So sánh ưu nhược điểm của Common Law và Civil Law

so sánh common law và civil law doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây [99.54 KB, 6 trang ]

Dòng họ Common law là một trong hai hệ thống pháp luật lớn trên thế giới, dòng
họ này có rất nhiều điểm khác biệt điển hình so với các dòng họ khác, đặc biệt là đối
với dòng họ Civil law.
1. Common law chịu ảnh hưởng của hệ thống pháp luật của Anh và thừa nhận án lệ
như nguồn luật chính thống, tức là thừa nhận học thuyết tiền lệ pháp.
Hệ thống pháp luật Ănglô - xắcxông, hệ thống Thông luật [Common Law], hay
gọi đơn giản hơn là hệ thống pháp luật Anh - Mỹ, là pháp luật ra đời ở Anh, sau này
phát triển ở Mĩ và những nước là thuộc địa của Anh, Mĩ trước đây. Đây là hệ thống
pháp luật phát triển từ những tập quán [custom], hay còn được gọi là hệ thống pháp luật
tập quán, hay hệ thống pháp luật coi trọng tiền lệ [precedents/ judge made law].
Học thuyết tiền lệ pháp ở các hệ thống này ít, nhiều chi phối hệ thống luật án lệ
theo hướng: các phán quyết đã tuyên của tòa án cấp trên nói chung có giá trị ràng buộc
tòa án cấp dưới trong quá trình xét xử các vụ việc hiện tại. Học thuyết này được triển
khai áp dụng trên thực tế thông qua việc xuất bản các phán quyết của tòa án có giá trị
ràng buộc để tạo điều kiện thuận lợi và tạo nguồn tài liệu có hệ thống, đáng tin cậy cho
việc áp dụng thống nhất tiền lệ pháp tại các tòa án trên toàn quốc trong công tác xét xử.
Điểm đặc thù trong hệ thống pháp luật Anh là việc áp dụng và phát triển án lệ hay
tiền lệ pháp. Những lĩnh vực pháp luật như luật hợp đồng, bồi thường trách nhiệm dân
sự ngoài hợp đồng, cũng như một số hành vi phạm tội nghiêm trọng như giết người và
hành hung tập thể [common assault] đều là sản phẩm của các phán quyết tòa án trước.
Trong hệ thống pháp luật Anh, một nguyên tắc ra đời từ khoảng thế kỷ XIII có tên
Latinh là “stare decisis” có nghĩa là tuân thủ các phán quyết trước đây và không phá vỡ
những quy phạm pháp luật đã được thiết lập trong án lệ. theo nguyên tắc này, các tòa án
cấp dưới chịu sự ràng buộc bởi các nguyên tắc pháp lý do các tòa án cấp trên sáng tạo ra
được ghi nhận trong các bản án trong quá trình xét xử các vụ việc trong quá khứ.
Khác với dòng họ common law, trong pháp luật lục địa, các quan hệ tài sản gắn
liền với những nguyên tắc của Luật dân sự La Mã - Tập hợp những qui định pháp luật
làm nền tảng cho Luật dân sự La Mã của Hoàng đế Justinian [Justinian’s Corpus Juris
Civilis], và ở hệ thống pháp luật này không coi án lệ là nguồn luật cơ bản, chính thống
và rất hạn chế việc áp dụng án lệ trong xét xử.
Quan niệm tiếp cận pháp luật của hai hệ thống pháp luật này là khác nhau. Hệ


