Tại sao nói luật Hiến pháp là ngành luật chủ đạo trong hệ thống pháp luật Việt Nam

Vị trí của ngành Luật Hiến pháp trong hệ thống pháp luật Việt Nam

Tác giả: Tô Văn Hòa

1. Ngành Luật Hiến pháp là ngành luật chủ đạo trong hệ thống pháp luật Việt Nam

Hệ thống pháp luật Việt Nam được tạo thành bởi nhiều ngành luật khác nhau. Mỗi ngành luật đều có vị trí độc lập tương đối do được hình thành trên cơ sở nhóm đối tượng điều chỉnh riêng mà chúng điều chỉnh. Trong số đó, ngành Luật Hiến pháp có một vị trí đặc biệt. Ngành Luật Hiến pháp không chỉ là một ngành luật độc lập mà còn có vị trí là ngành luật chủ đạo của toàn hệ thống. Vị trí chủ đạo cũng là nội dung của mối quan hệ giữa ngành Luật Hiến pháp với các ngành luật khác trong hệ thống pháp luật Việt Nam. Hiểu một cách đơn giản, vị trí chủ đạo có nghĩa là ngành Luật Hiến pháp thiết lập “con đường”, bảo đảm “hướng đỉ” cho sự hình thành và phát triển của hệ thống pháp luật Việt Nam. Nói cách khác, ngành Luật Hiến pháp, bằng nội dung của các quy phạm pháp luật và các chế định của mình, vừa đóng vai trò tạo lập nền tảng, vừa dẫn dắt sự phát triển của hệ thống pháp luật Việt Nam cũng như các ngành luật khác trong hệ thống.

Xem thêm bài viết về “Ngành Luật Hiến pháp”

2. Ba khía cạnh thể hiện “Vị trí chủ đạo” của ngành Luật Hiến pháp

2.1. Quy phạm pháp luật của ngành Luật Hiến pháp làm nền tảng hình thành các ngành luật khác

Các quy phạm pháp luật của ngành Luật Hiến pháp làm nền tảng hình thành các ngành luật khác trong hệ thống pháp luật Việt Nam.

Từ những ngành luật lớn như Luật dân sự, Luật hình sự, Luật hành chính, tới các ngành luật nhỏ hơn như Luật thương mại, Luật lao động v.v.. Dưới đây là ví dụ về một số quy định của ngành Luật Hiến pháp, cụ thể là của Hiến pháp năm 2013, làm nền tảng hình thành các ngành luật khác:

– Khoản 1 Điều 16 quy định: “Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật”; khoản 1 Điều 20 quy định: “Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm”; khoản 1 Điều 21 quy định: “Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân và bí mật gia đình; có quyền bảo vệ danh dự, uy tín của mình”; Điều 42 quy định: “Công dân có quyền xác định dân tộc của mình” v.v.. Đây là những quy định góp phần xây dựng nền tảng hình thành ngành luật dân sự.

– Điều 16 quy định: “Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật”; Điều 19 quy định: “Tính mạng con người được pháp luật bảo hộ”; khoản 1 Điều 20 quy định: “Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm”; Điều 48 quy định: “Người nước ngoài cư trú ở Việt Nam phải tuân theo Hiến pháp và pháp luật Việt Nam; được bảo hộ tính mạng, tài sản và các quyền, lợi ích chính đáng theo pháp luật Việt Nam”; Điều 44 quy định: “Phản bội Tổ quốc là tội nặng nhất” v.v.. Đây là những quy định góp phần xây dựng nền tảng hình thành ngành luật hình sự.

– Khoản 1 Điều 32 quy định: “Mọi người có quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất, phần vốn góp trong doanh nghiệp hoặc trong các tổ chức kinh tế khác”; Điều 33 quy định: “Mọi người có quyền tự do kinh doanh trong những ngành nghề mà pháp luật không cấm”; khoản 2 Điều 51 quy định: “Các thành phần kinh tế đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân. Các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật”; khoản 3 Điều 51 quy định: … Tài sản hợp pháp của cá nhân, tổ chức đầu tư, sản xuất, kinh doanh được pháp luật bảo hộ và không bị quốc hữu hóa” v.v.. Đây là những quy định nền tảng để hình thành ngành luật thương mại.

