Tại sao truyền dịch lại làm tăng huyết áp

Chi tiết Thường thức Được viết: 11 Tháng 4 2019 Lượt xem: 19629

Hình minh họa.

Vụ việc một phụ nữ tử vong sau khi truyền dịch tại một phòng khám tư ở quận Thanh Xuân [Hà Nội], một lần nữa cho thấy sự cẩn thiết phải cẩn trọng khi truyền dịch.

Thực tế có không ít trước hợp cứ ốm, mệt là nhờ cán bộ y tế đến nhà truyền dịch để mau khỏe. Không chỉ những trường hợp mệt mỏi, nhiều người không đau ốm cũng truyền dịch, nước hoa quả để đẹp da, tăng cường sức khỏe. Việc lạm dụng dịch truyền xuất phát từ phía người bệnh. Khi vào viện thấy bệnh nhân bên cạnh truyền dịch cũng muốn truyền vì họ quan niệm truyền dịch sẽ hết mệt, dịch truyền không hại cho sức khỏe, ai cũng có thể truyền được.

Theo PGS.TS Nguyễn Tiến Dũng, nguyên Trưởng Khoa Nhi - Bệnh viện Bạch Mai, mục đích của truyền dịch là để nuôi dưỡng bệnh nhân, bù đủ lượng dịch mà cơ thể bị mất để đảm bảo thể tích tuần hoàn duy trì huyết áp và lượng nước trong các mô của cơ thể. Về nguyên tắc truyền dịch tốt cho sức khỏe nhưng không phải lúc nào cũng có thể truyền và đặc biệt là không được lạm dụng.

Truyền dịch cũng có quy định chặt chẽ. Nó phụ thuộc rất nhiều yếu tố như thể bệnh, dịch được truyền, liều lượng, tốc độ… Với người bị mất nước, cần bù lượng dịch đã mất do mắc một số bệnh như: tiêu chảy, bị bỏng nặng, sốt cao, ăn uống kém, suy kiệt, bệnh nhân sau phẫu thuật tiêu hóa và một số trường hợp đặc biệt... cần được truyền dịch nhưng phải theo chỉ định của bác sĩ. Khi bác sĩ quyết định việc tiêm, truyền cho bệnh nhân sẽ phải xác định được biểu hiện mệt, sốt là do bệnh gì, bệnh đó có cần phải truyền dịch không? Trường hợp bắt buộc phải truyền, bác sĩ sẽ tính toán kỹ lượng truyền chứ không thể truyền bừa bãi. Việc tự ý truyền dịch sẽ vô cùng nguy hại đến sức khỏe.

ThS.BS Đỗ Thiện Hải, Phó trưởng khoa Truyền nhiễm, Bệnh viện Nhi Trung ương, tùy từng nhóm dịch truyền sẽ phù hợp với từng đối tượng khác nhau. Nhóm cung cấp chất dinh dưỡng bao gồm dung dịch glucose các loại 5%, 10%, 20%, 30% và các dung dịch chứa chất đạm, chất béo và vitamin chỉ nên truyền cho những đối tượng phẫu thuật, suy dinh dưỡng, không ăn được bằng đường miệng, không tiêu hóa được thức ăn… Nhóm cung cấp nước, các chất điện giải như dung dịch lactate ringer, natri clorua 0,9%, bicarbonate natri 1,4%... dùng trong trường hợp mất nước, mất máu khi bị tiêu chảy, bỏng, ói mửa, ngộ độc. Nhóm đặc biệt như dung dịch chứa albumin, dung dịch dextran, haes-steril, gelofusin hay dung dịch cao phân tử... chỉ dùng trong các trường hợp cần bù nhanh chất albumin hoặc lượng dịch tuần hoàn trong cơ thể.

Kỹ thuật truyền dịch khá đơn giản nhưng nếu thực hiện không đúng thì dễ xảy ra những tai biến sốc phản vệ do tốc độ truyền quá nhanh, cơ địa bệnh nhân dị ứng với thành phần trong dịch truyền. Khi truyền dịch, với bất cứ dịch truyền nào, đều có thể có các tai biến xảy ra. Trước hết là nguy cơ nhiễm trùng, xuất phát từ nơi đưa thuốc vào cơ thể. Các bệnh nhiễm như HIV/AIDS, viêm gan siêu vi B, C... đều có thể lây nhiễm qua con đường tiêm chích, đặc biệt qua truyền dịch, nếu việc truyền dịch bừa bãi không đúng quy cách, không được vô trùng.