thống Civil law quan niệm luật pháp là phải từ các chế định cụ thể [All law resides in
institutions], còn hệ thống Common law lại quan niệm luật pháp được hình thành từ tập
quán [All law is custom].
Ưu điểm rõ nét của các Bộ luật trong Civil Law là tính khái quát hóa, tính ổn định
cao [certainty of law]. Pháp luật Common Law dựa chủ yếu trên nguồn luật là tiền lệ
pháp [Stare decisis]. Thẩm phán vừa là người xét xử vừa là người sáng tạo ra pháp luật
một cách gián tiếp. Ưu điểm rõ nét nhất của các tập quán là tính cụ thể, linh hoạt và phù
hợp với sự phát triển của các quan hệ xã hội.
2. Thẩm phán đóng vai trò quan trọng trong việc sáng tạo và phát triển các quy phạm
pháp luật.
Nếu như các bộ luật trong dòng họ civil law chứa đựng những quy phạm và
những nguyên tắc pháp lý mang tính khái quát cao, có chức năng khái quát cung cấp
giải pháp pháp lí để giải quyết nhiều vụ việc thì ở Anh chức năng đó lại thuộc về thẩm
phán. Các thẩm phán Anh cho rằng chức năng cơ bản của mình là phán xử, giải quyết
tranh chấp. Vì vậy, các thẩm phán Anh thường đặc biệt chú ý tới những tình tiết đặc thù
của vụ việc, nghiên cứu kĩ lưỡng vấn đề pháp lí cần giải quyết và phán xét trên cơ sở
xác định chính xác tất cả những vụ việc đã được xét xử trong quá khứ có tình tiết tương
tự với vụ việc đang được giải quyết ở thời điểm hiện tại. Khi đã tìm ra một hay vài phán
quyết của tòa án cấp trên xét xử một hay nhiều vụ việc có tình tiết tương tự, họ sẽ tìm
đến phần nguyên tắc pháp lý [ratio decidendi] mà các thẩm phán tiền bối đã sáng tạo ra
trong các bản án đã tuyên trong quá khứ để áp dụng, giải quyết vụ án hiện tại.
Pháp luật Anh - Mỹ do án lệ là nguồn cơ bản, đặc biệt với truyền thống coi trọng
chứng cứ nên luật sư, thẩm phán rất được coi trọng. Pháp luật lục địa do văn bản qui
phạm pháp luật là nguồn chủ yếu, đồng thời do thông lệ "án tại hồ sơ" - quá trình điều
tra phụ thuộc phần lớn vào kết quả của cơ quan điều tra do vậy luật sư ban đầu ít được
coi trọng như các nước theo hệ thống pháp luật Anh - Mỹ.
Thẩm phán ở các nước Civil Law chỉ tiến hành hoạt động xét xử mà không được
tham gia hoạt động lập pháp, họ không được tạo ra các chế định, các qui phạm pháp
luật.
Toà án ở các nước theo truyền thống Common Law được coi là cơ quan làm luật


lần thứ hai, hay cơ quan sáng tạo ra án lệ [The second Legislation]. Ngược lại ở các
nước theo truyền thống Civil Law, chỉ có Nghị viện mới có quyền làm luật, còn Toà án
chỉ là cơ quan áp dụng pháp luật.
Như vậy, thẩm phán trong dòng họ Common law được thừa nhận ngoài chức
năng sáng tạo còn có chức năng “làm luật”.
3. Các hệ thống pháp luật thuộc dòng họ common law không có sự phân biệt giữa
luật công với luật tư.
Công pháp bao gồm các ngành luật, các chế định pháp luật điều chỉnh các quan
hệ về tổ chức và hoạt động của cơ quan nhà nước, những quan hệ mà một bên tham gia
là các cơ quan nhà nước. Còn tư pháp bao gồm các ngành luật, các chế định pháp luật
điều chỉnh các quan hệ liên quan đến các cá nhân, tổ chức khác. Tuy nhiên, dòng họ
common law khó phân chia thành công và tư pháp. Trong khi đó, pháp luật lục địa chia
thành công pháp [public law] và tư pháp [private law], trừ nước Anh. Tuy nhiên sự phân
biệt giữa luật công và luật tư ở Anh lại không có cùng mục đích như ở các nước thuộc
dòng họ Civil law. Ở Anh, việc phân chia này là nhằm xác định thủ tục tố tụng nào cần
áp dụng để giải quyết vụ việc có liên quan; trong khi đó ở các nước thuộc dòng họ civil
law, sự phân biệt này nhằm xác định thẩm quyền tòa án giải quyết vụ việc. Mặc dù vậy,
sự phân chia hai mảng pháp luật này ở Anh cũng đã lùi vào dĩ vãng cách đây vài thế kỷ.
4. Chế định đặc thù là chế định ủy thác.
Chế định đặc thù của hệ thống pháp luật Anh, ra đời do hoàn cảnh lịch sử riêng
có của nước Anh, sau đó đã lan sang các nước thuộc địa của Anh. Nó ra đời từ thế kỷ XI
– XII, và càng được hoàn thiện sau khi xuất hiện equity.
Chế định ủy thác trong dòng họ common law ra đời gắn liền với nhu cầu giải
quyết tranh chấp đất đai phát sinh từ hợp đồng ủy thác đất đai ở Anh thời trung cổ nhằm
đưa ra giải pháp công bằng đối với người được ủy thác có hành vi chiếm dụng đất đai
của người ủy thác trong quá trình thực hiện hợp đồng ủy thác đất đai. Ngày nay, chế
định ủy thác ở dòng họ common law không còn chỉ giới hạn phạm vi điều chỉnh trong
những quan hệ ủy thác đất đai mà còn mở rộng sang nhiều quan hệ xã hội thuộc các lĩnh
vực khác như thương mại và hàng hải.
Tương ứng với chế định ủy thác của common law có chế định “là giàu bất chính”