Đôi khi, sự ra đời hay thay đổi của một số quy định của ngành Luật Hiến pháp cũng góp phần ra đời cả một ngành luật, ví dụ trường hợp của ngành luật thương mại. Trong giai đoạn 1980 – 1992, chúng ta chưa có ngành luật thương mại như hiện nay, bởi vì Hiến pháp năm 1980 khi đó quy định nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế XHCN vận hành theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung, bao cấp. Hiến pháp năm 1992 ra đời đã quy định Nhà nước phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường, công dân có quyền tự do kinh doanh theo quy định của pháp luật, theo đó ngành luật thương mại được hình thành như ngày nay.

Xem thêm bài viết về “Hệ thống pháp luật”

2.2. Ngành Luật Hiến pháp làm nền tảng hình thành các ngành luật khác

Do do ngành Luật Hiến pháp làm nền tảng hình thành các ngành luật khác nên nhiều ngành luật thể chế hoá các tư tưởng chứa đựng trong các quy phạm pháp luật của ngành Luật Hiến pháp. Cũng chính vì điều này nên trong nhiều trường hợp, nếu các quy phạm pháp luật của các ngành luật đã lỗi thời và không còn phù hợp với tư tưởng của các quy phạm pháp luật tương ứng của ngành Luật Hiến pháp thì các quy phạm pháp luật của các ngành luật cụ thể đó sẽ bị vô hiệu. Ví dụ minh hoạ rõ ràng nhất cho mối quan hệ này chính là giữa ngành Luật Hiến pháp và các ngành luật thủ tục, ví dụ ngành luật tố tụng hình su, tó tụng hành chính, tố tụng dân sự v.v..

2.3. Ngành Luật Hiến pháp thay đổi dẫn đến các ngành luật khác cũng phải thay đổi

Mỗi khi nội dung các quy phạm pháp luật của ngành Luật Hiến pháp thay đổi thì nội dung của các quy phạm pháp luật và các chế định của các ngành luật khác cũng phải thay đổi cho phù hợp. Có thể nói nội dung của các quy phạm pháp luật của ngành Luật Hiến pháp tạo thành chính sách pháp luật cơ bản định hướng việc xây dựng các ngành luật cụ thể. Chính sách cơ bản đó thay đổi sẽ kéo theo yêu cầu sửa đổi, bổ sung đối với các quy phạm pháp luật và chế định tương ứng của các ngành luật cụ thể. Ví dụ, đối với ngành luật thương mại, Hiến pháp năm 1992 quy định: “Công dân có quyền tự do kinh doanh theo quy định của pháp luật”. Đến Hiến pháp năm 2013, quyền này được quy định như sau: “Mọi người có quyền tự do kinh doanh trong những ngành nghề mà pháp luật không cấm”. Như vậy, chính sách của nhà nước đối với quyền tự do kinh doanh đã được cởi mở hơn rất nhiều. Các quy định của ngành luật thương mại giờ đây sẽ phải thể chế hoá tinh thần này và có những quy định cởi mở hơn, khuyến khích kinh doanh một cách hiệu quả hơn. Nhà nước giờ đây chỉ có quyền đặt ra những lĩnh vực bị cấm kinh doanh mà không có quyền hạn chế kinh doanh của người dân bên ngoài phạm vi các lĩnh vực cấm đó. Một ví dụ khác là quyền bào chữa. Điều 132 Hiến pháp năm 1992 quy định: “Quyền bào chữa của bị cáo được bảo đảm. Bị cáo có thể tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa cho mình”. Đến Hiến pháp năm 2013, quyền này đã được sửa đổi bởi khoản 4 Điều 31 như sau: “Người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa”. Như vậy, quyền bào chữa của người dân đã được quy định rộng hơn rất nhiều so với trước đây, không những bị cáo mà bất cứ ai kể từ khi bị bắt, tạm giữ, tạm giam cho đến suốt quá trình tố tụng đều có quyền được bào chữa hoặc nhờ luật sư bào chữa. Ngành luật tố tụng hình sự, với Bộ luật tố tụng hình sự ban hành năm 2015 đã phải thể chế hoá tư tưởng này.