Do truyền dịch đưa vào cơ thể một số lượng nước lớn, các chất điện giải, các chất dinh dưỡng nên có thể gây rối loạn về chuyển hóa, gây các hiện tượng phù ở tim, thận... Việc bổ sung không đúng các chất dễ gây nguy hiểm đến tính mạng như bệnh nhân mất điện giải mà truyền đường sẽ làm bệnh nặng hơn, thiếu natri mà truyền đường sẽ làm máu loãng gây phù não; thừa natri mà truyền muối quá nhiều làm teo não... Đặc biệt, dịch truyền có thể gây phản ứng toàn thân khi cơ thể không "chịu" như hiện tượng sốt run hoặc gây sốc dịch truyền rất nguy hiểm.

Vì vậy, trước khi truyền cần phải khám tim, phổi, đo mạch… xem tim có khỏe. Khám tim không chỉ khám lâm sàng mà nhiều trường hợp phải xét nghiệm, làm điện tâm đồ mới phát hiện ra bệnh. Khi truyền dịch cần phải khống chế được tổng lượng dịch truyền vào phù hợp với tình trạng bệnh của bệnh nhân. Nếu truyền nhiều hơn tình trạng bệnh sẽ gây phù phổi, suy tim. Nếu lạm dụng truyền sẽ khiến tim quá tải, không chịu được dịch truyền, gây ra các tai biến. Những người già, thận yếu, việc truyền dịch còn có thể khiến phù não, tai biến trên não.

Do đó, khi thầy thuốc chỉ định cho dùng dịch truyền là đã có sự cân nhắc rất kỹ, thấy đó là việc rất cần thiết và khi truyền dịch, thầy thuốc phải theo dõi chặt chẽ để nếu có tai biến xảy ra sẽ có biện pháp xử lý kịp thời.

ThS.BS Đỗ Thiện Hải khuyến cáo: chỉ nên truyền dịch khi sốt quá cao, nôn quá nhiều gây mất nước, đi ngoài mất nước như những bệnh nhân bị tiêu chảy, tụt huyết áp…; người bệnh không thể ăn, uống được. Những bệnh nhẹ thì không nên truyền dịch. Nếu cơ thể mất nước mà vẫn ăn uống được thì truyền dịch không tốt hơn là mấy so với việc bù nước qua đường uống. Mọi người có thể bù nước bằng cách thông thường như với tỷ lệ 5g đường/100ml dung dịch thì việc truyền cho trẻ một chai Gglucose 5% chỉ tương đương với việc cho trẻ uống gần một thìa cà phê đường. Hay truyền một chai dung dịch muối 9% chỉ như uống một bát canh nhạt.

Dịch truyền cũng được coi là một loại thuốc, vì vậy liều dùng phải do bác sĩ chỉ định và cần theo dõi liên tục đề phòng các tai biến xảy ra. Một số trường hợp chống chỉ định như: suy thận cấp, suy thận mãn, suy gan, viêm gan nặng, chấn thương sọ cấp... Khi được chỉ định truyền, cũng cần kiểm tra kỹ đề phòng rủi ro do chất lượng dịch truyền: chỉ dùng những chai thuốc trong suốt [lắc chai thuốc kiểm tra xem có vẩn hay không]. Chỉ được truyền chai thuốc còn hạn dùng, thuốc đã mở nắp phải dùng ngay.

Để bảo đảm tính mạng người bệnh, nhất thiết truyền đạm phải có chỉ định của bác sĩ, truyền tại cơ sở y tế, phải có thuốc cấp cứu chống choáng, chống sốc, phải có người theo dõi kèm theo phiếu tiêm truyền để khi có tai biến xử lý được kịp thời.

Nguồn: //vtv.vn

Tăng huyết áp cấp cứu có khả năng đe dọa trực tiếp đến tính mạng người bệnh nếu không được can thiệp y tế kịp thời.

Tăng huyết áp cấp cứu hay tăng huyết áp ác tính là tình trạng cao huyết áp gây tổn thương một hoặc nhiều cơ quan cụ thể. Các bộ phận liên quan chủ yếu bao gồm hệ thần kinh trung ương, hệ tim mạch và cơ quan bài tiết.

Tiếp cận tăng huyết áp cấp cứu

Để điều trị tăng huyết áp cấp cứu, trước tiên người bệnh thường được đưa vào đơn vị chăm sóc đặc biệt để theo dõi tim liên tục, đánh giá thường xuyên tình trạng thần kinh và lượng nước tiểu, đồng thời cho sử dụng thuốc điều trị tăng huyết áp và truyền dịch. Huyết áp có thể tự động thay đổi, nhưng đôi khi nó sẽ giảm quá mức gây nên tình trạng không đủ máu lưu thông tới các cơ quan.