ở civil law, tuy nhiên đây không phải là chế định pháp lý đặc thù của dòng họ này.
Trong dòng họ Civil law, chế định làm giàu bất chính được thiết kế nhằm ngăn chặn
những hành vi của các cá nhân với dụng ý giữ lại nhằm chiếm đoạt tiền hoặc những lợi
ích vật chất của người khác trái với lương tâm hoặc giáo lý.
Trong khi đó, dòng họ civil law lại thừa nhận chế định đặc thù là chế định trái vụ.
Đây là một trong những mục chính của bất kì hệ thống pháp luật nào thuộc dòng họ
Civil law và xa lạ với nhiều hệ thống pháp luật khác – Anh. Trái vụ đó là nghĩa vụ, trách
nhiệm, bổn phận của một người đối với một người khác. Dựa trên Luật La Mã, học
thuyết ở các nước đã tạo nên trái vụ - chương mục trung tâm của Luật dân sự, đối tượng
chính của khoa học pháp lý. Thuật ngữ “trái vụ” là một thuật ngữ sơ đẳng đối với các
nước thuộc dòng họ Civil law, nhưng lại không có nghĩa tương đương trong ngôn ngữ
pháp lý ở Anh.
5. Sự bành trướng của dòng họ common law:
Sau khi hình thành ở Anh quốc, common law đã lan sang khắp các châu lục từ
châu Phi, châu Mỹ đến châu Úc, châu Á và làm thành dòng họ common law. Sự bành
trướng của common law của Anh diễn ra trong suốt quá trình Hoàng gia Anh thực hiện
chính sách thuộc địa hóa. Tuy nhiên, mức độ ảnh hưởng của common law của Anh đối
với các nước thuộc địa không giống nhau và có thể chia thành hai nhóm.
Một là những miền đất trước khi Anh xâm chiếm chưa có người sinh sống hoặc
chỉ có thổ dân sinh sống nhưng chưa có cuộc sống văn minh [Úc, Newzealand…].
Common law mà thực Anh đưa vào những thuộc địa này được tiếp nhận một cách tự
nhiên. Những thuộc địa này thường có hệ thống pháp luật rất gần gũi với hệ thống pháp
luật Anh.
Hai là những miền đất trước khi người Anh chinh phục đã có thủ lĩnh bản địa
hoặc đã từng là thuộc địa của một cường quốc châu Âu, nay người Anh giành được hoặc
được chuyển nhượng. Đối với những thuộc địa này, người Anh áp dụng chính sách kiên
định là tiếp tục duy trì pháp luật và thậm chí cả hệ thống tòa án bản địa chứ không thay
thế bằng common law của Anh nên một số quốc gia từng là thuộc địa của Anh có hệ
thống pháp luật không thuộc dòng họ common law.
Tuy nhiên cũng có một vài ngoại lệ diễn ra đối với những thuộc địa nhóm hai. Đó


là người Anh sẽ thay thế hệ thống pháp luật bản địa bằng common law của Anh. Hồng
Kông và Singapore là những ví dụ tiêu biểu cho những thuộc địa kiểu này.
Khác với common law, civil law bành trường hệ thống pháp luật của mình bởi hai
lý do là sự mở rộng thuộc địa và do sự tự nguyện học hỏi của các quốc gia khác.
Như vậy, có thể thấy rằng, những đặc điểm cơ bản của dòng hon Common law
chính là tiêu chí mang tính đặc thù nhằm so sánh, phân biệt cụ thể, chính xác hai dòng
họ.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trường đại học Luật Hà Nội, giáo trình luật so sánh, Nxb. CAND, HN, 2008.
2. Trường đại học Luật Hà Nội, Tập bài giảng luật so sánh, 2003.
3. //www.wattpad.com
4. //thuongmailaw.forum-viet.net/forum-f9/topic-t519.htm

