sát, đánh giá trong trường học
Đánh giá và giám sát liên tục
Đánh giá và giám sát là hai bước quan trọng trong quy trình quản lý đào tạo liên tục cán bộ y tế của các bệnh viện. Thực ra trong quản lý, khái niệm đánh giá và giám sát là hoàn toàn riêng biệt, tuy nhiên do có một vài hoạt động của đánh giá và giám sát tương tự như nhau, một vài công cụ có thể sử dụng chung khi thực hiện đánh giá cũng như khi thực hiện giám sát đào tạo nên đôi khi có người ghép hai khái niệm này vào trong một cụm từ chung.
Bài này tuy cùng trong một tiêu đề, nhưng chúng ta sẽ lần lượt đề cập đến hai khâu trong quá trình quản lý đào tạo liên tục cán bộ y tế là: đánh giá và giám sát đào tạo liên tục.
ĐÁNH GIÁ ĐÀO TẠO LIÊN TỤC
Đánh giá đào tạo liên tục cán bộ y tế là quá trình thu thập thông tin, chứng cứ về đối tượng cần đánh giá để đưa ra những phán xét, nhận định về mức độ đạt được theo các thang đo hoặc các tiêu chí đã được đưa ra trong các tiêu chuẩn [hay chuẩn mực].
Có nhiều loại hình, tiêu chí, mức độ đánh giá đào tạo liên tục, trong phạm vi quản lý đào tạo liên tục của một bệnh viện, cán bộ quản lý/lãnh đạo bệnh viện, cán bộ phụ trách quản lý đào tạo tại bệnh viện, cán bộ phụ trách đào tạo tại các khoa/phòng trong bệnh viện, giảng viên [sau đây gọi chung là cán bộ quản lý Đào tạo liên tục cán bộ y tế của bệnh viện cần quan tâm đến các hoạt động dưới đây:
Tham gia và quản lý các hoạt động đánh giá kết quả học tập của học viên trong các khóa đào tạo liên tục
Tổ chức các hoạt động đánh giá kết quả ĐTLT CBYT của bệnh viện
Đánh giá kết quả học tập của học viên trong khóa đào tạo liên tục
Là một hoạt động bắt buộc đối với mọi khóa ĐTLT, kế hoạch đánh giá kết quả học tập của học viên đã được xác định cụ thể trong chương trình khóa ĐTLT
Mục đích của đánh giá học viên là để biết học viên đã học được bao nhiêu, đã thực hành được những gì, thực hành như thế nào, có thái độ, hành vi ra sao trước nhiệm vụ họ thực hiện
Đánh giá kết quả học tập của học viên chủ yếu là nhiệm vụ của các giảng viên trực tiếp dạy học thực hiện. Cán bộ quản lý ĐTLT của bệnh viện có thể tham gia cùng giảng viên trong các hoạt động đánh giá nhưng quan trọng hơn là họ có nhiệm vụ theo dõi, quản lý các hoạt động đánh giá kết quả học tập của học viên
Đánh giá kết quả học tập của học viên bao gồm:
Đánh giá quá trình: Được thực hiện trong suốt quá trình đào tạo, thường thể hiện bằng các bài kiểm tra kiến thức, các bài tập thực hành, các bản theo dõi, nhận xét thái độ học tập của học viên.
Chức năng của đánh giá quá trình là để cải tiến quá trình học tập của học viên
Mục đích của đánh giá quá trình là để hướng dẫn hoặc phản hồi cho học viên trong quá trình học tập
Quyết định đánh giá quá trình phải dựa trên kết quả chung của các điểm đánh giá quá trình
Đánh giá cuối kỳ: Là những bài thi, bài kiểm tra cuối khóa
Chức năng đánh giá cuối kỳ là xác định kết quả đạt được của học viên đối với khóa đào tạo
Mục đích của đánh giá cuối kỳ là để quyết định đỗ hay trượt, xếp loại và là một tiêu chuẩn để đề nghị cấp giấy chứng nhận hoàn thành khóa đào tạo
Để đánh giá kết quả học tập của học viên, giảng viên và người đánh giá cần sử dụng bộ công cụ đánh giá. Bộ công cụ đánh giá kết quả học tập của học viên tùy thuộc vào lĩnh vực của mục tiêu học tập:
Đánh giá kiến thức:
Vấn đáp
Câu hỏi tự luận, bài tập tình huống, câu hỏi trắc nghiệm khách quan
Đánh giá kỹ năng, thái độ:
Bảng kiểm
Bảng thang điểm
Cán bộ quản lý ĐTLT của bệnh viện thực hiện chức năng quản lý hoạt động đánh giá kết quả học tập của học viên trong các khóa ĐTLT do bệnh viện tổ chức thông qua các hoạt động sau:
Đảm bảo các hoạt động đánh giá quá trình và đánh giá kết thúc được tổ chức thực hiện đúng theo kế hoạch quy định trong chương trình khóa ĐTLT [số lần, khoảng cách, hình thức các bài kiểm tra thường xuyên, hình thức kiểm tra thi cuối khóa, cách tính điểm và ghi hồ sơ ...]
Đảm bảo các công cụ đánh giá đạt chuẩn: có giá trị, đáng tin cậy, khách quan quan, thích hợp và tách biệt
Cùng với giảng viên cải tiến nâng cao chất lượng đánh giá kết quả học tập của học viên trong các khóa ĐTLT của bệnh viện
Sử dụng kết quả đánh giá học viên trong các khóa ĐTLT vào mục đích nâng cao chất lượng ĐTLT của bệnh viện, cụ thể:
Phản hồi cho học viên để họ cải tiến việc học tập
Cung cấp thông tin, giúp giáo viên cải tiến phương pháp dạy học
Xếp loại, chọn lọc học viên trong khóa đào tạo
Cải tiến chương trình, nội dung các khóa đào tạo cho phù hợp và hiệu quả
Đảm bảo nguồn nhân lực do bệnh viện đào tạo đạt chuẩn theo mục tiêu của khóa ĐTLT
Đánh giá đào tạo liên tục của bệnh viện
Đánh giá ĐTLT CBYT của bệnh viện là đánh giá kết quả của một hay một số khóa ĐTLT CBYT của bệnh viện.
