Nguy cơ ngưỡng là gì

Tin tức -

Double test là xét nghiệm máu để đánh giá nguy cơ hai hội chứng: Hội chứng Down [3 nhiễm sắc thể 21]. Và hội chứng Edwards [3 nhiễm sắc thể 18]  làm  từ 11 tuần đến 13 tuần 6 ngày. Việc tính toán nguy cơ của Double test dựa vào: Kết quả xét nghiệm máu, tuổi của mẹ và khoảng sáng sau gáy trên siêu âm. Lưu ý cần lấy máu sau khi đã có kết quả siêu âm.

Triple test cũng là một xét nghiệm máu [tại bệnh viện Việt Pháp làm trong khoảng từ 15 tuần đến 21 tuần của thai kỳ] để đánh giá nguy cơ bị 3 bệnh sau của thai nhi: Bệnh Down [3 nhiễm sắc thể 21]; Bệnh 3 nhiễm sắc thể 18 [hội chứng Edwards]; Bệnh của hệ thống thần kinh [dị tật hở đốt sống và thai vô sọ].

Đây không phải là các biện pháp chẩn đoán mà chỉ là các xét nghiệm sàng lọc, nghĩa là kết quả xét nghiệm, chỉ trả lời là thai có nguy cơ cao hay nguy cơ thấp bị các bệnh trên chứ không trả lời được là thai bị bệnh hay không bị bệnh.

Triple test, double test dương tính nghĩa là gì?

Nghĩa là thai có nguy cơ cao bị một trong các bệnh trên, nhưng nguy cơ cao không có nghĩa là bị bệnh. Rất nhiều sản phụ có triple test/ double test dương tính nhưng khi chọc ối lại cho kết quả thai bình thường.

Triple test, double test âm tính nghĩa là gì?

Là thai có nguy cơ thấp bị các bệnh trên nhưng cũng không đảm bảo được 100% là thai không bị bệnh.

Thế nào là nguy cơ cao, nguy cơ thấp?

Lấy bệnh Down làm ví dụ: ngưỡng phân biệt là 1/250. Nếu nguy cơ lớn hơn 1/250 là nguy cơ cao, ví dụ 1/249, 1/248… Nếu nguy cơ nhỏ hơn 1/250 là nguy cơ thấp, ví dụ 1/251, 1/252 …

Làm gì khi triple test, double test âm tính: tiếp tục theo dõi thai định kỳ bằng siêu âm.

Làm gì khi triple test, double test dương tính:

Nếu nguy cơ bị bệnh Down [3 nhiễm sắc thể 21] và 3 nhiễm sắc thể 18 cao thì phải chọc ối để làm nhiễm sắc đồ. Chọc ối là một biện pháp chẩn đoán và kết quả của nhiễm sắc đồ sẽ trả lời rõ là thai bình thường hay thai bị bệnh down nhưng ở đây cần nhấn mạnh là cứ 100 người chọc ối thì có một người bị hỏng thai vì chính động tác chọc ối, hay nói cách khác tỷ lệ hỏng thai vì chọc ối là 1/100.

Nếu nguy cơ bị dị tật hệ thống thần kinh cao: Phải làm siêu âm để chẩn đoán.

Những điểm cần lưu ý khi đến làm triple test, double test tại bệnh viện Việt Pháp:

Triple test: Làm vào các buổi sáng thứ 2, 3 và 4. Nhịn ăn sáng

Double test: Các ngày từ thứ 2 đến thứ 7. Không cần nhịn ăn sáng.

Triple test, double test không phải là xét nghiệm bắt buộc, nghĩa là làm xét nghiệm này không là tùy thuộc vào quyết định của sản phụ.

Triple test, double test là xét nghiệm nằm ngoài hợp đồng thai sản có nghĩa làm triple test sản phụ phải mất thêm phí.

II. Xét nghiệm ADN của thai nhi qua máu mẹ

Dựa trên nguyên tắc: bắt đầu từ khi thai > 9 tuần người ta có thể nghiên cứu trên những tế bào thai lưu hành trong máu mẹ để phát hiện những bất thường trên các nhiễm sắc thể 13. 18 [hội chứng Edwards], 21 [hội chứng Down], X và Y

Chỉ làm xét nghiệm này từ tuần thứ 9 của thai kỳ, không cần nhịn ăn.

