Tại sao nước Nhật thoát khỏi thân phận thuộc địa của Chủ Nghĩa thực dân

Học tập phương Tây

Ban đầu chính quyền Tokugawa đã cho phép Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha đến buôn bán và truyền đạo. Và sau khi nhận ra ý đồ can thiệp vào nội bộ Nhật Bản của các quốc gia phương Tây này, chính quyền Tokugawa đã ra thực hành chính sách “bế quan toả cảng”, nhưng vẫn mở một cửa biển ở vịnh Nagasaki cho Hà Lan đến buôn bán.

Trong quan điểm của Nhật Bản, Hà Lan là tư bản thương nghiệp chứ không phải là tư bản công nghiệp, cho nên không đủ tiềm lực can thiệp vào Nhật Bản. Nhật Bản thông qua Hà Lan để tiếp thu kỹ thuật phương Tây, tạo ra tư tưởng “Hà Lan học”, sau này được giai cấp tư sản Nhật Bản sử dụng làm ngọn cờ tư tưởng cho cuộc cách mạng dân chủ tư sản [1868].

Sau sự kiện tàu chiến Mỹ đến buộc Nhật Bản “mở cửa” [1842], chính quyền Tokugawa đã ký với nhiều nước tư bản phương Tây các hiệp ước “bất bình đẳng”. Đó là Hiệp ước Hoà thân Nhật – Mỹ, Hiệp ước Anh – Nhật, Hiệp ước Nga – Nhật, Hiệp ước Hà Lan – Nhật [1854]; Hiệp ước Nhật – Mỹ và các Hiệp ước sửa đổi giữa Nhật Bản với các nước tư bản khác [1858]…

Nước Nhật có điểm khác trong cơ cấu kinh tế - chính trị - xã hội so với các nước phương Đông khác. Đó là sự kết hợp tính chất tập quyền phương Đông với tính chất phân quyền phương Tây. Cho nên trong quan hệ với phương Tây, Nhật Bản cũng thực hiện chính sách đóng cửa nhưng khác với các nước khác, Nhật Bản đóng cửa để phát triển tiềm lực quốc gia [thời kỳ Tokugawa].

Nhà cải cách người Nhật Bản Fukuzawa Yukichi [1835-1901] vào năm 1862

Do đó, trong thời kỳ đóng cửa, sự tự thân vận động của nội tại kinh tế Nhật Bản đã tạo ra được sự biến chuyển về kinh tế - xã hội. Do vậy, từ tầng lớp thị dân thời Tokugawa, giai cấp tư sản và tầng lớp quý tộc tư sản hoá ra đời và đủ sức tiến hành công cuộc Minh Trị Duy Tân đất nước thành công theo hướng một cuộc cách mạng dân chủ tư sản.

Đứng trước các nước phương Tây đã đi trước về sự tiến bộ xã hội, chính quyền phong kiến Nhật Bản cũng ý thức được rằng: Muốn bảo vệ độc lập, chủ quyền quốc gia, dân tộc thì phải cải cách. Không cải cách thì tất yếu sẽ bị diệt vong. Bởi vậy, sau khi lật đổ được nhà Tokugawa thì đã diễn ra Minh Trị Duy Tân [1868].

Lĩnh vực giáo dục được ưu tiên hàng đầu trong cải cách. Các môn học chuyển chủ yếu từ học thuộc Kinh Sử sang Khoa học-Kỹ nghệ-Thương mại. Mô hình đại học được áp dụng theo hình mẫu phương Tây và tư nhân được phép mở trường. Chất lượng dạy học cũng như chương trình chịu ảnh hưởng của phương Tây nhiều mặt.

Điển hình như việc soạn sách với 80% sách vở và tài liệu chuyên ngành được biên soạn theo mẫu của phương Tây. Trong thời gian đầu cải cách giáo dục, ước tính có tới 500 giảng viên nước ngoài giảng dạy tại 15 trường đại học đầu tiên của Nhật.

Các giảng viên này được trả lương rất cao, 300 Yên/tháng so với lương công chức Nhật thời bấy giờ là 30 Yên/tháng và hỗ trợ tốt về ăn ở, đi lại nhằm mục đích để họ cống hiến hết mình. Giảng viên Nhật có thể học hỏi phương pháp của các giáo sư nước ngoài này và những học sinh giỏi được cử sang du học ở nước ngoài.

Trong bài “Thoát Á luận” đăng ngày 16/3/1885 trên báo Jiji Shimpo [Thời sự Tân báo], Fukuzawa Yukichi [1835-1901], được xem là người có công mở đầu phong trào canh tân nước Nhật, đã kêu gọi đất nước “tách ra khỏi hàng ngũ các nước châu Á, đuổi kịp và đứng vào hàng ngũ các nước văn minh phương Tây”.