Đánh giá đào tạo liên tục của bệnh viện không chỉ đơn thuần là đánh giá kết quả học tập của học viên trong các khóa ĐTLT như đã trình bày ở phần trên mà là một quá trình đánh giá từ khi lập kế hoạch, tổ chức khóa đào tạo, theo dõi kết quả học viên và tác động của ĐTLT đến chất nguồn nhân lực y tế.
Đánh giá ĐTLT của bệnh viện nhằm mục đích:
Xác định xem các khóa ĐTLT có đạt được các mục tiêu không
Đánh giá tính phù hợp và giá trị của các chương trình ĐTLT của bệnh viện.
Xác định những lĩnh vực của chương trình ĐTLT cần cải thiện.
Xác định các đối tượng CBYT phù hợp cho các chương trình ĐTLT trong tương lai.
Rà soát và củng cố các điểm mấu chốt trong nội dung của các chương trình ĐTLT.
Chỉnh sửa hoặc cải tiến thiết kế khóa ĐTLT để áp dụng trong tương lai.
Nhận xét về sự thành công hoặc thất bại của công tác ĐTLT của bệnh viện.
Xem xét khả năng tiếp tục thực hiện chương trình ĐTLT tại bệnh viện và chuyển giao để nhân rộng chương trình ĐTLT cho bệnh viện khác.
Tham gia đánh giá đào tạo liên tục của học viên có thể là:
Các giảng viên
Học viên
Cán bộ quản lý ĐTLT
Cơ quan quản lý, cơ quan tài trợ, v.v.
Quá trình đánh giá ĐTLT gồm các hoạt động sau đây:
Đánh giá hàng ngày: Giúp cho giảng viên và người tổ chức khóa đào tạo giải quyết ngay các các ý kiến phản hồi của học viên, những vấn đề liên quan đến khóa đào tạo giúp học viên hoàn thành các mục tiêu đào tạo - Đánh giá định kỳ: Giúp giảng viên và người tổ chức khóa đào tạo cải tiến cách thức và chỉnh sửa các vấn đề nhỏ trước khi chúng trở thành các vấn đề lớn, mang lại lợi ích cho học viên ngay trong quá trình đào tạo - Đánh giá khi kết thúc khóa đào tạo: Giúp giảng viên và người tổ chức khóa đào tạo cải tiến các hoạt động trong tương lai và lập kế hoạch cho việc giám sát hỗ trợ các học viên đã được đào tạo
Đánh giá học viên sau khi đã trở về nơi làm việc: Giúp giảng viên và người tổ chức khóa đào tạo thu nhận được kết quả và tác động của học viên đã được đào tạo vào thực tế làm việc
Đánh giá đào tạo liên tục có nhiều mức khác nhau, thường người ta chia làm 4 cấp độ, tùy theo mục tiêu của cuộc đánh giá, những người tham gia đánh giá ĐTLT của bệnh viện lựa chọn cấp độ đánh giá cho phù hợp
Cấp độ 1: Phản ứng của học viên đối với khóa đào tạo. Nếu học viên
“hài lòng”, có nhiều ‘niềm vui” trong khi đào tạo sẽ tác động đến thành công của khoá đào tạo. Đánh giá cấp độ 1 được tiến hành trong suốt khóa huấn luyện và ở cuối khóa huấn luyện. Để đánh giá phản ứng của học viên với khóa đào tạo [về nội dung, tài liệu, phương pháp dạy học, giảng viên, mội trường học tập, hậu cần …] có thể sử dụng các Phiếu hỏi ý kiến học viên, các bài tập, các trò chơi, hộp thư trong lớp học để thu nhận những phản hồi của học viên
Tham khảo gợi ý thiết kế mẫu đánh giá cấp độ 1 tại Phụ lục số 1
Cấp độ 2: Đánh giá kết quả học tập của học viên. Cụ thể là những kiến thức, kỹ năng học viên đã đạt được trong quá trình tham dự kháo ĐTLT. Được tiến hành trong hoặc ngay sau khóa đào tạo. Bao gồm các bài kiểm tra trước và sau khóa học; các bảng kiểm, thang điểm đánh giá kỹ năng, thái độ; các câu hỏi trả lời miệng, câu hỏi tự luận, các bài kiểm tra bằng trắc nghiệm khách quan; các bài tập tình huống.
Cấp độ 3: Đánh giá việc thay đổi hành vi và khả năng học viên áp dụng các kiến thức và kỹ năng đã được đào tạo vào thực tế công việc của họ. Việc này có thể được tiến hành tại nơi học viên đang làm việc 3-6 tháng sau khóa đào tạo. Đánh giá ở cấp độ 3 nhằm đánh giá các kết quả lâu dài hơn của khóa đào tạo. Phương pháp đánh giá bao gồm quan sát CBYT [đã được ĐTLT] thực hiện các kỹ năng; phỏng vấn, thảo luận nhóm cùng CBYT hoặc cũng có thể là các cuộc khảo sát với các bài kiểm tra lại kiến thức.
Cấp độ 4: Đánh giá kết quả hoặc tác động của nguồn nhân lực đã được ĐTLT đối với công tác CSSKND. Tác động ngắn hạn của ngồn nhân lực đã được đào tạo có thể là những sự thay đổi tốt lên của các chỉ số sức khỏe, có thể là sự tăng lên số người sử dụng dịch vụ CSSK do người CBYT đã được ĐTLT ... Đánh giá cấp độ 4 bao gồm các con số thống kê về dịch vụ CSSK, các cuộc phỏng vấn những người sử dụng dịch vụ y tế, những chỉ số về CSSK. Tuy nhiên khi đánh giá cấp độ 4 thường gặp phải khó khăn đó là có nhiều yếu tố tác động đến việc cải thiện chất lượng dịch vụ y tế ngoài ĐTLT. Do vậy cần phải loại trừ các yếu tố này bằng cách khảo sát song song với nhóm đối chứng [những CBYT không được ĐTLT].