Như vậy, có thể hình dung hệ thống pháp luật Việt Nam như một kim tự tháp lớn, trong đó có nhiều kim tự tháp nhỏ tương ứng với các ngành luật. Trong mỗi kim tự tháp nhỏ, các quy phạm pháp luật của ngành Luật Hiến pháp được đặt ở vị trí đỉnh tháp, thiết lập các nguyên tắc cơ bản định hình cấu trúc của kim tự tháp đó.

Lí do ngành Luật Hiến pháp có vị trí nền tảng và chủ đạo trong hệ thống pháp luật Việt Nam là bởi vì đối tượng điều chỉnh của nó. Như đã đề cập, đối tượng điều chỉnh là nhân tố khách quan quyết định sự hình thành một ngành luật độc lập cũng như các đặc điểm riêng của ngành luật đó. Đối tượng điều chỉnh của ngành Luật Hiến pháp là các quan hệ cơ bản nhất và quan trọng nhất trong xã hội, là những quan hệ nền tảng mà chỉ khi nào xác định được hướng điều chỉnh chúng thì mới xác định được hướng điều chỉnh các quan hệ cụ thể. Qua việc điều chỉnh các quan hệ cơ bản, quan trọng nhất trong các lĩnh vực của đời sống xã hội, ngành Luật Hiến pháp hình thành nên những quy phạm pháp luật nền tảng, cơ bản mà các quy phạm pháp luật của các ngành luật khác phải căn cứ vào khi điều chỉnh các quan hệ xã hội cụ thể của từng lĩnh vực./.

Nguồn: Fanpage Luật sư Online

Mục lục bài viết

  • 1. Tìm hiểu quy định chung về luật hiến pháp
  • 1. Định nghĩa ngành luật hiến pháp
  • 2. Hệ thống ngành luật hiến pháp

tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân.

1. Tìm hiểu quy định chung về luật hiến pháp

Ở Việt Nam, ngành luật hiến pháp được hình thành từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 [được đánh dấu bằng Sắc lệnh số 14 ngày 08.9.1945 do Hồ Chủ tịch ban hành và tổng tuyển cử bầu Quốc hội lập hiến]. Nguồn chủ yếu và quan trọng nhất của ngành luật hiến pháp Việt Nam là Hiến pháp - đạo luật cơ bản của Nhà nước, ngoài ra còn có các nguồn khác như Luật bầu cử đại biểu Quốc hội, Luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân, các luật về tổ chức bộ máy nhà nước và một số văn bản dưới luật có chứa đựng các quy phạm của luật hiến pháp do các cơ quan như Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ và Hội đồng nhân dân các cấp ban hành.

Một chuyên ngành khoa học pháp lí, đối tượng nghiên cứu của nó chính là ngành luật hiến pháp. Khoa học luật hiến pháp Việt Nam nghiên cứu các quy phạm, các chế định của luật hiến pháp Việt Nam, các quan hệ pháp luật luật hiến pháp Việt Nam, các phương pháp điều chỉnh của ngành luật hiến pháp và những quan điểm chính trị, pháp lí liên quan đến ngành luật hiến pháp, đặc biệt là Hiến pháp - đạo luật cơ bản của Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Khoa học luật hiến pháp Việt Nam ra đời cùng với sự ra đời của ngành luật hiến pháp Việt Nam.

Một môn học trong chương trình đào tạo cử nhân luật, thạc sĩ luật và tiến sĩ luật. Đối tượng nghiên cứu của môn học này chính là ngành luật hiển pháp và khoa học luật hiến pháp Việt Nam. Môn học Luật hiến pháp Việt Nam được giảng dạy tại nhiểu trường chuyên ngành luật và không chuyên như trưởng Đại học Luật Hà Nội, Đại học Luật thành phổ Hổ Chí Minh, khoa Luật Đại học quốc gia Hà Nội, khoa Nhà nước - Pháp luật của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh và các trường Đảng...