Nếu kết quả là nguy cơ thấp: có thể gần như chắc chắn loại trừ những bất thường của các nhiễm sắc thể đã kể ở trên: Nhiễm sắc thể 13, 18, 21, X, Y với độ tin cậy 99,9%

Nếu kết quả là nguy cơ cao: Thì khả năng có bất thường về nhiễm sắc thể là khoảng 99%. Tất nhiên sau đó vẫn phải chọc ối để xác định chẩn đoán.

Ưu điểm: Độ chính xác cao, không ảnh hưởng đến thai.

Sàng lọc trước sinh là phương pháp kiểm tra tình trạng phát triển của bé ngay từ khi còn trong bụng mẹ giúp phát hiện những hội chứng di truyền cho bé. Double test là một trong những phương pháp sàng lọc trước sinh thường quy được nhiều mẹ bầu biết đến. Tuy nhiên, liệu có phải mẹ bầu nào cũng hiểu được hết những thông tin mà kết quả xét nghiệm Double test thông báo? Vậy, kết quả xét nghiệm Double test nói lên điều gì?

Xét nghiệm Double test khi mang thai

Xét nghiệm Double test là phương pháp xét nghiệm sinh hóa thực hiện sàng lọc trước sinh cho mẹ bầu ngay từ tam cá nguyệt thứ nhất – trong khoảng tuần thai 11 – 13, Double test dựa vào các định lượng β-hCG tự do và PAPP-A trong máu thai phụ, kết hợp với các chỉ số khác như siêu âm đo độ mờ da gáy, tuổi mẹ mang thai, tuần tuổi thai… để đánh giá một số nguy cơ mắc các hội chứng dị tật bẩm sinh thường gặp như Down, Edward hoặc Patau,…

Xem thêm: Xét nghiệm Double test là gì?

Những ai nên thực hiện xét nghiệm Double test?

Tất cả người mẹ mang thai muốn con sinh ra được khỏe mạnh, phát triển toàn diện đều nên thực hiện sàng lọc trước sinh để kiểm tra tình trạng phát triển của con để có hướng chăm sóc thai nhi phù hợp nhất. Đặc biệt là những người mẹ mang thai thuộc nhóm nguy cơ cao như:

  • Mẹ bầu mang thai từ 35 tuổi trở lên
  • Có tiền sử sảy thai, thai lưu, sinh non,…
  • Có tiền sử sinh con mắc dị tật bẩm sinh
  • Gia đình có người mắc dị tật bẩm sinh
  • Mẹ bầu nhiễm virus trong quá trình mang thai
  • Kết quả siêu âm có nguy cơ cao
  • Người mẹ mang thai từ IVF
  • Người mẹ hoặc người cha mắc bệnh truyền nhiễm, bệnh xã hội
  • Mẹ bầu thường xuyên sống, làm việc trong môi trường nhiễm phóng xạ, chất hóa học, chất độc hại
  • Thường xuyên sử dụng chất kích thích, rượu, bia, thuốc lá,… trong quá trình mang thai…

Xét nghiệm Double test được thực hiện như thế nào?

Khi lấy máu thực hiện xét nghiệm Double test, mẹ bầu không cần phải ăn kiêng, nhịn ăn hay nhất thiết phải lấy mẫu máu vào buổi sáng như những xét nghiệm máu thông thường.

Trước khi tiến hành thu mẫu, mẹ bầu cần được thực hiện siêu âm trước đó để xác định tình trạng phát triển của thai nhi, xác định tuần tuổi thai. Được bác sĩ tư vấn về phương pháp Double test.

Tại cơ sở xét nghiệm, mẹ bầu được hướng dẫn làm thủ tục xét nghiệm, điền đầy đủ thông tin vào phiếu yêu cầu xét nghiệm. Các chỉ số ở kết quả siêu âm cần được ghi nhớ và điền thông tin chính xác như: Ngày siêu âm gần nhất, tuần tuổi thai, ngày sinh dự kiến, ngày cuối cùng của chu kỳ kinh nguyệt, chiều dài đầu – mông, độ mờ da gáy,… Bác sĩ chuyên khoa tiến hành thu máu ngoại vi [trên tĩnh mạch ở tay của mẹ bầu] để thực hiện xét nghiệm. Kết quả xét nghiệm được trả sau 2 – 3 ngày kể từ khi thu mẫu.

Cách đọc kết quả xét nghiệm Double test

Độ chính xác của Double test kết hợp với kết quả siêu âm đo độ mờ da gáy cho thai nhi có khả năng phát hiện dị tật thai nhi ở khoảng 85 – 90% đối với hội chứng Down, 5% dương tính giả và 95% thai bị hội chứng Edwards, hội chứng Patau với 0,3% dương tính giả.