Ngoài ra, trong khía cạnh kinh tế - y tế của bối cảnh đổi mới kinh tế- xã hội của nước ta hiện nay cũng cần đề cập đến việc đánh giá chi phí của các hoạt động ĐTLT. Đó là phương pháp đánh giá bằng cách so sánh lợi ích kinh tế của kết quả, tác động ĐTLT CBYT với chi phí của các khóa ĐTLT [tài liệu đào tạo, trang thiết bị, giảng viên và học viên …]. Có người xếp nội dung đánh giá này vào mức độ 4, cũng có người đề nghị xếp thành mức độ 5. Trong phạm vi đào tạo liên tục cán bộ y tế của một bệnh viện, chúng tôi chỉ đề cập tới nội dung này nhằm mục đích tham khảo mà chưa sắp xếp vào cấp độ đánh giá.
Cán bộ quản lý đào tạo liên tục của bệnh viện thực hiện chức năng tổ chức hoạt động đánh giá ĐTLT CBYT của bệnh viện thông qua các hoạt động sau:
Phối hợp cùng giảng viên tổ chức các hoạt động thu nhận phản hồi của học viên [hộp thư, phiếu hỏi ý kiến học viên, các trò chơi ... ] để đánh giá cấp độ 1 của các khóa ĐTLT CBYT do bệnh viện tổ chức.
Tham gia cùng với các giảng viên thực hiện các hoạt động đánh giá học viên trong quá trình tham dự các khóa ĐTLT do bệnh viện tổ chức, đánh giá ở cấp độ 2.
Biên soạn các bộ công cụ đánh giá, lập kế hoach đánh giá, tổ chức các cuộc đánh giá ĐTLT của bệnh viên ở cấp độ 3 và cấp độ 4.
Tổng hợp và báo cáo kết quả các cuộc đánh giá theo cấp độ của từng khóa, hay một số khóa ĐTLT do bệnh viện tổ chức được tổ chức trong khoảng thời gian nhất định [6 tháng, 1 năm].
GIÁM SÁT ĐÀO TẠO LIÊN TỤC
Khái niệm
Giám sát:
Trong lĩnh vực quản lý người ta định nghĩa Giám sát là một khâu quan trọng của quy trình quản lý. Giám sát là tìm ra các vấn đề tồn tại, khó khăn vướng mắc trong quá trình thực hiện kế hoạch hoạt động để hỗ trợ, giải quyết kịp thời và có thể điều chỉnh kế hoạch, nhằm thực hiện được các mục tiêu đã đề ra.
Giám sát đào tạo
Giám sát đào tạo là phân tích quá trình thực hiện kế hoạch đào tạo để tìm ra những khó khăn, vướng mắc, tồn tại …; xác định những nguyên nhân gây nên những khó khăn, tồn tại đó và thực hiện hoặc đề xuất các biện pháp phù hợp, kịp thời để hỗ trợ, giúp đỡ cho những người, những đơn vị đang thực hiện kế hoạch đào tạo hoàn thành những mục tiêu đã đề ra.
Trong phạm vi quản lý đào tạo liên tục cán bộ y tế, giám sát đào tạo chủ yếu là giám sát những người, những đơn vị đã và đang tổ chức hoặc tham gia các khoá, các lớp đào tạo về chuyên môn, nghiệp vụ cho cán bộ y tế để đảm bảo chất lượng đào tạo, góp phần phát triển nguồn nhân lực, hoàn thành các mục tiêu chăm sóc, bảo vệ sức khỏe.
Mục đích của giám sát
Mục đích chung của hoạt động giám sát đào tạo là nhằm động viên sự cải tiến liên tục năng lực làm việc của những người quản lý, tổ chức hoặc trực tiếp tham gia quá trình đào tạo, nó được thể hiện bằng 4 mục đích chính sau:
Giám sát nhằm đảm bảo các hoạt động đào tạo phù hợp với mục tiêu đã đề ra.
Giám sát để giải quyết các vấn đề khó khăn, vướng mắc gặp phải khi thực hiện kế hoạch hoạt động đào tạo.
Giám sát nhằm hỗ trợ, động viên, giúp đỡ cán bộ quản lý, giảng viên, học viên trong các hoạt động đào tạo.
Giám sát nhằm khuyến khích bộ quản lý, giảng viên, học viên học hỏi, nâng cao năng lực chuyên môn, nghiệp vụ.
Phân biệt hoạt động giám sát với kiểm tra, theo dõi, thanh tra
Hoạt động giám sát, kiểm tra, theo dõi, thanh tra có những điểm chung, điểm giống nhau như: tiếp xúc với cá nhân, tập thể những người đang thực hiện kế hoạch đào tạo để tìm hiểu công việc của họ cũng như lượng giá tiến độ, kết quả thực hiện kế hoạch. Tuy nhiên, mỗi hoạt động trên có những mục đích, chức năng khác nhau, nếu có sự nhầm lẫn hoặc tiến hành không đúng thì hiệu quả của từng hoạt động sẽ không cao.