So sánh hệ thống pháp luật Common Law và Civil Law

Mục lục:

  1. Hệ thống pháp luật lục địa [Continetal Law], hệ thống Luật dân sự [Civil Law], hay gọi đơn giản hơn là hệ thống pháp luật Pháp – Đức
  2. Hệ thống pháp luật Ănglô – xắcxông, hệ thống Thông luật [Common Law], hay gọi đơn giản hơn là hệ thống pháp luật Anh – Mỹ
  3. So sánh hệ thống pháp luật Common Law và Civil Law
    • Về nguồn gốc của luật
    • Về tính chất pháp điển hóa
    • Về thủ tục tố tụng
    • Về vai trò của luật sư và thẩm phán, chứng cứ

1. Giải thích một số thuật ngữ chuyện môn

1. Quy phạm pháp luật [QPPL]: là một loại qui phạm XH [các qui tắc mang tính xuất phát điểm và khuôn mẫu về hành vi các chủ thể], quan trọng là nó có tính pháp lý như: tính cưỡng chế chung cho mọi cá nhân, tổ chức, được ban hành theo thủ tục, trình tự mà pháp luật qui định. QPPL là phần tử cấu thành nhỏ nhất của hệ thống pháp luật.

2. Văn bản QPPL: là tập hợp các QPPL được ban hành theo những hình thức và thủ tục nhất định dưới dạng thành văn.

3. Nguồn luật: là hình thức biểu hiện sự tồn tại của QPPL.

4. Hệ thống cấu trúc pháp luật: là tổng thể các QPPL có mối liên hệ nội tại thống nhất với nhau được phân định thành các chế định luật và các ngành luật.

5. Tập quán pháp: là những cách xử sự giữa con người với con người, hình thành và tồn tại từ đời này qua đời khác, được một cộng đồng XH thừa nhận và tự nguyện tuân theo.

6. Tiền lệ pháp [án lệ]: là các văn bản, quyết định của tòa án, cơ quan pháp luật, lời giải thích các QPPL của thẩm phán được thừa nhận là khuôn mẫu để giải quyết các vụ việc tương tự.

7. Pháp điển hóa: là hoạt động của các cơ quan có thẩm quyền không những tập hợp các QPPL theo một trình tự nhất định, loại bỏ các qui phạm lỗi thời mà còn xây dựng những qui phạm mới thay thế cho các qui phạm đã bị loại bỏ và khắc phục những chỗ trống được phát hiện, sửa đổi, bổ sung, nâng cao hiệu lực QPPL… từ đó ra đời các QPPL mới.

1. Những điểm tương đồng giữa hai dòngCivil Law và Common Law

Có thể nói hệ thống pháp luật của hai dòng họ ngày càng có nhiều ảnh hưởng, học tập nhau, thể hiện rõ xu hướng hội tụ: Pháp luật của Scốt-len trước khi nhập vào Anh đã từng theo mô hình pháp luật La Mã. Ngược lại, pháp luật bang Québec [Canada] và bang Louisiane [Mỹ] theo truyền thống pháp luật La Mã nhưng chịu ảnh hưởng rất lớn của hệ thống pháp luật Anh – Mỹ đang được sử dụng ở các bang còn lại ở nước này.

– Điểm tương đồng dễ nhận thấy nhất giữa hai dòng Civil Law và Common Law chính là sự thừa nhận cả bốn thành tố: luật thành văn, án lệ [tiền lệ pháp], tập quán pháp, lẽ phải tự nhiên, các học thuyết trong quá trình nghiên cứu pháp luật …