Ngưỡng an toàn của các nguy cơ dị tật thai nhi

  • Ngưỡng an toàn của thai nhi với nguy cơ mắc hội chứng Down và hội chứng Down theo tuổi mang thai của mẹ là 1:250. Có nghĩa là kết quả sàng lọc đưa ra mẫu số > 250 thì thai nhi có nguy cơ thấp, < 250 thì thai nhi có nguy cơ cao.
  • Ngưỡng an toàn với hội chứng Edwards, Patau ở khoảng 1:100. Nếu kết quả sàng lọc có mẫu số > 100 thì thai nhi có nguy cơ thấp, mẫu số > 100 thì thai nhi có nguy cơ cao với hai hội chứng.
  • Ngưỡng an toàn dị tật ống thần kinh ở khoảng 1:75. Nếu kết quả sàng lọc thông báo mẫu số > 75 thì con có nguy cơ thấp và ngược lại < 75 thì con có nguy cơ cao.

Hiểu tỷ lệ trong kết quả sàng lọc như thế nào?

Nếu kết quả trong phiếu xét nghiệm thông báo nguy cơ với hội chứng Down là 1:400 có nghĩa là mẹ bầu có thể là một trong 400 mẹ bầu sinh con mắc hội chứng Down, còn lại 399 mẹ bầu sinh con không mắc phải hội chứng Down.

Chỉ số MoM [Multiple of Median] trong kết quả có ý nghĩa gì?

Giá trị bình thường của các thông số β-hCG tự do và PAPP-A máu thai phụ sau khi hiệu chỉnh đều bằng 1 MoM. Giá trị ngưỡng [cut-off] thấp và cao của các thông số để đánh giá nguy cơ dị tật bẩm sinh như sau: b-hCG tự do < 0,4 hoặc > 2,5 MoM

PAPP-A < 0,4 MoM

Bất thường của thai nhi là nguyên nhân phổ biến nhất gây tử vong chu sinh và sau khi sinh. Chính vì thế, việc kiểm tra trước sinh [đối với dị tật thai nhi] đã trở thành một phần quan trọng trong chăm sóc sản khoa. Dưới đây là một số xét nghiệm thường quy được khuyến cáo nên thực hiện trong thai kỳ.

Các xét nghiệm dị tật thai nhi trong suốt thai kỳ

  • Xác định thai trong hay ngoài tử cung.
  • Thai phát triển bình thường hay ngừng phát triển trong tử cung
  • Dự kiến ngày sinh[ tính tuổi thai].
  • Số lượng thai.
  • Phát hiện các bất thường: u xơ tử cung, u nang buồng trứng, còn dụng cụ tử cung
  • Thời điểm vàng để siêu âm chẩn đoán, sàng lọc dị tật thai nhi tốt nhất là vào tuần 12- 13, để đo khoảng sáng sau gáy, dấu hiệu nghi ngờ bất thường nhiễm sắc thể.
  • Phát hiện một số di tật sớm: thai vô sọ, khe hở cột sống, thoát vị rốn, khe hở thành bụng…

Cụ thể là sản phụ cần đi siêu âm thai vào tuần 18 và tuần 28 của thai kỳ, tức trong 3 tháng giữa thai kỳ. Nếu có bất thường phải đình chỉ thai [vì thai nhi bị dị tật quá nghiêm trọng] thì điều này cần phải thực hiện muộn nhất ở tuần 28.

Tất cả phụ nữ mang thai đều nên được thực hiện siêu âm trong thời kỳ này, tùy theo loại của dị tật của thai/ tình trạng sản phụ hoặc xét nghiệm Double test/Triple test có nguy cơ các bác sĩ sẽ chỉ định các loại xét nghiệm sàng lọc nếu dị tật thai nhi.

Đặc biệt những thai phụ sau đây rất cần được xét nghiệm:

  • Tiền sử gia đình có dị tật bẩm sinh;
  • Trên 35 tuổi;
  • Có sử dụng thuốc hoặc các chất có thể gây hại cho thai;
  • Bệnh tiểu đường và có sử dụng insulin;
  • Bị nhiễm virus trong thời kỳ mang thai;
  • Có tiếp xúc với phóng xạ liều lượng cao.