Liệu pháp dược lý [sử dụng thuốc điều trị tăng huyết áp cấp cứu]

Mục tiêu ban đầu của trị liệu là hạ chỉ số huyết áp xuống khoảng 25% trong 24–48 giờ đầu tiên.

Các nhóm thuốc điều trị tăng huyết áp cấp cứu thường không được ưu tiên lựa chọn bằng việc so sánh hiệu quả của nhau. Thuốc được lựa chọn trên cơ chế hoạt động, tác dụng nhanh hay chậm, dễ sử dụng hay không và tùy vào một số tình huống đặc biệt.

Thuốc tiêm tĩnh mạch thường được sử dụng nhất là nitroprusside. Tuy nhiên, người mắc bệnh suy thận nên dùng thuốc fenoldopam để thay thế hoặc labetalol dùng đường uống/tiêm trực tiếp vào tĩnh mạch.

Tuy nhiên, một thử nghiệm lâm sàng đã chứng minh rằng thuốc chẹn canxi tiêm tĩnh mạch [ví dụ như nicardipine] có thể hữu ích trong việc giảm huyết áp nhanh chóng và an toàn. Đồng thời, thuốc này có khả năng hiệu quả hơn labetalol tiêm tĩnh mạch.

Thuốc chẹn thụ thể beta có thể được tiêm tĩnh mạch với esmolol hoặc metoprolol. Một lựa chọn khác bao gồm diltiazem, verapamil và enalapril. Hydralazine dành riêng cho phụ nữ mang thai, trong khi phentolamine là thuốc dùng khi người bệnh gặp tình trạng khủng hoảng tăng huyết áp [pheochromocytoma].

Chẩn đoán sớm tình trạng bệnh là điều cần thiết để tìm ra phương pháp điều trị thích hợp. Tuy nhiên, giảm huyết áp quá nhanh có thể gây hại cho bệnh nhân. Ví dụ như, chỉ số huyết áp hạ quá mức có thể dẫn đến tình trạng máu không đủ lưu thông đến các cơ quan và tổn thương từ một bộ phận cụ thể sẽ không được xem xét kỹ lưỡng. Bạn cần hết sức thận trọng khi sử dụng enalapril để điều trị tăng huyết áp vì nó có nguy cơ hạ chỉ số huyết áp một cách mất kiểm soát.

Mặt khác, tất cả người bệnh nên được đánh giá cẩn thận về nguyên nhân tăng huyết áp thứ phát. Bên cạnh đó, khi xuất viện, người bệnh cũng cần được chăm sóc, theo dõi chặt chẽ. Họ nên nắm rõ các dấu hiệu và triệu chứng tái phát hoặc biến chứng để có thể được can thiệp y tế kịp thời.

Chế độ ăn uống dành cho người bị tăng huyết áp cấp cứu

Thời gian đầu, người bệnh có thể phải áp dụng chế độ ăn uống khắt khe cho đến khi huyết áp ổn định lại. Sau đó, họ sẽ được hướng dẫn tuân theo thực đơn cho người cao huyết áp, bao gồm chế độ ăn ít muối. Ngoài ra, bác sĩ cũng có thể yêu cầu người bệnh thực hiện chế độ ăn kiêng để giảm cân.

Người bệnh cần chú ý những gì trong sinh hoạt?

Người bệnh có thể phải nằm trên giường và hạn chế vận động cho đến khi tình trạng ổn định. Sau khi huyết áp đã được kiểm soát tốt, người bệnh có thể trở lại với những hoạt động bình thường mỗi ngày.

Cách tốt nhất để ngăn ngừa các đợt tăng huyết áp cấp cứu là đảm bảo người bệnh được theo dõi chặt chẽ. Thông thường, điều này do bác sĩ đa khoa thực hiện. Tuy nhiên, một số chuyên gia cho rằng bạn nên tìm đến bác sĩ chuyên khoa huyết áp để được xem xét về nhu cầu điều trị bằng thuốc phức tạp cũng như tiến hành thêm một hoặc nhiều biện pháp trị liệu khác trong trường hợp đặc biệt.

Tham vấn cùng bác sĩ

Những người bị đột quỵ, mắc bệnh tim mạch hoặc suy thận cần được tư vấn thích hợp để điều trị tăng huyết áp. Hãy tìm đến các chuyên viên tư vấn về cao huyết áp để nhận được hỗ trợ phù hợp với thể trạng của bạn.

Các bài viết của Hello Bacsi chỉ có tính chất tham khảo, không thay thế cho việc chẩn đoán hoặc điều trị y khoa.

Video liên quan

Chủ Đề