Luật hiến pháp điều chỉnh các quan hệ cơ bản, quan trọng nhất trong các lĩnh vực chỉnh trị, kinh tế, văn hóa-xã hội, địa vị pháp lí của con người và công dân và đặc biệt là tổ chức, hoạt động của Bộ máy Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Ngành luật hiến pháp là ngành luật chủ đạo của hệ thống pháp luật. Trong khoa học pháp lí, Luật hiển pháp là bộ môn khoa học quan trọng. Kiến thức về Luật hiến pháp là nền tảng để nghiên cứu nhiều bộ môn khoa học pháp lí khác.

1. Định nghĩa ngành luật hiến pháp

Căn cứ vào khái niệm đối tượng điều chỉnh, phương pháp điều chỉnh và QPPL phân tích trên đây, có thể định nghĩa ngành LHP một cách cụ thể như sau: Ngành LHP là tổng thể các QPPL do nhà nước ban hành, điều chỉnh những QHXH nền tảng, cơ bản và quan trọng nhất trong xã hội gắn với việc xác định chế độ chỉnh trị, chỉnh sách cơ bản trong lĩnh vực kinh tế, văn hoá, xã hội, giáo dục, khoa học, công nghệ, quốc phòng và an ninh, đối ngoại; quyền và nghĩa vụ cơ bản của người dân; tố chức, hoạt động của bộ mảy nhà nước và các cơ quan trong bộ máy nhà nước.

Ngành LHP là một ngành luật độc lập trong hệ thống pháp luật Việt Nam và sự độc lập của ngành LHP được xác lập bởi các đặc điểm riêng của đối tượng điều chỉnh và phương pháp điều chỉnh của ngành luật này như phân tích ở các mục trên.

2. Hệ thống ngành luật hiến pháp

Ngành LHP không phải là một tập hợp hỗn độn các QPPL điều chỉnh các QHXH nền tảng, cơ bản và quan trọng trong xã hội. Trái lại, ngành LHP là một tập hợp có hệ thống các QPPL theo các bộ phận có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Khoản 2 Điều 7 Hiến pháp nước Cộng hoà XHCN Việt Nam năm 2013. phận cấu thành nhỏ nhất là QPPL, hệ thống ngành LHP còn được cấu thành bởi hai bộ phận là các nguyên tắc bao trùm [các nguyên tắc chung] và các chế định.

* Các nguyên tắc bao trùm của ngành LHP:

Neu các QPPL của ngành LHP thường mang tính khái quát thì các nguyên tắc bao trùm thậm chí còn mang tính khái quát cao hơn, đó là các tư tưởng, quan điểm mang tính chủ đạo đối với toàn bộ các chế định và QPPL của ngành LHP, chúng chi phối nội dung của các QPPL của ngành LHP ở tất cả các lĩnh vực. Có ba nguyên tắc bao trùm của ngành LHP:

- Nguyên tắc chủ quyền nhân dân: Nguyên tắc này được thể hiện xuyên suốt trong các chế định và quy định của ngành LHP mà trực tiếp nhất là tại khoản 2 Điều 2 và Điều 3 của Hiến pháp năm 2013. Nội dung của nguyên tắc này là đặt con người vào vị trí trung tâm của tất cả các công việc của nhà nước và xã hội, từ ngay trong lĩnh vực chính trị tới các chính sách trong lĩnh vực kinh tế, xã hội, văn hoá, giáo dục, khoa học và công nghệ, đên các quy định về quyền và nghĩa vụ cơ bản của người dân cũng như lĩnh vực tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước.

- Nguyên tắc nhà nước pháp quyền XHCN: Nguyên tắc này được quy định tại Điều 2 Hiến pháp năm 2013. Nguyên tắc nhà nước pháp quyền XHCN yêu cầu tôn trọng, bảo đảm quyền con người trong mọi lĩnh vực mà ngành LHP điều chỉnh và tôn trọng tính tối cao của pháp luật trong mọi mặt tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước.

- Nguyên tắc bình đẳng, đoàn kết giữa các dân tộc: Nguyên tắc này được thể hiện một cách rõ ràng ở Điều 5 Hiến pháp năm 2013. Nội dung của nguyên tắc là ngành LHP trong mọi lĩnh vực điều chỉnh của mình phải bảo đảm không có sự phân biệt giữa các dân tộc, các dân tộc thiểu số hoặc ở những địa bàn khó khăn phải được hưởng những chính sách ưu tiên phù hợp.