Sản phụ cần làm kết hợp các xét nghiệm sàng lọc ở 3 tháng đầu và 3 tháng giữa thai kỳ để phát hiện bất thường thai chính xác hơn, so với việc chỉ sử dụng một vài sàng lọc độc lập.

Hầu như tất cả các trường hợp thai nhi bị Hội chứng Down đều có thể được phát hiện sau khi sản phụ trải qua sau những lần kiểm tra sàng lọc ở thời điểm trên.

Kết quả xét nghiệm nếu có bất thường vẫn cần có thêm các kiểm tra xét nghiệm khác như siêu âm, hút ối, sinh thiết gai rau để làm nhiễm sắc đồ… sẽ được chỉ định tùy vào từng trường hợp cụ thể để chẩn đoán chính xác.

Xem thêm:

15 dấu hiệu mang thai sớm dễ nhận biết nhất

Siêu âm chuẩn đoán những bất thường trong quá trình mang thai

Các chuyên gia cảnh báo: tất cả mọi sản phụ dù có hay không có nguy cơ đều nên sàng lọc vào quý I của thai kỳ. Sàng lọc sớm sẽ cho phép phát hiện tới 95% trường hợp thai kỳ mắc hội chứng Down và 97% trường hợp thể tam nhiễm sắc thể sắc thể 18/13 trong điều kiện chuẩn.

Xét nghiệm dị tật thai nhi trong ba tháng đầu tiên là sự kết hợp giữa siêu âm thai nhi và xét nghiệm double test [xét nghiệm máu của người mẹ]. Quá trình sàng lọc này có thể xác định nguy cơ thai nhi bị dị tật bẩm sinh nhất định. Các xét nghiệm sàng lọc có thể được tiến hành đơn lẻ hoặc kết hợp với các xét nghiệm khác. Có 3 xét nghiệm sàng lọc quan trọng trong tam cá nguyệt đầu tiên:

  • Xét nghiệm siêu âm đo độ mờ da gáy thai nhi [NT]. Độ mờ da gáy là sự kết tụ chất dịch ở vùng da mặt sau cổ của thai nhi. Tầm soát độ mờ da gáy thai nhi bằng siêu âm, kết hợp với xét nghiệm máu của mẹ và đánh giá chỉ số xương mũi thai nhi là những yếu tố để xem xét bé cưng của bạn có bị mắc hội chứng Down hay không. Trong trường hợp thai có độ mờ da gáy gần giá trị ngưỡng 3mm nên làm Double test để giúp đánh giá chính xác hơn nguy cơ hội chứng Down.
  • Xét nghiệm double test là xét nghiệm được chỉ định ở tất cả các thai phụ có thai trong quý đầu [giữa tuần thứ 9 đến hết tuần thứ 13] của thai kỳ. Đặc biệt là bắt buộc làm đối với những thai phụ có tiền sử gia đình có người bị dị tật bẩm sinh, thai phụ trên 35 tuổi, đang sử dụng thuốc hoặc các hóa chất có thể gây hại cho thai, bị bệnh tiểu đường và có sử dụng insulin, bị nhiễm virus trong thời kỳ mang thai, có tiếp xúc với phóng xạ liều cao. Xét nghiệm double test được thực hiện bằng cách lấy mẫu máu của sản phụ để đánh giá nồng độ freeBeta hCG và PAPP-A  [pregnancy asscociated plasma protein-A]. Xét nghiệm này cho phép phát hiện khoảng 95% thai kỳ mắc hội chứng Down.

Đánh giá nồng độ freeBeta hCG và PAPP-A

Khi sàng lọc độ mờ da gáy và xét nghiệm double test trong 3 tháng đầu, kết hợp với tuổi mẹ, có khả năng xác định xem thai nhi có bị dị tật bẩm sinh như hội chứng Down [trisomy 21] và trisomy 18 hay không.

Báo cáo về các nhiễm sắc thể

Hội chứng Down và 3 sắc thể 18, 13 là những trường hợp bất thường của bộ nhiễm sắc thể trong tế bào. Bình thường trong mỗi tế bào có 46 nhiễm sắc thể, trừ cặp nhiễm sắc thể giới tính, mỗi nhiễm sắc thể đều tồn tại thành từng cặp và được đánh số từ 1 đến 22 theo thứ tự từ lớn tới nhỏ. Thể tam nhiễm sắc thể làm trẻ mắc nhiều dị tật bẩm sinh và chậm phát triển tâm thần, bao gồm:

  • Cặp ba nhiễm sắc thể 21 [Trisomy 21]: hay còn gọi hội chứng Down do thừa một nhiễm sắc thể 21. Đây là nỗi lo của nhiễm nhiều bà mẹ vì hội chứng Down là một dị tật khá phổ biến. Nó ảnh hưởng đến 1/600 trẻ sinh ra mỗi năm. Hội chứng này có thể khiến bé chậm phát triển trí tuệ và thể chất hoặc dẫn đến một số khiếm khuyết ở tim.
  • Cặp ba nhiễm sắc thể 18 [Trisomy 18]: hay còn gọi là hội chứng Edward do thừa 1 nhiễm sắc thể 18. Những bé bị khuyết tật này làm mẹ bị sẩy thai sớm. Nếu không được phát hiện sớm, sinh ra bé sẽ bị những khuyết tật nặng về cấu trúc cơ thể.
  • Cặp ba nhiễm sắc thể 13 [Trisomy 13]: hay còn gọi là hội chứng Patau do thừa một nhiễm sắc thể 13. Cũng như cặp ba nhiễm sắc thể 18, những đứa bé mắc phải khuyết tật này thường không có tuổi thọ cao hoặc sinh ra với nhiều khuyết tật trên cơ thể.

Nếu kết quả của các xét nghiệm sàng lọc trong 3 tháng đầu này là bất thường, nên tư vấn di truyền. Các xét nghiệm khác như sinh thiết gai nhau, chọc ối, DNA tự do của thai nhi trong máu mẹ hoặc siêu âm dị tật sớm có thể cần thiết để chẩn đoán chính xác.

Một số câu hỏi thường gặp khi xét nghiệm dị tật thai nhi trong 3 tháng đầu

Tại sao cần phải kết hợp cả siêu âm và phân tích máu mẹ trong sàng lọc ở quý I?

Độ mờ da gáy của thai nhi thay đổi theo tuổi thai và nguy cơ thai nhi mắc các bất thường nhiễm sắc thể được tính không chỉ dựa trên độ dày của độ mờ da gáy[ dấu hiệu chỉ điểm trên siêu âm] mà còn dựa trên tuổi và cân nặng của mẹ, tiền sử của những lần mang thai trước.

Để giảm tỷ lệ sàng lọc dương tính [*] cần phối hợp với việc phân tích các chất freeBeta hCG và PAPP-A [Double test] trong máu mẹ. Sự phối hợp này làm giảm tỷ lệ sàng lọc dương tính từ 8,3% nếu như chỉ sử dụng sàng lọc bằng siêu âm xuống còn 2,4% và tăng tỷ lệ phát hiện từ 80% lên tới 90%.

[*]Tỷ lệ này càng cao thì số bà mẹ mặc dù thai nhi hoàn toàn bình thường nhưng được đánh giá là có nguy cơ càng cao làm tốn chi phí chẩn đoán và làm tăng sự lo âu cho các bà mẹ

Kết quả sàng lọc trong quý I của thai kỳ có cho phép khẳng định thai nhi mắc hội chứng Down hoặc thể tam nhiễm sắc thể 18 hoặc 13 không?    

Không, kết quả sàng lọc chỉ cho phép kết luận về nguy cơ thai mắc hội chứng Down hoặc thể tam nhiễm sắc thể 18 hoặc 13 mà thôi.

Nếu kết quả sàng lọc cho thấy thai nhi tăng nguy cơ, điều này nghĩa là gì?

Kết quả sàng lọc cho thấy có sự gia tăng nguy cơ thai nhi mắc hội chứng Down hoặc 3 nhiễm sắc thể 18 hoặc 13 không có nghĩa là thai nhi đã được chẩn đoán mắc trường hợp bất thường nhiễm sắc thể đó mà chỉ đơn giản là thai nhi có nguy cơ mắc hội chứng Down hoặc 3 nhiễm sắc thể 18 hoặc 13 tăng cao.

Nhân viên sẽ tư vấn về các xét nghiệm cần được thực hiện tiếp theo để chẩn đoán như sinh thiết gai nhau hoặc chọc hút nước ối để xét nghiệm nhiễm sắc thể của thai nhi, những xét nghiệm này cho phép chẩn đoán chính xác tới 99,9% thai nhi bị bất thường nhiễm sắc thể.

Nguy cơ thai nhi mắc hội chứng Down và 3 nhiễm sắc thể 18/13 được tính như thế nào?