Giám sát
|
Hoạt động có tính hỗ trợ và cộng tác cùng với đối tượng được giám sát để xác định các vấn đề còn tồn tại, khó khăn, phân tích tìm ra nguyên nhân, cách giải quyết những vấn đề đó nhằm đạt được kế hoạch đã đề ra. Trong quản lý người ta thường dùng cụm từ Giám sát hỗ trợ
|
Kiểm tra
|
Tìm hiểu tiến độ của kế hoạch để biết được những công việc gì đã được thực hiện, những gì chưa thực hiện được để thúc đẩy việc hoàn thành kế hoạch. Kiểm tra thường ít quan tâm đến việc hỗ trợ đối tượng được kiểm tra trong việc xác định và giải quyết những tồn tại. Trong quản lý người ta thường dùng cụm từ Kiểm tra đánh giá
|
Theo dõi
|
Thu thập thông tin, sự kiện thường xuyên và viết báo cáo định kỳ theo quy định để giúp cho những nhà quản lý biết được tiến độ, quá trình thực hiện kế hoạch. Trong quản lý người ta thường dùng cụm từ Theo dõi tiến độ
|
Thanh tra
|
Xem xét các hoạt động trong quá trình thực hiện kế hoạch nhằm tìm hiểu xem có điều gì vi phạm các quy định pháp lý không. Kết quả của thanh tra là kết luận về việc có vi phạm hay không các nội quy, quy định của pháp luật. Trong quản lý người ta thường dùng cụm từ Thanh tra xử lý
|
Phương pháp, hình thức, phương thức giám sát
Có 2 phương pháp giám sát là:
Giám sát trực tiếp: Là phương pháp mà người giám sát tiếp xúc hay làm việc cùng đối tượng được giám sát và người liên quan, để có thể phát hiện ra các vấn đề tồn tại, tìm ra các giải pháp để hỗ trợ, giúp đỡ. Đây là phương pháp cơ bản thường được thực hiện trong các cuộc giám sát.
Giám sát gián tiếp: Là phương pháp mà người giám sát không tiếp xúc hay làm việc cùng đối tượng được giám sát. Người giám sát thu thập các thông tin cần thiết qua các nguồn thông tin khác nhau để tìm ra những yếu kém, tồn tại của người cần được giám sát để có biện pháp giải quyết phù hợp. Nói chung, phương pháp này ít được áp dụng trong thực tế.
Có 2 hình thức giám sát là:
Giám sát định kỳ: Định kỳ tiến hành các hoạt động giám sát, với những nội dung trọng tâm khác nhau, được sắp xếp có kế hoạch cụ thể, nằm trong kế hoạch hoạt động của đơn vị .
Giám sát đột xuất: Là các cuộc giám sát không nằm trong kế hoạch, được thực hiện do yêu cầu đột xuất trước một bức xúc xảy ra trong quá trình thực hiện kế hoạch hoạt động nhằm giúp đỡ, hỗ trợ kịp thời để đảm bảo kế hoạch thực hiện theo đúng mục tiêu.
Có 2 phương thức giám sát là:
Tự giám sát: Là các cuộc giám sát định kỳ hay đột xuất do đơn vị đào tạo tự tổ chức cuộc giám sát, không có sự tham gia của các giám sát viên từ cấp trên, từ các đơn vị khác. Đây là phương thức giám sát cần khuyến khích vì nó là một khâu trong quy trình quản lý và có hiệu quả cao.
Giám sát từ bên ngoài: Là các cuộc giám sát do cấp trên, tuyến trên tổ chức tại đơn vị hoặc có sự tham gia của giám sát viên từ các đơn vị khác
Giám sát viên
Giám sát viên là người đã, đang làm công việc trong lĩnh vực đào tạo nhân lực y tế, tốt nhất là những người đang làm công tác quản lý hoặc trực tiếp tham gia công tác đào tạo liên tục cán bộ y tế. Giám sát viên cũng có thể là người quản lý, điều hành công tác đào tạo, giảng viên đào tạo liên tục của đơn vị. Giám sát viên cần được đào tạo thêm về chuyên môn, nghiệp vụ giám sát.
Tiêu chuẩn để lựa chọn giám sát viên:
Đã được đào tạo, bồi dưỡng kiến thức và kỹ năng về giám sát
Vững vàng về chuyên môn, có nghiệp vụ về sư phạm y học
Có khả năng hướng dẫn, đào tạo, huấn luyện, tư vấn về chuyên môn và giảng dạy y học
Có thái độ đúng mực, thân mật, gần gũi, chân thành …
Nhiệt tình, trách nhiệm
Phạm vi và nội dung giám sát đào tạo
Quá trình đào tạo gồm nhiều hoạt động với những nội dung khác nhau. Trong phạm vi giám sát đào tạo có thể tập trung vào các nội dung sau đây:
Xác định nhu cầu đào tạo
Loại hình đào tạo
Đối tượng đào tạo
Mục tiêu đào tạo
Chương trình đào tạo - Nội dung đào tạo
Lập kế hoạch đào tạo
Quy trình triển khai đào tạo
Chuẩn bị các nguồn lực cần thiết cho đào tạo
Tổ chức triển khai đào tạo
Phương pháp dạy và học
Thực hiện quy chế đào tạo
Quản lý tài chính trong đào tạo
Sử dụng các nguồn lực đào tạo
Thu thập thông tin, lưu trữ thông tin, tài liệu
Sử dụng sản phẩm đào tạo
Khó có một cuộc giám sát nào có thể tiến hành với tất cả nội dung của quá trình đào tạo. Tuỳ theo yêu cầu của từng cuộc giám sát, người ta thường chọn một hay một số nội dung trong quy trình đào tạo để thực hiện cuộc giám sát.
Quy trình giám sát
Để tiến hành một cuộc giám sát, dù là giám sát định kỳ hay giám sát đột xuất, người giám sát đều phải thực hiện các bước của hoạt động giám sát theo một quy trình sau đây:
Bước 1: Chuẩn bị giám sát
Để chuẩn bị cho cuộc giám sát, người giám sát phải thực hiện các công việc sau đây:
Nghiên cứu tình hình các hoạt động: Là công việc nghiên cứu các tư liệu liên quan đến mục tiêu, kế hoạch hoạt động, những kết quả, mức độ đã đạt được, những tồn tại, khó khăn hiện tại … Nguồn tư liệu là văn bản kế hoạch, bản phân công nhiệm vụ, các bản báo cáo tiến độ, báo cáo đánh giá từng giai đoạn, văn bản của những cuộc giám sát gần nhất …
Xác định những vấn đề hay nội dung trọng tâm giám sát: Trên cơ sở nghiên cứu các tư liệu ở trên, người giám sát xác định những vấn đề còn tồn tại, còn khó khăn cần phải ưu tiên giám sát để hỗ trợ, dự kiến những nguyên nhân của những tồn tại đó và định hướng các biện pháp giải quyết.