Fukuzawa Yukichi cũng ủng hộ việc bành trướng lãnh thổ của Nhật theo học thuyết xã hội kiểu Darwin. Ông cho rằng, chỉ những quốc gia mạnh nhất mới có thể sinh tồn thông qua một quá trình chọn lọc. Nghĩa là, Nhật Bản phải đi xâm chiếm nước khác, nếu không thì chính Nhật sẽ bị thôn tính.

Bên cạnh đó, Fukuzawa hy vọng một màn trình diễn về sức mạnh quân sự của Nhật sẽ làm chấn động dư luận ở phương Tây và giúp Nhật Bản tránh khỏi số phận bị xâu xé như ở Trung Quốc. Với hy vọng về một Nhật Bản mạnh mẽ, Fukuzawa đã xem các quốc gia châu Á vừa là mối đe dọa, vừa là cơ hội để Nhật thể hiện sức mạnh quân sự và chiếm làm thuộc địa.

Về quân sự, quân đội Nhật Bản lúc này đã được tổ chức và huấn luyện theo kiểu phương Tây. Lục quân theo mô hình của Đức, hải quân theo mô hình Anh, các công xưởng và nhà máy vũ khí theo mô hình công binh Pháp, hệ thống hậu cần học hỏi rất nhiều từ nước Mỹ.

Quân đội Nhật Bản áp dụng chế độ nghĩa vụ quân sự thay cho chế độ trưng binh và tăng cường mua và sản xuất vũ khí, đạn dược. Kèm theo đó là mời các giảng viên quân sự nước ngoài về để giảng dạy và đưa các sinh viên sĩ quan đến một số nước như Anh, Pháp học tập.

Sau đó, với nội lực mạnh, Nhật Bản gây chiến với Trung Quốc [1894], Nga [1904] và liên minh với Anh [1902] nên đã xé bỏ các Hiệp ước “bất bình đẳng”. Thậm chí Nhật Bản đã nối gót các nước phương Tây để tiến hành chiến tranh xâm lược với tham vọng phân chia lại thế giới.

Đỉnh cao tham vọng của nước Nhật là trong Chiến tranh thế giới thứ hai [1939-1945] khi quân đội nước này đã tấn công quân Mỹ tại Trân Châu Cảng [1941] và xâm chiếm toàn bộ Trung Quốc cùng các quốc gia Đông Nam Á.

Lợi thế “khu đệm”

Ngoài Nhật Bản, Xiêm cũng giữ được độc lập trước phương Tây. Xiêm cũng phải ký những hiệp ước “bất bình đẳng” với Hà Lan, Mỹ, Anh, Pháp… Trong đó nổi bật là việc Xiêm nhường ảnh hưởng của mình ở Lào, Campuchia cho Pháp, Đông Bắc Malaysia cho Anh.

Cải cách trở thành biện pháp duy nhất nhằm tăng cường nội lực, chống chọi lại ngoại lực phương Tây của Xiêm. Đất nước này cũng đã thi hành chính sách mở cửa rộng rãi. Nhờ đó, cơ cấu kinh tế – chính trị - xã hội ở Xiêm đã có sự thay đổi, đưa đến sự ra đời của giai cấp tư sản và tầng lớp quý tộc “tư sản hoá”.

Đây chính là lực lượng xã hội hậu thuẫn cho cuộc cải cách của vua Chulalongkorn [1853-1910] từ năm 1868 đến năm 1910. Trong 42 năm, vua Chulalongkorn luôn nỗ lực hiện đại hóa vương quốc và bãi bỏ chế độ nô lệ. Chulalongkorn là vua Xiêm đầu tiên đưa hoàng tử sang châu Âu du học. Ông công du châu Âu hai lần, giới thiệu với các nhà cầm quyền châu Âu rằng Xiêm là một quốc gia hiện đại.

Vua Chulalongkorn [1853-1910] trị vì từ năm 1868 đến năm 1910

Từ chỗ lợi dụng lợi thế nhiều nước đến hai nước [Anh và Pháp] đã cho phép Xiêm cân bằng được thế lực của các nước phương Tây trên lãnh thổ nước mình.

Bên cạnh đó, vị trí “khu đệm” [nằm giữa các vùng tranh chấp của Anh và Pháp] càng tạo điều kiện thuận lợi hơn để Xiêm bảo toàn độc lập dân tộc. Tuy nhiên, trên thực tế Xiêm độc lập về chủ quyền nhưng phụ thuộc về kinh tế, chính trị đối với phương Tây.