Sự tương đồng này xuất phát từ quá trình hình thành và phát triển pháp luật của hai dòng họ đều dựa trên cơ sở lý luận pháp luật, pháp luật được xây dựng cùng quá trình hình thành và phát triển các học thuyết nghiên cứu pháp luật [với dòng họ Civil Law], hay qua thực tiễn xét xử với các vụ việc cụ thể [Common Law]. Với cả hai dòng họ pháp luật ra đời do sự nhu cầu thực tiễn. Cả hai dòng họ đều chịu sự ảnh hưởng từ Luật La Mã, nếu ở cả hai đều hình thành tư duy pháp lý từ rất sớm, điều đó giải thích tại sao lại có án lệ, luật hành văn và các học thuyết pháp lý trong cấu trúc nguồn luật của hai dòng họ này. Luật tục hay còn gọi là tập quán pháp và lẽ phải tự nhiên là thành tố mà hều hết dòng họ pháp luật nào cũng thừa nhận, vì vậy nguyên nhân chính đề xuất liệu sự tương đồng này vẫn là cả hai dòng họ Civil Law và Common Law đều cây dựng pháp luật theo tư duy xậy pháp luật, pháp luật thực sự là công cụ, ý chí của nhà nước chứ không phải thần thánh hay thượng đế giống các dòng Luật Hồi giáo hoặc các dòng họ luật tục khác.

So sánh án lệ Việt Nam và án lệ các nước thuộc hệ thống Common law


Hiện nay, trên thế giới, có 02 hệ thống pháp luật là hệ thống Common law [hệ thống pháp luật Anh Mỹ] và hệ thống Civil law [hệ thống pháp luật Pháp Đức].


>>> So sánh hệ thống pháp luật Common law và Civil law

>>> Quyết định 220/QĐ-CA công bố 6 án lệ

Hiện nay, trên thế giới, có 02 hệ thống pháp luật là hệ thống Common law [hệ thống pháp luật Anh Mỹ] và hệ thống Civil law [hệ thống pháp luật Pháp Đức].

Trong đó, hệ thống Common law chủ yếu sử dụng nguồn luật là án lệ trong xét xử, trái lại, Civil law lại dùng luật thành văn làm nguồn luật trong quá trình xét xử.

Và Việt Nam có hệ thống pháp luật mang nhiều đặc điểm của hệ thống Civil law. Tuy nhiên, Việt Nam ta không thừa nhận mình thuộc trường phái Common law hay Civil law một cách cụ thể.

Mới đây, Luật Tòa án nhân dân 2014 có hiệu lực từ ngày 01/6/2015 thừa nhận vai trò của án lệ trong hệ thống pháp luật nước nhà và Nghị quyết 03/2015/NQ-HĐTP đã kịp thời được ban hành quy định về trình tự, công bố và áp dụng án lệ.

Dưới đây là bảng so sánh án lệ của Việt Nam mình và án lệ của các nước thuộc hệ thống Common law.

Việt Nam

Các nước thuộc hệ thống common law

Nguồn luật chủ yếu

Luật thành văn.

[Luật được hình thành từ các chế định cụ thể]

Án lệ.

[Luật được hình thành từ các vụ việc]

Vai trò của án lệ

Án lệ không được xem là nguồn luật cơ bản, bởi lẽ án lệ được đưa ra nhằm làm rõ các quy định pháp luật có cách hiểu khác nhau.

=> Tòa án có trách nhiệm lựa chọn, công bố và áp dụng án lệ, còn việc làm luật thuộc về trách nhiệm của Quốc hội.

Án lệ được xem là nguồn luật cơ bản và bắt buộc áp dụng trong xét xử.

=> Tòa án, đặc biệt là Thẩm phán có vai trò quan trọng trong việc làm luật và hoạch định chính sách.

Tính bắt buộc áp dụng

Không bắt buộc áp dụng trong mọi vụ án xét xử.

Chỉ những vụ án có các tình tiết chưa được quy định cụ thể trong văn bản quy phạm pháp luật hoặc đã có quy định nhưng quy định này được hiểu theo nhiều cách khác nhau mới phải áp dụng.

Bắt buộc áp dụng trong mọi vụ án xét xử.

Tiêu chí lựa chọn án lệ

Để được lựa chọn là án lệ, Tòa án cần phải cân nhắc các bản án đã được xét xử đáp ứng đủ các tiêu chí sau:

- Chứa đựng lập luận làm rõ quy định pháp luật có cách hiểu khác nhau, phân tích, giải thích các vấn đề, sự kiện pháp lý và chỉ ra nguyên tắc, đường lối xử lý, quy phạm pháp luật cần áp dụng trong vụ việc cụ thể.

- Có tính chuẩn mực.