Xây dựng công cụ giám sát: Căn cứ vào các nội dung trọng tâm cần giám sát, người giám sát xây dựng các công cụ để giám sát. Tuỳ theo nội dung cần giám sát mà xây dựng các công cụ cho phù hợp, để có thể chủ động trong quá trình giám sát, không bỏ sót các nội dung giám sát đã đề ra. Tất nhiên, trong quá trình giám sát các công cụ giám sát cũng có thể bổ xung thêm.
Lập kế hoạch giám sát: Để thực hiện một cuộc giám sát, người giám sát phải chuẩn bị một kế hoạch, lịch trình giám sát cụ thể về thời gian, địa điểm, người được giám sát, người liên quan … Khi lập kế hoạch giám sát phải quan tâm đến mức độ cấp bách của cuộc giám sát, công việc của đơn vị và người được giám sát … để kế hoạch giám sát được thực hiện thuận lợi.
Bước 2: Thực hiện giám sát
Khi tiến hành một cuộc giám sát trực tiếp, người giám sát thực hiện các hoạt động sau đây:
Quan sát và trao đổi trực tiếp: Người giám sát quan sát trực tiếp đối tượng được giám sát thực hiện các công việc của họ. Người giám sát sử dụng các công cụ giám sát trong khi quan sát các hoạt động như quy trình tiến hành công việc, thời gian tiến hành công việc, thái độ ứng xử, cách ra các quyết định … để nhận xét, đánh giá về yêu cầu chuyên môn, tiêu chuẩn kỹ thuật.
Trong quá trình quan sát, cần chú trọng đến các vấn đề còn yếu kém, thiếu sót và cùng trao đổi để đối tượng được giám sát có thể trình bày thêm và qua đó có thể biết được nguyên nhân của thiếu sót, mức độ và ảnh hưởng của các thiếu sót đối với công việc chung cũng như tâm tư, nguyện vọng của người được giám sát …
Trên cơ sở các vấn đề được phát hiện và những nguyên nhân tìm được, phân tích các vấn đề còn tồn tại có tính hệ thống hay nhất thời để đưa ra các giải pháp hỗ trợ, giúp đỡ kịp thời có hiệu quả.
Hướng dẫn: Trong khi hoặc ngay sau khi quan sát, trao đổi với đối tượng được giám sát, người giám sát có thể hướng dẫn những vấn đề về chuyên môn, kỹ thuật hay quy trình công việc mà đối tượng giám sát còn thiếu sót. Người giám sát có thể làm mẫu các thao tác kỹ thuật, quy trình công việc cho người được giám sát xem và giúp họ thực hiện được ngay theo thao tác mẫu. Đây là hình thức đào tạo trực tiếp giúp cho người được giám sát có thể khắc phục được những thiếu sót của mình.
Động viên hỗ trợ: Người giám sát luôn phải tôn trọng và giữ mối quan hệ tốt với người được giám sát, xây dựng mối quan hệ cộng tác và hỗ trợ giữa các thành viên để người được giám sát dễ dàng chấp nhận những nhận xét của người giám sát và tự nguyện khắc phục những yếu kém, thiếu sót làm cho công việc của họ đạt hiệu quả cao hơn.
Hỗ trợ về vật chất: Nếu nguyên nhân của những yếu kém, thiếu sót liên quan đến lĩnh vực vật chất như kinh phí, trang thiết bị … thì có thể bàn bạc với các thành viên có liên quan để có kế hoạch giải quyết thích đáng. Việc hỗ trợ, đôi khi không phải là những vật chất cụ thể mà có thể chỉ là một văn bản đề nghị cấp trên cung cấp hoặc giải quyết cơ chế thực hiện.
Xác nhận kết quả cuộc giám sát: Các vấn đề được xác định và giải quyết ngay trong cuộc giám sát cũng như các thông tin thu thập được của người giám sát cần được phân tích sơ bộ để có kết luận ngắn gọn về kết quả của cuộc giám sát. Những nội dung trên cần được trao đổi thống nhất giữa người giám sát, người được giám sát và những người có liên quan.
Bước 3: Công việc sau giám sát
Sau khi giám sát trực tiếp, người giám sát cần tiếp tục thực hiện các công việc sau:
Tập hợp và phân tích các thông tin, số liệu giám sát: Trong khi tiến hành giám sát tại đơn vị, người giám sát mới chỉ đưa ra các phân tích, kết luận sơ bộ. Sau khi giám sát, người giám sát cần tập hợp đầy đủ các thông tin, số liệu để phân tích và đưa vào báo cáo kết quả cuộc giám sát.
Bổ xung và điều chỉnh kế hoạch nếu cần: Nếu xét thấy có sự bất cập giữa năng lực thực hiện và kế hoạch đã đề ra, người giám sát có thể đề nghị bổ xung kế hoạch hoặc điều chỉnh lại kế hoạch cho phù hợp [có thể tăng, giảm]. Tất nhiên người giám sát phải phân tích để xác định các vấn đề, các nguyên nhân của nó, đề xuất các giải pháp bổ xung, điều chỉnh kế hoạch và cả những giải pháp theo dõi, chỉ đạo, hỗ trợ cho việc thực hiện kế hoạch.
Báo cáo lên cấp trên; Báo cáo của cuộc giám sát cần được gửi đến các cơ quan quản lý, cơ quan có liên quan để có các biện pháp chung nhằm hỗ trợ cho người được giám sát và đơn vị của họ.
Thông báo kết quả giám sát cho đơn vị được giám sát:: Sau khi báo cáo cấp trên, bản báo cáo kết quả giám sát cần được gửi đến các đơn vị được giám sát. Nếu đã có những kết quả hỗ trợ sau giám sát [như điều chỉnh kế hoạch, bổ xung nguồn lực, giải quyết cơ chế ..] cũng cần thông báo cho đơn vị biết.