Đến đời vua Vajiravudh [1880-1925] trị vì từ 1910-1925, nhà nước Xiêm đã thúc đẩy sự sáng tạo và chủ nghĩa dân tộc. Vua Vajiravudh cũng đã hiện đại hóa quân đội, đưa binh sĩ Xiêm gia nhập lực lượng Đồng minh trong Chiến tranh thế giới thứ nhất [1914-1918].

Khi chiến tranh thế giới lần thứ hai nổ ra vào tháng 9/1939, Thái Lan [đổi tên từ Xiêm từ ngày 23/6/1939] đã tuyên bố trung lập. Tuy nhiên, Thái Lan đã gây chiến với quân Pháp ở Đông Dương sau khi nước Pháp thất thủ năm 1940. Mục tiêu của người Thái là giành lại những vùng đất đai mà họ đã mất vào tay phương Tây.

Ngày 25/1/1942, sau khi bị nước Nhật giật dây, Chính phủ Thái Lan tuyên chiến với nước Mỹ và Vương quốc Anh. Sau sự suy yếu của quân đội phát xít Nhật vào cuối thế chiến, một nhóm quân đội Thái Lan làm đảo chính vào ngày 1/8/1944, lật đổ chính phủ thân Nhật và ngay lập tức chuyển nước Thái từ một đồng minh của Nhật thành đồng minh của Mỹ.

Sau chiến tranh, Thái Lan không bị lực lượng Đồng minh chiếm đóng, nhưng phải trả lại các lãnh thổ chiếm được trong chiến tranh.

Nguyễn Văn Toàn

Alexander Yakovlev, “kiến trúc sư cải tổ” Liên Xô đã bị vạch mặt là “điệp viên có ảnh hưởng” của Mỹ.

Yuri Vladimirovich Andropov [1914-1984] là nhà lãnh đạo Liên Xô được nhân dân tin tưởng, tín nhiệm rất cao.

Bài 12:NHẬT BẢN GIỮA THẾ KỈ XIX – ĐẦU THẾ KỈ XX

- Đầu thế kỉ XIX chế độ Mạc phủ ở Nhật Bản đứng đầu là Tướng quân [Sô- gun] làm vào khủng hoảng suy yếu.

Bạn đang xem: Vì sao nhật bản thoát khỏi sự xâm lược của các nước đế quốc

* Kinh tế:

- Nông nghiệp lạc hậu, tô thuế nặng nề, mất mùa đói kém thường xuyên.

- Công nghiệp: kinh tế hàng hóa phát triển, công trường thủ công xuất hiện ngày càng nhiều, kinh tế tư bản phát triển nhanh chóng.

* Xã hội: nổi lên mâu thuẫn giữa nông dân, tư sản thị dân với chế độ phong kiến lạc hậu.

* Chính trị: Nổi lên mâu thuẫn giữa Thiên hoàng và Tướng quân.

- Giữa lúc Nhật Bản khủng hoảng suy yếu, các nước tư bản Âu - Mĩ tìm cách xâm nhập.

+ Đi đầu là Mĩ dùng vũ lực buộc Nhật Bản “mở cửa” sau đó Anh, Pháp, Nga, Đức cũng ép Nhật ký các Hiệp ước bất bình đẳng.

+ Trước nguy cơ bị xâm lược Nhật Bản phải lựa chọn một trong hai con đường là: bảo thủ duy trì chế độ phong kiến lạc hậu, hoặc là cải cách.

2. Cuộc Duy tân Minh Trị

Tháng 01/1868 Sô-gun bị lật đổ. Thiên hoàng Minh Trị [Meiji] trở lại nắm quyền và thực hiện một loạt cải cách;

+ Về chính trị Nhật hoàng tuyên bố thủ tiêu chế độ Mạc phủ, lập chính phủ mới, thực hiện bình đẳng ban bố quyền tự do.

+ Về kinh tế: xóa bỏ độc quyền ruộng đất của phong kiến thực hiện cải cách theo hướng tư bản chủ nghĩa.

+ Về quân sự: được tổ chức huấn luyện theo kiểu phương Tây, chú trọng đóng tàu chiến, sản xuất vũ khí đạn dược.

+ Giáo dục: chú trọng nội dung khoa học- kỹ thuật. Cử HS giỏi đi du học phương Tây.

* Tính chất – ý nghĩa:

Cải cách Minh Trị mang tính chất của một cuộc cách mạng tư sản, mở đường cho chủ nghĩa tư bản phát triển ở Nhật.