- Có giá trị hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật trong xét xử, bảo đảm những vụ việc có tình tiết, sự kiện pháp lý như nhau thì phải được giải quyết như nhau.

Không phải khi tòa án xét xử bất kỳ vụ việc nào cũng đều tạo ra án lệ.

Vụ việc xét xử được xem là án lệ khi đáp ứng đủ các tiêu chí sau:

- Tính mới. Nghĩa là trước đó, chưa có một án lệ nào quy định về vấn đề này.

Thông thường, trong một vụ việc sẽ có 02 vấn đề là vấn đề sự kiện và vấn đề pháp lý. Trong đó, vấn đề pháp lý nếu chưa có quy định từ trước thì vụ việc này được xét xử và sau đó được công nhận là án lệ.

- Chứa đựng các nội dung về tình tiết của vụ việc, lý lẽ và lập luận và đáp ứng nguyên tắc tiền lệ.

Các nội dung án lệ bắt buộc phải có

- Tên của vụ việc được Toà án giải quyết.

- Số bản án, quyết định của Toà án có chứa đựng án lệ.

- Từ khoá về những vấn đề pháp lý được giải quyết trong án lệ.

- Các tình tiết trong vụ án và phán quyết của Toà án có liên quan đến án lệ.

- Vấn đề pháp lý có giá trị hướng dẫn xét xử được giải quyết trong án lệ.

- Tên của vụ án.

- Năm Tòa án ra phán quyết đối với vụ án.

- Số tập văn bản của văn bản ghi chép án lệ.

- Tên viết tắt của văn bản ghi chép.

- Số thứ tự trang đầu tiên của văn bản ghi chép.

- Các tình tiết của vụ việc.

- Lý lẽ hay lập luận.

- Quyết định của Tòa án.

Ví dụ: Án lệ Sharif v Azad [1967] 1QB. 605 [CA]

Là vụ án án mạng tên Sharif kiện Azad, quyết định đưa ra và xuất bản vào năm 1967, tập 1 do Tòa phúc thẩm quyết định sau khi xem xét kháng cáo từ tòa cấp dưới – Tòa nữ hoàng [QB] và được ghi chép vào tập văn bản, bắt đầu từ trang 605.

Quy trình lựa chọn và công bố

Bước 1: Rà soát, phát hiện bản án, quyết định để đề xuất phát triển thành án lệ.

Bước 2: Lấy ý kiến đối với bản án, quyết định được đề xuất lựa chọn, phát triển thành án lệ.

Thời gian lấy ý kiến: 02 tháng.

Trong 01 tháng kể từ ngày hết thời hạn lấy ý kiến, Vụ Pháp chế và Quản lý khoa học Tòa án nhân dân tối cao chủ trì phối hợp với các đơn vị chức năng tập hợp các ý kiến góp ý, nghiên cứu đánh giá và báo cáo Chánh án xem xét quyết định việc lấy ý kiến của Hội đồng tư vấn án lệ.

Bước 3: Hạn 15 ngày kể từ ngày nhận hồ sơ đề nghị tư vấn, Chủ tịch Hội đồng phải cho ý kiến quyết định đề xuất lựa chọn án lệ gửi đến Chánh án Tòa án nhân dân.

Bước 4: Biểu quyết thông qua án lệ.

Bước 1: Tòa án có thẩm quyền ban hành án lệ xem xét các bản án của tòa án cấp dưới, đáp ứng các tiêu chí lựa chọn làm án lệ.

Bước 2: Công bố rộng rãi án lệ trong phương tiện thông tin đại chúng.

Bước 3: Ghi chép án lệ vào tập văn bản

Công bố án lệ

Án lệ được đăng trên Tạp chí Toà án nhân dân, Cổng thông tin điện tử Tòa án nhân dân tối cao; được gửi cho các Toà án và được đưa vào Tuyển tập án lệ xuất bản theo định kỳ 12 tháng.

Áp dụng thường xuyên, liên tục và rộng rãi bằng nhiều phương tiện thông tin đại chúng.

Hiệu lực áp dụng

Sau 45 ngày kể từ ngày công bố hoặc được ghi trong quyết định công bố án lệ của Chánh án Toà án nhân dân tối cao.

Có hiệu lực ngay khi được công bố.