Lưu trữ tài liệu: Báo cáo và các tài liệu liên quan đến cuộc giám sát cần được lưu trữ để tiếp tục chỉ đạo thực hiện và đồng thời sẽ là tài liệu tham khảo cần thiết khi đánh giá kết thúc kế hoạch hoạt động.
Xây dựng công cụ giám sát
Để đảm bảo một cuộc giám sát thành công, người giám sát phải chuẩn bị và xây dựng những công cụ giám sát phù hợp. Thường có mấy loại sau đây:
Các văn bản pháp quy, văn bản, tài liệu có liên quan đến công tác đào tạo như: kế hoạch đào tạo; mục tiêu, nội dung các khoá đào tạo; tài liệu dùng cho học viên, tài liệu cho giáo viên, phương pháp đào tạo, phương pháp đánh giá; quy trình tổ chức đào tạo; các nguồn lực; dự toán ngân sách … Trong khi tiến hành giám sát những tài liệu này chính là cơ sở để căn cứ vào đó người giám sát nhận xét, phân tích …
Các bộ câu hỏi để phỏng vấn, trao đổi với người được giám sát và những người có liên quan
Tuỳ theo mục tiêu và nội dung cụ thể của cuộc giám sát, trong khi thực hiện giám sát, người giám sát có thể phải phỏng vấn, họp, trao đổi với người được giám sát và những người liên quan.
Trong giai đoạn chuẩn bị cho cuộc giám sát, người giám sát cần chuẩn bị trước nội dung cho các cuộc phỏng vấn, cuộc họp hoặc cuộc trao đổi.
Nói chung các câu hỏi phỏng vấn, các nội dung trao đổi nên chuẩn bị dưới dạng "Mở": Tìm hiểu vấn đề
Xác định nguyên nhân
Đề xuất hoặc thực hiện các giải pháp hỗ trợ
Các bảng kiểm để quan sát, nhận xét các hoạt động của người được giám sát
Khi thực hiện cuộc giám sát, giám sát viên không chỉ có trao đổi, phỏng vấn người được giám sát, mà quan trọng là cần phải quan sát trực tiếp người được giám sát trong khi họ làm việc, thực hành.
Để thực hiện việc quan sát một cách đầy đủ, chính xác, giám sát viên phải sử dụng các bảng kiểm trong quá trình quan sát. Vì vậy, trong giai đoạn chuẩn bị cho cuộc giám sát, giám sát viên phải chuẩn bị một số bảng kiểm theo nội dung của cuộc giám sát.
Các công cụ giám sát đóng một vai trò rất quan trọng trong các cuộc giám sát vì vậy để tiến hành một cuộc giám sát, giám sát viên phải chuẩn bị trước một số công cụ để sẵn sàng thực hiện khi phỏng vấn, trao đổi, thảo luận cũng như để quan sát các hoạt động đào tạo. Số lượng và loại hình của những công cụ này phụ thuộc vào mục tiêu, nôi dung của từng cuộc giám sát.
Lập kế hoạch giám sát
Cũng như bất kỳ một cuộc giám sát nào, trước khi tiến hành một cuộc giám sát đào tạo, những người được giao nhiệm vụ giám sát [giám sát viên] phải lập kế hoạch giám sát. Bản kế hoạch giám sát càng thật chi tiết, cụ thể thì cuộc giám sát càng thuận lợi, dễ dàng, tránh được những trục trặc, lúng túng cho cả hai phía giám sát viên và những người, những đơn vị được giám sát.
Dưới đây, giới thiệu một mẫu để biên soạn kế hoạch giám sát đào tạo
MẪU GỢI Ý
BIÊN SOẠN KẾ HOẠCH GIÁM SÁT
Mục tiêu cuộc giám sát:
1.
2.
3.
Nội dung của đợt giám sát:
1.
2.
3.
Thời gian giám sát:
Thời gian chuẩn bị cho cuộc giám sát:
Thời gian giám sát tại đơn vị:
Thời gian viết báo cáo:
Địa điểm giám sát:
Giám sát viên:
1.
2.
3.
Nội dung, hoạt động, công cụ giám sát:
TT
|
NỘI DUNG GIÁM SÁT
|
HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT
|
CÔNG CỤ GIÁM SÁT
|
1
|
|
|
|
2
|
|
|
|
3
|
|
|
|
Kế hoạch giám sát tại đơn vị:
CÁC HOẠT ĐỘNG
|
THỜI GIAN
|
ĐỊA ĐIỂM
|
NHỮNG NGƯỜI LIÊN QUAN
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Những công việc chuẩn bị cho cuộc giám sát:
1.
2.
3.
……………., ngày .....tháng … năm 20…
TM.NHÓM GIÁM SÁT
Viết báo cáo kết quả giám sát
Sau khi đã thực hiện cuộc giám sát theo kế hoạch và lịch trình, Giám sát viên bổ xung, hoàn thiện các thông tin, tập hợp toàn bộ hồ sơ và tài liệu của cuộc giám sát để soạn thảo báo cáo kết quả của cuộc giám sát.
Nội dung báo cáo kết quả giám sát là toàn bộ những hoạt động và nội dung giám sát đã thực hiện tại đơn vị. Dưới đây là một mẫu biên soạn báo cáo kết quả giám sát.
MẪU GỢI Ý BIÊN SOẠN
BÁO CÁO KẾT QUẢ GIÁM SÁT
Đơn vị được giám sát:
Thời gian giám sát:
Nội dung giám sát:
Phương pháp giám sát:
-
-
Giám sát viên:
1.
2.
3.
Danh sách những người được giám sát:
1.
2.
3.