Thiên hoàng Minh Trị trẻ tuổi trong bộ quân phục

II. Nhật Bản chuyển sang Chủ nghĩa Đế quốc

- Trong 30 năm cuối thế kỉ XIX quá trình tập trung trong công nghiệp, thương nghiệp với ngân hành đã đưa đến sự ra đời những công ty độc quyền, Mít-xưi, Mit-su-bi-si chi phối đời sống kinh tế, chính trị Nhật Bản.

- Trong 30 năm cuối thế kỉ XIX Nhật đẩy mạnh chính sách bành trướng xâm lược.

+ Năm 1874 Nhật Bản xâm lược Đài Loan

+ Năm 1894-1895 chiến tranh với Trung Quốc

+ Năm 1904-1905 chiến tranh với Nga


Lược đồ về sự bành trướng của đế quốc Nhật Bản cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX.

* HƯỚNG DẪN TRẢ LỜI CÂU HỎI

1. Vào thế kỉ XIX, Nhật Bản có đúng trước nguy cơ bị thực dân phương Tây xâm lược như các nước châu Á khác không?

Trả lời

Vào thế kỉ XIX, Nhật Bản cũng như các nước khác ở châu Á đều đứng trước nguy cơ bị các nước phương Tây xâm lược. Tháng 5-1853, một hạm đội Mĩ đã bắn phá uy hiếp vùng biển Nhật bản, đòi mở cửa cho người Mĩ ra vào tự do. Sau đó, các nước Anh, Pháp, Nga, Hà Lan cũng nhòm ngó, can thiệp.

2. Em hãy nêu vài nét về Thiên hoàng Minh Trị?

Trả lời

-Thiên hoàngMinh Trị [Mây-gi-i, 1852-1912] là hiệu của hoàng đế Nhật Bản Mut-xô-hi-tô.

- Năm 1865,Mut-xô-hi-tô lên ngôi khi mới 15 tuổi. Tất cả mọi quyền hành trong nước đều năm trong tay Mạc phủ dòng họ Tô-cư-goa-oa.

- Sau khi lật đổ chế độ Mạc phủ, Thiên hoàngMut-xô-hi-tô đã thực hiện một loạt cải cách tiến bộ đưa Nhật Bản thoát khỏi tình trạng phong kiến lạc hậu. Đó là cuộc Duy tân Minh Trị, biến Nhật bản từ nước phong kiến thành một nước tư bản chủ nghĩa, thoát khỏi sự nô dịch của nước ngoài.

3. Trình bày nội dung và kết quả của cuộc Duy tân Minh Trị.

Trả lời

Tháng 1-1868, sau khi lên ngôi, Thiên hoàng Minh Trị thực hiện một loạt cải cách nhằm đưa Nhật Bản thoát khỏi tình trạng phong kiến lạc hậu. Cuộc Duy tân Minh Trị được tiến hàng trên tất cả các lĩnh vực đời sống, xã hội, kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa, giáo dục, quân sự.

* Về kinh tế:

- Thống nhất tiền tệ.

- Xóa bỏ độc quyền ruộng đất của giai cấp phong kiến.

- Tăng cường phát triển kinh tế tư bản chủ nghĩa ở nông thôn.

Xem thêm: Thực Trạng Các Thiết Chế Văn Hóa Là Gì, Thực Trạng Các Thiết Chế Văn Hóa Cơ Sở

- Xây dựng cơ sở hạ tầng, đường sá, cầu cống...phục vụ giao thông liên lạc.

* Về chính trị:

- Bãi bỏ chế độ nông nô.

- Đưa quý tộc tư sản hóa và đại tư sản lên nắm chính quyền.

- Ban hành Hiến pháp 1889, thiết lập chế độ quân chủ lập hiế

* Về giáo dục:

- Thi hành chính sách giáo dục bắt buộc, chú trọng nội dung khoa học - kĩ thuật trong chương trình giảng dạy.

- Cử những học sinh ưu tú đi du học ở phương Tây.

* Về quân sự

- Quân đội được tổ chức và huấn luyện theo kiểu phương Tây.

- Chế độ nghĩa vụ thay thế cho chế độ chưng binh.

- Công nghiệp đóng tàu, sản xuất vũ khí được chú trọng.

* Kết quả :

Cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, Nhật Bản trở thành một nước tư bản công nghiệp:

- Giúp nước Nhật giữ vững được độc lập chủ quyền trước sự xâm lược của đế quốc phương Tây, thoát khỏi nguy cơ trở thành một nước thuộc địa.

- Đưa Nhật Bản trở thành một nước đế quốc hùng mạnh duy nhất ở châu Á.