Nguyên tắc áp dụng án lệ trong xét xử

- Giải quyết các vụ việc có tình tiết, sự kiện pháp lý tương tự nhau, đảm bảo các vụ việc có tình tiết, sự kiện pháp lý tương tự nhau phải được giải quyết như nhau.

- Trường hợp áp dụng án lệ, phải viện dẫn số bản án, quyết định được công nhận án lệ.

- Nếu có sự thay đổi Luật, Nghị quyết của Quốc hội, Pháp lệnh, Nghị quyết của UBTVQH, Nghị định của Chính phủ mà án lệ không còn phù hợp thì Thẩm phán, Hội thẩm không áp dụng án lệ.

- Nếu do chuyển biến tình hình mà án lệ không phù hợp thì không áp dụng án lệ mà phải kiến nghị với Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao để xem xét, hủy bỏ.

=> Án lệ càng mới thì giá trị áp dụng càng cao.

- Tôn trọng nguyên tắc tối cao của Tòa án.

- Án lệ phải linh hoạt, mềm dẻo…

=> Án lệ được ban hành càng lâu thì càng có giá trị áp dụng cao.

Hủy bỏ, thay thế án lệ

Có 02 trường hợp hủy bỏ, thay thế án lệ:

- Khi có sự thay đổi về Luật, Nghị quyết, Pháp lệnh, Nghị định.

- Do chuyển biến tình hình mà án lệ không còn phù hợp.

Các trường hợp hủy bỏ, thay thế án lệ:

- Bảo vệ công lý hoặc phán quyết sai.

- Trong một số trường hợp đặc biệt…

Qua quá trình nghiên cứu, đề xuất và cuối cùng là thừa nhận án lệ là một nguồn luật trong thực tiễn xét xử, thì việc áp dụng án lệ cũng không tránh khỏi những nhược điểm nhất định. Dẫn chứng một số nhược điểm bên cạnh những ưu điểm:

Nhược điểm:

- Cần nâng cao chất lượng quan điểm pháp lý của các Thẩm phán. Các Thẩm phán cần phải nâng cao trình độ của mình, đảm bảo yếu tố tranh luận và đa dạng về lý lẽ khi đưa ra lập luận, mở rộng nguồn tài liệu là cơ sở đưa các lập luận hay lý lẽ để thực hiện các quyết định, cuối cùng là các lập luận này cần phải được đưa vào cộng đồng pháp lý cũng như thực tiễn pháp lý để kiểm nghiệm và bổ sung hoàn chỉnh – điều này đòi hỏi các Thẩm phán cần phải biết lắng nghe, loại bỏ tư tưởng bảo thủ.

- Án lệ được xem là hình mẫu trong thực tiễn xét xử, nhưng nếu hình mẫu đưa ra không đúng thì liệu việc áp dụng án lệ cho những lần sau có xảy ra oan sai?

- Trong tương lai, khi án lệ được sử dụng một cách có hiệu quả, thì việc làm đầu tiên của các cơ quan nhà nước là thiết lập một cách có hệ thống việc công bố các bản án. Đã dự liệu được việc này từ trước, nên việc tra cứu bản án online hiện nay đã được tích hợp tại Dân Luật.

Để tra cứu bản án online, các bạn có thể vào đây để tìm và tải về.

Ưu điểm:

- Nhằm giải quyết kịp thời các vụ việc xảy ra trên thực tế nhưng chưa có văn bản quy phạm pháp luật quy định cụ thể hoặc có quy định nhưng lại có nhiều cách hiểu khác nhau.

- Việc lựa chọn tốt các án lệ, sẽ là tiền đề cho các vụ việc sau này khi xét xử, tránh được tình trạng oan sai.

- Tạo ra sự bình đẳng, minh bạch, công khai trong hoạt động xét xử.

- Việc thừa nhận án lệ cũng là một điểm lợi cho các Thẩm phán khi xét xử, chỉ cần xem xét đối chiếu để đưa ra phán quyết, tráng trường hợp mỗi người nhìn nhận, đánh giá vấn đề một kiểu dẫn đến trong dự luận xã hội cho rằng việc xét xử này không bình đẳng.

Anh Nguyễn

9084

Từ khóa: so sánh án lệ | án lệ Việt Nam | hệ thống Common law | án lệ |

Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về

Video liên quan

Chủ Đề