Căn cứ vào kết quả đo độ mờ da gáy, xương mũi và nồng độ của các chỉ số sinh hóa [freeBeta hCG và PAPP-A] và các thông tin liên quan đến tuổi mẹ, trọng lượng của mẹ, tuổi thai, tiền sử gia đình, chủng tộc v.v…  các bác sĩ siêu âm sản khoa sẽ phân tích để tính nguy cơ thai nhi mắc hội chứng Down hoặc 3 nhiễm sắc thể 18/13 cho từng sản phụ.

Việc sàng lọc sớm ở quý I có cho phép phát hiện 100% trường hợp thai nhi mắc hội chứng Down hoặc thể tam nhiễm sắc thể 18/13 không?

Không. Sự phối hợp đánh giá độ mờ da gáy, xương mũi, freeBeta hCG và PAPP-A tốt nhất cũng chỉ phát hiện được 95% trường hợp thai nhi mắc hội chứng Down và 97% trường hợp 3 nhiễm sắc thể 18/13.

Giả sử có 70.000 sản phụ, với tỷ lệ mắc hội chứng Down trong quần thể là 1/700 sẽ có 100 sản phụ mang thai mắc hội chứng Down, nếu tất cả sản phụ này đều tham gia sàng lọc ở quý I, sẽ chỉ phát hiện được 95 trường hợp, còn lại 5 trường hợp thai nhi mắc hội chứng Down sẽ nằm trong số các sản phụ có kết quả sàng lọc âm tính và không được phát hiện.

Sự gia tăng chiều dày của độ mờ da gáy có phải là dấu hiệu chắc chắn thai nhi mắc dị tật bẩm sinh không?

Không, sự gia tăng chiều dày của độ mờ da gáy không đồng nghĩa với việc thai nhi mang bất thường, đây chỉ là dấu hiệu chỉ điểm/ gợi ý.

Nếu độ mờ da gáy của thai nhi có độ dày >= 3,0mm với chiều dài đầu – mông [CRL: crown-rump length] trong khoảng 45 – 84 mm, thai nhi sẽ có nguy cơ mang bất thường nhiễm sắc thể, mang khuyết tật tim bẩm sinh hoặc các khuyết tật nghiêm trọng khác.

Tất cả sản phụ có độ mờ da gáy của thai nhi >= 3,0mm cần được chỉ định làm Double test/ triple test hoặc chỉ định chọc hút dịch ối làm nhiễm sắc thể thai nhi và theo dõi các bất thường của thai nhi qua siêu âm trong quý II của thai kì đặc biệt là là các bất thường tim bẩm sinh.

Khoảng 90% sản phụ có độ mờ da gáy của thai nhi dưới 4,5 mm sẽ sinh bé khỏe mạnh. Khoảng 80% sản phụ có độ mờ da gáy của thai nhi từ 4,5 – 6,4 mm và 45% sản phụ có độ mờ da gáy của thai nhi >= 6,5mm sẽ sinh bé khỏe mạnh.

Xét nghiệm dị tật thai nhi trước sinh được tiến hành vào 3 tháng giữa thai kỳ, bao gồm một số xét nghiệm máu để nhận biết những dấu hiệu sản phụ có nguy cơ sinh con có bệnh di truyền hoặc dị tật bẩm sinh. Sàng lọc thường được thực hiện bằng cách lấy mẫu máu của người mẹ trong tuần thứ 15 và thứ 20 của thai kỳ [từ tuần thứ 16 đến tuần thứ 18 là lý tưởng]. Có một số chú ý như sau:

Xét nghiệm Triple test: còn gọi là xét nghiệm bộ ba là loại xét nghiệm tầm soát sử dụng máu mẹ để tìm hiểu nguy cơ một số rối loạn bẩm sinh ở thai. Có ba chất được sử dụng trong xét nghiệm này là AFP, hCG và Estriol.

Trong đó AFP [alpha-fetoprotein] là loại protein do thai sản xuất, hCG [human chorionic gonadotropin] là loại nội tiết do nhau sản xuất trong quá trình mang thai và Estriol là loại nội tiết estrogen được cả nhau và thai sản xuất. Đây là loại xét nghiệm không xâm lấn và hoàn toàn không gây ảnh hưởng đến mẹ và thai.

Alpha-fetoprotein [AFP] là một protein được sản xuất bởi cả túi noãn hoàng và gan của thai nhi. AFP có trong dịch ối, và đi qua nhau thai vào máu của người mẹ. Nồng độ AFP tăng gợi ý thai có tăng nguy cơ bị dị tật ống thần kinh như cột sống chẻ đôi và vô sọ.