4. Quan sát hình 48 [SGK trang 67], em hãy cho biết ngành đóng tàu biển ở Nhật Bản như thế nào ? Vì sao ngành đóng tàu biểu lại phát triển mạnh ở Nhật Bản?

Trả lời

- Ngành đóng tàu biển ở Nhật Bản rất phát triển bì sớm nước Nhật sớm phát triển giao thông và hệ thống thông tin liên lạc, đặc biệt do sản phẩm công - nông nghiệp đều tăng nên thương nghiệp khá phát đạt.

- Nhật Bản phải xây dựng được một đội tàu buôn hiện đại có thể đi biển xa thay cho những tàu buồm trước đây, do có ngành đóng tàu phát triển.

5. Căn cứ vào đâu để khẳng định cuộc Duy tân Minh Trị là một cuộc cách mạng tư sản?

Trả lời .

- Đầu năm 1868, chế độ phong kiến Nhật Bản đã chấm dứt, chính quyền phong kiến của Sô-gun đã chuyển sang tay quý tộc tư sản hóa đứng đầu là Thiên hoàng Minh Trị.

- Những cải cách "Âu hóa" về hành chính, kinh tế, tài chính, văn hóa, giáo dục mang tính chất tư sản rõ rệt : thống nhất thị trường dân tộc, thống nhất tiền tệ, xóa bỏ quyền sở hữu ruộng đất phong kiến, xây dựng quân đội thường trực theo nghĩa vụ quân sự.

- Cuộc Duy tân Minh Trị là cuộc cách mạng tư sản không triệt để vì còn tàn dư của chế độ phong kiến.

6. Đặc điểm của cuộc Duy tân Minh Trị là gì?

Trả lời

Đặc điểm của cuộc Duy tân Minh Trị là một cuộc cách mạng tư sản, do liên minh quý tộc tư sản tiến hàng "từ trên xuống" dưới mang hình thức là một cuộc cải cách.

7. Vì sao kinh tế Nhật Bản từ cuối thế kỉ XIX phát triển mạnh?

Trả lời

Sau cuộc chiến tranh Trung - Nhật [1894-1895], nhờ số tiền bồi thường và của cải cướp được ở Triều Tiên và Trung Quốc, kinh tế Nhật Bản càng phát triển mạnh.

8. Những sự kiện nào chứng tỏ vào cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, Nhật Bản chuyển sang chủ nghĩa đế quốc?

Trả lời

Những sự kiện nào chứng tỏ vào cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, Nhật Bản chuyển sang chủ nghĩa đế quốc:

- Từ năm 1900 đến năm 1914, tỉ lệ công nghiệp trong nền kinh tế quốc dân đă tăng từ 19% lên 42%.

- Việc đẩy mạnh công nghiệp hóa kéo theo sự tập trung trong công nghiệp, thương nghiệp và ngân hàng.

- Nhiều công ty độc quyền xuất hiện như : Mit-xưi và Mít-su-bi-si giữ vai trò to lớn, bao trùm lên đời sống kinh tế, chính trị của nước Nhật.

- Bước sang thế kỉ XX, giới cầm quyền Nhật Bản đã đẩy mạnh chính sách xâm lược và bành trướng. Chiến tranh Nga - Nhật [1904-1905] kết thúc với sự thất bại của đế quốc Nga. Năm 1914, Nhật Bản đã dùng vũ lực để mở rộng khu vực ảnh hưởng ở Trung Quốc và chiếm Sơn Đông. Thuộc địa của đế quốc Nhật mở rộng rất nhiều.

9. Vì sao Nhật thoát khỏi số phận một nước thuộc địa và trở thành đế quốc?

Trả lời

- Đến giữa thế kỉ XIX, trước nguy cơ xâm lược của thực dân phương Tây, Nhật Bản đã có những chính sách phù hợp với tình hình đất nước.

- Trong khi ở phần lớn các nước châu Á, chế độ phong kiến thi hành chính sách "đóng cửa", duy trì đường lối cai trị cũ, làm cho tiềm lực đất nước ngày càng suy yếu để rồi lần lượt bị biến thành thuộc địa thì trái lại ở Nhật Bản, bằng cuộc Duy tân Minh Trị, Nhật Bản đã tiến hành "mở cửa", phát triển kinh tế tư bản chủ nghĩa, hiện đại hóa đất nước, tiến hành xâm lược các thuộc địa, đưa đất nước Nhật Bản tiến lên con đường đế quốc chủ nghĩa. Nhờ đó, Nhật thoát khỏi số phận nước thuộc địa và trở thành nước đế quốc chủ nghĩa.

Video liên quan

Chủ Đề