* Các chế định của ngành LHP:

“Chế định” là một trong những khái niệm cơ bản của luật học. Thuật ngữ “chế định” được dùng để chỉ tập hợp các QPPL của một ngành luật điều chỉnh một nhóm các QHXH cùng loại, tức là có cùng tính chất hay đặc điểm nhất định. Có thể hình dung rằng mỗi ngành luật đều là tập hợp của nhiều chế định được hình thành trên cơ sở các QPPL điều chỉnh các nhóm QHXH có cùng tính chất, đặc điểm trong tổng thể các QHXH là đối tượng điều chỉnh của ngành luật đó. cần lưu ý rằng, xác định các chế định trong một ngành luật là một việc làm linh hoạt. Một ngành luật có thể có một số chế định lớn và trong chế định lớn có thể có chế định nhỏ tùy thuộc phạm vi của các QHXH có cùng tính chất mà các chế định điều chỉnh. “Chế định” cũng là một khái niệm có ý nghĩa thực tiễn đối với công tác lập pháp và hoàn thiện pháp luật. Các QHXH cùng loại luôn đòi hỏi sự điều chỉnh nhất quán và do đó các QPPL trong chế định tương ứng cũng phải được xây dựng thống nhất với nhau.

Như vậy, chế định của ngành LHP là tập hợp các QPPL của ngành LHP điều chỉnh một nhóm QHXH có cùng loại trong phạm vi đối tượng điều chỉnh của ngành LHP. Ngành LHP có các chế định lớn cơ bản như sau:

- Chế định về chế độ chính trị bao gồm các QPPL của ngành LHP điều chỉnh các vấn đề cơ bản và quan trọng nhất trong lĩnh vực tố chức thực hiện quyền lực nhà nước.

- Chế định về mối quan hệ cơ bản giữa Nhà nước Cộng hoà XHCN Việt Nam với công dân Việt Nam và người dân sinh sống trên lãnh thổ Việt Nam bao gồm các QPPL của ngành LHP quy định về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân trên lãnh thổ Việt Nam. Chế định này cũng có thể được gọi là chế định quyền cơ bản của người dân.

- Chế định về chính sách kinh tế, xã hội, văn hoá, giáo dục, khoa học, công nghệ, môi trường, quốc phòng, an ninh và đối ngoại bao gồm các QPPL của ngành LHP quy định những QHXH cơ bản, quan trọng nhất trong lĩnh vực tương ứng, qua đó hình thành các chính sách định hướng của nhà nước trong các lĩnh vực.

- Chế định về chế độ bầu cử bao gồm các QPPL điều chỉnh các mối quan hệ trong lĩnh vực bầu cử để hình thành Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp, hay còn gọi là hệ thống cơ quan dân cử ở Việt Nam.

- Các chế định về tổ chức, hoạt động của Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, chính quyền địa phương, TAND, VKSND và các cơ quan hiến định độc lập bao gồm các QPPL của ngành LHP điều chỉnh về tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước tương ứng.

Có thể thấy rằng các chế định cơ bản trên đây của ngành LHP có tính độc lập tương đối với nhau bởi nhóm QHXH mà chúng điều chỉnh. Tuy nhiên, một số chế định có thể được tích hợp thành những chế định lớn hơn bởi các nhóm QHXH mà chúng điều chỉnh cũng có cùng đặc điểm hay tính chất. Ví dụ, các chế định về tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước có thể được tích hợp thành chế định của ngành LHP về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước Cộng hoà XHCN Việt Nam.

Để bảo đảm sự thống nhất trong từng chế định, các chế định cũng có thể có những nguyên tắc riêng, được hiểu là những quan điểm, tư tưởng chi phối tới các QPPL khác trong toàn bộ chế định. Ví dụ, trong chế định về chế độ bầu cử có các nguyên tắc bầu cử phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín, trong chế định về quyền cơ bản của người dân có nguyên tắc tôn trọng quyền con người, nguyên tắc quyền cơ bản chỉ có thể bị hạn chế bởi luật V.V..

Luật Minh Khuê [biên tập]

Video liên quan

Chủ Đề