Nồng độ AFP giảm nếu kết hợp với nồng độ hCG và estriol giảm thì thai có tăng nguy cơ bị Hội chứng Down [Trisomy 21 hay tam thể 21], Hội chứng Edwards [Trisomy 18 hay tam thể 18] hoặc bất thường nhiễm sắc thể khác. Ngoài ra, chỉ số AFP bất thường còn có thể báo hiệu:

  • Các khuyết tật ống thần kinh [ONTD], chẳng hạn như nứt đốt sống;
  • Hội chứng Down;
  • Các bất thường về nhiễm sắc thể khác;
  • Khuyết tật ở thành bụng của bào thai;
  • Thai vô sọ;
  • Sứt môi chẻ vòm;
  • Dị tật nứt đốt sống;
  • Thoát vị rốn bẩm sinh;
  • Hở thành bụng;
  • Dấu hiệu song thai, đa thai [song thai nồng độ AFP tăng gấp hai lần so với đơn thai];
  • Thai chết lưu trong tử cung: nồng độ AFP cũng gia tăng;
  • Xuất huyết sau nhau, động thai cũng làm tăng nồng độ AFP;
  • Mẹ có khối u ác tính hoặc viêm gan cấp…

Mẹ bầu cần khám thai ít nhất 4 lần

Human chorionic gonadotropin [hCG] là một hormone được sản xuất bởi nhau thai. Nồng độ hCG tăng trong máu của người mẹ ở ba tháng đầu của thai kỳ và sau đó giảm trong thời gian còn lại của thai kỳ. Nếu trong tam cá nguyệt thứ hai, hCG có xu hướng cao thì thai nhi có nguy cơ khiếm khuyết nhiễm sắc thể có kết quả là hội chứng Edwards.

Estriol unconjugated [UE3] là một dạng estrogen được sản xuất bởi bào thai thông qua sự trao đổi chất. Quá trình này liên quan đến gan, tuyến thượng thận, và nhau thai. Một số estriol unconjugated qua nhau thai và có thể được đo trong máu của người mẹ. Nồng độ UE3 tăng cho đến một thời gian ngắn trước khi sinh em bé. Nếu trong tam cá nguyệt thứ hai, UE3 có xu hướng thấp thì thai nhi có nguy cơ bị hội chứng Down hoặc hội chứng Edwards.

Xét nghiệm nồng độ inhibin A trong máu được đo kèm trong bộ bốn xét nghiệm tầm soát huyết thanh mẹ. Nồng độ các chất này – cùng với tuổi của mẹ và các yếu tố khác – sẽ giúp bác sĩ đánh giá khả năng bị một số vấn đề hoặc dị tật bẩm sinh của em bé. Inhibin A là một hormone được sản xuất bởi nhau thai. Nồng độ Inhibin A trong máu của người mẹ giảm nhẹ từ tuần 14 đến 17 tuổi thai và sau đó tăng trở lại. Nếu nồng độ có xu hướng cao bất thường thì thai nhi có nguy cơ bị hội chứng Down.

Sàng lọc huyết thanh mẹ tam cá nguyệt thứ hai

Chọc ối là một thủ thuật được sử dụng để lấy một mẫu nhỏ nước ối bao quanh thai nhi. Nó được thực hiện để chẩn đoán rối loạn nhiễm sắc thể và khuyết tật ống thần kinh mở [ONTDs], chẳng hạn như nứt đốt sống.

Hơn thế nữa, chọc ối làm xét nghiệm trước khi sinh còn chỉ ra hàng trăm rối loạn gen khác nhau như: Xơ nang, bệnh Tay-Sachs phá hủy tế bào thần kinh, bệnh hồng cầu hình liềm, cũng như các dị tật ống thần kinh. Điều quan trọng là kết quả xét nghiệm ối có quyết định rất lớn trong việc quản lý thai kỳ..

Với công nghệ hiện đại ngày nay, biện pháp chọc ối được thực hiện rất dễ dàng. Chọc ối có thể được thực hiện từ tuần 15 -20 của thai kỳ có nguy cơ tăng nhiễm sắc thể bất thường, chẳng hạn như sản phụ trên 35 tuổi, hoặc mẹ xét nghiệm sàng lọc huyết thanh bất thường, thai nhi có nguy cơ bất thường nhiễm sắc thể hoặc khuyết tật ống thần kinh.