Tóm tắt các hoạt động giám sát đã thực hiện tại đơn vị :
-
-
Kết quả giám sát
Nội dung 1:
Kết qủa thực hiện của đơn vị
Những khó khăn tồn tại
Nguyên nhân
Những giải pháp khắc phục cải thiện
Những giúp đỡ hỗ trợ của nhóm giám sát
Nội dung 2:
Kết qủa thực hiện của đơn vị
Những khó khăn tồn tại
Nguyên nhân
Những giải pháp khắc phục cải thiện
Những giúp đỡ hỗ trợ của nhóm giám sát Nội dung 3:
Nhận xét chung:
Những cam kết của đơn vị với nhóm giám sát:
Những cam kết của nhóm giám sát với đơn vị:
Kết luận:
TM.NHÓM GIÁM SÁT TM. ĐƠN VỊ ĐƯỢC GIÁM SÁT
Phụ lục 1 HƯỚNG DẪN THIẾT KẾ MẪU ĐÁNH GIÁ CẤP ĐỘ 1
Lĩnh vực đánh giá: Bao gồm nhiều loại sau đây: nội dung, tài liệu, phương pháp giảng dạy, giảng viên, môi trường, hậu cần của khóa ĐTLT.
Biểu mẫu đánh giá: Cần có thông tin cơ bản của khoá ĐTLT như tên của khoá ĐTLT, họ và tên các giảng viên và thời gian ĐTLT
Mẫu cần phải ngắn gọn
Tạo sự cân bằng giữa nhiều loại thông tin được thu thập.
Yêu cầu học viên điền vào phiếu trước khi rời khỏi phòng học để bạn có thể nhận được 100% ý kiến phản hồi của họ.
Hình thức: Sử dụng hình thức đa dạng để học viên không trả lời theo cùng một cách cho mỗi mục. Các hình thức có thể bao gồm như sau:
Các câu hỏi lựa chọn với khoảng trống để giải thích hay nhận xét [có/không, đồng ý/không đồng ý]
Ví dụ về một số câu hỏi lựa chọn có thể như sau:
Mục tiêu của khoá ĐTLT được thông báo rõ ràng và làm cho tôi hài lòng.
Nhịp độ đào tạo phù hợp với các chủ đề được đề cập đến.
Độ khó của nội dung đào tạo phù hợp với tôi.
Nhìn chung giảng viên thực hiện tốt phần việc của mình.
Giảng viên có kiến thức tốt về nội dung chủ đề.
Giảng viên quản lý thời gian một cách hiệu quả.
Tôi nhận thấy các bài tập thực hành giúp tôi hiểu các khái niệm đã được thảo luận và cách thức áp dụng chúng.
Việc sắp xếp chỗ ngồi phù hợp với nội dung và thời gian đào tạo. Các phương tiện nghe nhìn và việc chiếu sáng rất tốt đối với sự tham gia và việc học tập.
Nghỉ ngơi, đồ uống và đồ ăn nhẹ rất đầy đủ cho các buổi học theo kế hoạch.
Câu hỏi trả lời ngắn - câu hỏi mở
Phần nào của khóa đào tạo ích lợi nhất đối với bạn? Vì sao? - Những chủ đề nào mà bạn muốn được dành nhiều hoặc ít thời gian hơn?
Bạn muốn góp ý gì với giảng viên để họ có thể tiến hành công việc của mình hiệu quả hơn nữa?
Hoàn thành câu
[Điều mà tôi muốn biết thêm là...]
Cho điểm
Cho điểm từ hoàn toàn đồng ý đến hoàn toàn không đồng ý. Ghi số từ 1 đến 5 bên cạnh mỗi một câu nói hoặc câu hỏi. Điểm 5 là đồng nghĩa với đánh giá cao nhất [đồng ý] và điểm 1 là đánh giá thấp nhất [không đồng ý].
Xếp hạng
“Hãy sắp xếp các chủ đề theo thứ tự tầm quan trọng
Bảng kiểm
“Kiểm tra cụm từ mô tả phản ứng của bạn đối với bài học hôm nay
Thí dụ một mẫu hỏi ý kiến học viên
PHIẾU HỎI Ý KIẾN HỌC VIÊN I
Tên khóa ĐTLT:
Ngày tháng:
Giảng viên:
Thông tin được truyền đạt trong buổi học là:
Rất hữu ích đối với tôi
Tương đối hữu ích đối với tôi
Không có nhiều ích lợi đối với tôi
Ở cấp độ nào Bài trình bày này đã cho bạn một cái nhìn tổng quát hơn ở cấp độ nào về chủ đề đào tạo? [Hãy khoanh tròn số phù hợp].
1
|
2
|
3
|
4
|
5
|
6
|
7
|
8
|
9
|
10
|
Hoàn toàn không
|
Một chút
|
Rất nhiều
|
Cụ thể là tôi thích các nội dung:
Nhận xét chung của bạn về buổi học hôm nay là gì?
Tuyệt vời
Rất tốt
Tốt
Trung bình
Kém
Các nhận xét khác:
PHIẾU HỎI Ý KIẾN HỌC VIÊN II
Tên khóa ĐTLT:
Ngày tháng:
Giảng viên:
Mục tiêu khóa học
|
Có
|
Không
|
Có được giải thích đầy đủ không?
|
|
|
Có được đề cập lại trong suốt khóa học không?
|
|
|
Có được xem lại khi kết thúc khóa học không?
|
|
|
Nhận xét:
Bạn thấy có đủ thời gian và cơ hội để đặt câu hỏi và thảo luận trong nhóm không?
Những lợi ích gì mà bạn nghĩ là đã thu được từ khóa học này?
Kiến thức mới thích hợp với công việc hiện tại của tôi.
Các phương pháp, kỹ năng, hoặc kỹ thuật cụ thể có thể áp dụng cho công việc.
Thay đổi thái độ sẽ giúp đỡ tôi trong công việc.
Theo bạn nghĩ những điểm mạnh, chính của khóa học này là gì?
Đánh giá của bạn về tài liệu bạn nhận được là gì?
Bạn có thể giới thiệu khóa học này cho người khác không?
Nếu có, cho ai?
Nếu không, tại sao?
Những thay đổi quan trọng gì bạn sẽ khuyến nghị để cải thiện các chương trình trong tương lai?