Bác sĩ sẽ siêu âm xác định vị trí chọc ối trong khoảng cách an toàn cho thai nhi. Sau đó, bác sĩ sẽ sử dụng một mũi kim mỏng, dài và rỗng đưa xuyên qua màng bụng và tử cung của sản phụ để vào túi ối, trích ra một lượng nhỏ nước ối dưới sự hỗ trợ của việc siêu âm.

Nước ối có chứa các tế bào của thai nhi, có các thông tin di truyền, sẽ được mang đến phòng thí nghiệm di truyền để phân tích nhiễm sắc thể thai, chẩn đoán dị tật thai.

Ví dụ nồng độ Alpha-fetoprotein, một loại protein được tạo ra bởi bào thai có trong nước ối, cũng là chìa khóa để chẩn đoán khuyết tật hở ống thần kinh, như nứt đốt sống. Kết quả xét nghiệm nước ối thường được hoàn thành khoảng 10 ngày đến 2 tuần, tùy thuộc vào phòng thí nghiệm.

Với các sản phụ mang song thai hoặc đa thai, khi chọc ối cần lấy mẫu từ mỗi túi ối, để xét nghiệm dị tật thai cho từng em bé. Tùy thuộc vào vị trí của em bé, nhau thai, lượng nước ối, hoặc tình trạng sản phụ mà có thể hoặc không thể thực hiện chọc ối.

Trong quá trình thăm khám thai định kỳ hoặc thực hiện các xét nghiệm, thai nhi được chẩn đoán là có nguy cơ dị tật bẩm sinh cao, hoặc gia đình có tiền sử mắc bệnh nào đó di truyền như bệnh máu không đông…, sẽ được chỉ định sinh thiết gai rau để tìm ra những rối loạn di truyền đó trên thai nhi.

Gai rau là những mô nhỏ hình ngón tay ở trong nhau thai. Sinh thiết gai rau [CVS] là một xét nghiệm trước sinh liên quan đến việc lấy mẫu của một số mô rau thai trong tế bào gai rau.

Mô này chứa chất liệu di truyền giống với những tế bào trong cơ thể thai nhi và có thể dùng để xét nghiệm chẩn đoán các bất thường về nhiễm sắc thể và một số vấn đề di truyền khác. Quy trình thực hiện ở giai đoạn sau của ba tháng đầu thai kỳ, nhất là ở giai đoạn tuần thứ 10 – 13 của thai kỳ.

Thử nghiệm có sẵn cho các khuyết tật và rối loạn di truyền khác tùy thuộc vào lịch sử gia đình và tính khả dụng của xét nghiệm tại thời điểm thực hiện thủ thuật. Không giống như chọc ối [một loại xét nghiệm trước sinh khác], CVS không cung cấp thông tin về các khuyết tật ống thần kinh, do đó, những sản phụ trải qua CVS cũng cần tiếp tục làm các xét nghiệm máu tiếp theo từ 16 đến 18 tuần của thai kỳ, để sàng lọc các khuyết tật ống thần kinh.

Tùy vào vị trí của thai nhi và rau thai ở trong tử cung sẽ chọn phương pháp sinh thiết gai rau là sinh thiết qua màng bụng hay sinh thiết gai rau qua cổ tử cung. Nếu sản phụ đa thai thì khi sinh thiết gai rau phải lấy mẫu từ mỗi rau thai.

Nếu sinh thiết qua đường bụng, bác sĩ sẽ dùng máy siêu âm để quan sát hình ảnh tử cung, thai nhi và rau thai trên màn hình. Bác sĩ sẽ nhìn vào hình chụp trên màn hình để đưa kim tiêm vào để lấy mẫu sinh thiết gai nhau

Nếu sinh thiết qua cổ tử cung thì bác sĩ sẽ đưa một dụng cụ gọi là mỏ vịt vào trong âm đạo. Mỏ vịt sẽ tách thành âm đạo ra để nhìn rõ hơn phần trong âm đạo và cổ tử cung. Siêu âm được thực hiện để giúp bác sĩ đưa catheter xuyên qua cổ tử cung vào nhau thai để lấy mẫu sinh thiết nhau thai.

Các mẫu mô được gửi đến một phòng thí nghiệm di truyền để phân tích. Kết quả thường có trong khoảng 10 ngày đến 2 tuần, tùy thuộc vào phòng thí nghiệm.

Lời khuyên của PGS.TS.BS Nguyễn Thị Hà

Video liên quan

Chủ Đề