Xin bổ sung các nhận xét khác mà bạn muốn về bất kỳ khía cạnh nào của khóa học [giảng viên, tài liệu, các chủ đề đã được đề cập, cơ sở vật chất, phương tiện hỗ trợ nghe nhìn]
Đánh giá tổng thể của bạn về khóa học.
10
|
9
|
8
|
7
|
6
|
5
|
4
|
3
|
2
|
1
|
Tuyệt vời
|
Tốt
|
Đạt
|
Không đạt
|
Tùy chọn: Bạn có thể ghi hoặc không ghi tên và địa chỉ
Tên: _____________________________________
Nơi làm việc: ______________________________________
Các bài tập đánh giá đào tạo liên tục
Bài tập 1
Liệt kê các công việc mà người quản lý ĐTLT của bệnh viện phải làm để đánh giá kết quả học tập của học viên trong một khóa ĐTLT tổ chức tại bệnh viện
Bài tập 2
Xây dựng kế hoạch và công cụ đánh giá ở cấp độ 1 một khóa đào tạo liên tục của bệnh viện
Bài tập 3
Xây dựng kế hoạch và công cụ đánh giá ở cấp độ 2 một khóa đào tạo liên tục của bệnh viện
Bài tập 4
Xây dựng kế hoạch và công cụ đánh giá ở cấp độ 3 các khóa đào tạo liên tục của bệnh viện trong 6 tháng đầu năm 2013
Bài tập 5
Xây dựng kế hoạch và công cụ đánh giá ở cấp độ 4 các khóa đào tạo liên tục của bệnh viện năm 2013
Các bài tập giám sát đào tạo liên tục
Bài tập 1
Sở Y tế tỉnh Vĩnh Phúc giáo cho Bệnh viện đa khoa tỉnh tổ chức một lớp đào tạo về Quản lý Điều dưỡng cho 30 học viên là Cử nhân điều dưỡng của các bệnh viện đa khoa và chuyên khoa của tỉnh. Lớp học khai mạc ngày 22/06/2013 và đã học được 10 ngày.
Bạn được cử làm Trưởng nhóm giám sát khóa đào tạo Quản lý Điều dưỡng tại Bệnh viện đa khoa tỉnh . Bạn có 1 tuần lễ để cùng các thành viên trong nhóm chuẩn bị cho cuộc giám sát.
? Bạn và nhóm giám sát cần phải nghiên cứu những văn bản, hồ sơ, tài liệu nào để chuẩn bị cho cuộc giám sát. Xin liệt kê, báo cáo trước lớp.
Bài tập 2
Bạn được cử làm Trưởng nhóm giám sát lớp đào tạo Quản lý Điều dưỡng của Bệnh viện đa khoa Vĩnh Phúc [xem bài tập 1].
Giả thiết Bạn và nhóm giám sát đã nghiên cứu các tài liệu và có đủ thông tin về lớp đào tạo Quản lý Điều dưỡng của Bệnh viện đa khoa Vĩnh Phúc.
? Liệt kê những vấn đề mà theo Bạn và các thành viên trong nhóm giám sát thấy cần đưa vào nội dung giám sát tại Bệnh viện đa khoa Vĩnh Phúc
Bài tập 3
Bạn được cử làm Trưởng nhóm giám sát lớp đào tạo Quản lý Điều dưỡng của Bệnh viện đa khoa Vĩnh Phúc [xem bài tập 1].
Kết thúc bài tập số 2, Bạn và nhóm giám sát đã xác định được những nội dung cần giám sát lớp đào tạo Quản lý Điều dưỡng của Bệnh viện đa khoa Vĩnh Phúc
? Bạn và các thành viên trong nhóm giám sát chọn 2 trong số các nội dung giám sát và đề xuất những hoạt động và công cụ giám sát cho từng nội dung.
TT
|
Nội dung giám sát
|
Hoạt động giám sát
|
Công cụ giám sát
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Bài tập 4
Bạn được cử làm Trưởng nhóm giám sát lớp đào tạo Quản lý Điều dưỡng của Bệnh viện đa khoa Vĩnh Phúc [xem bài tập 1].
Kết thúc bài tập số 3, Bạn và nhóm giám sát đã xác định được những nội dung, Hoạt động giám sát và công cụ giám sát lớp đào tạo Quản lý Điều dưỡng của Bệnh viện đa khoa Vĩnh Phúc
? Dựa vào mẫu gợi ý ở Phần 9 [trang 7], Bạn và các thành viên trong nhóm giám sát lập một bản Kế hoach giám sát lớp đào tạo Quản lý Điều dưỡng của Bệnh viện đa khoa Vĩnh Phúc
?? Trình bày bản Kế hoạch giám sát trước lớp.
Giới thiệu về Chỉ số, Giám sát và Cảnh báo
Hiểu được trạng thái của cơ sở hạ tầng và hệ thống của bạn là điều cần thiết đảm bảo độ tin cậy và ổn định của các dịch vụ của bạn. Thông tin về tình trạng và hiệu suất triển khai của bạn không chỉ giúp group của bạn phản ứng với các vấn đề mà còn cung cấp cho họ sự an toàn để tự tin áp dụng các thay đổi . Một trong những cách tốt nhất để đạt được thông tin chi tiết này là sử dụng một hệ thống giám sát mạnh mẽ thu thập các chỉ số, trực quan hóa dữ liệu và cảnh báo cho người vận hành khi mọi thứ dường như bị hỏng.
Trong hướng dẫn này, ta sẽ thảo luận về các chỉ số, giám sát và cảnh báo là gì. Ta sẽ nói về lý do tại sao chúng quan trọng, những loại cơ hội mà chúng cung cấp và loại dữ liệu bạn có thể cần theo dõi. Ta sẽ giới thiệu một số thuật ngữ chính trong quá trình này và sẽ kết thúc bằng một bảng chú giải ngắn về một số thuật ngữ khác mà bạn có thể gặp khi khám phá không gian này.
Video liên quan