Theo ước tính mỗi ngày có một lượng máu ứng với bao nhiêu ml được thay thế

Trong một số bệnh thuộc lĩnh vực nội khoa, ngoại khoa, sản khoa...; tình huống mất máu có thể xảy ra với các mức độ khác nhau. Tùy theo bệnh cảnh lâm sàng và mức độ mất máu để xử trí truyền máu hay các chế phẩm của máu cấp cứu một cách phù hợp nhằm giúp bệnh nhân hoặc nạn nhân thoát khỏi tình trạng nguy kịch và được cứu sống.

Các mức độ mất máu
Theo tiêu chuẩn quốc tế, ước tính thể tích máu ở người lớn khoảng 70 ml/kg cân nặng và ở trẻ em khoảng 75 ml/kg cân nặng. Theo các văn bản hướng dẫn sử dụng máu và các chế phẩm từ máu của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) cũng như các Hội Truyền máu tại Anh, Mỹ...; trong các trường hợp mất máu cấp tính, việc cấp cứu hồi phục thể tích tuần hoàn máu quan trọng hơn và ưu tiên hơn hồi phục tình trạng giảm oxygen do thiếu máu. Điều trị hồi phục thể tích tuần hoàn máu có thể hạn chế việc chỉ định truyền máu, nhất là khi tình trạng chảy máu đã được giải quyết. Tùy theo các mức độ mất máu để có chỉ định xử trí phù hợp.
Mất máu ở mức độ vừa khi thể tích máu toàn thể dưới 15%.
Mất máu ở mức độ nặng khi thể tích máu toàn thể từ 15 đến 30%.
Mất máu ở mức độ quá cấp tính và trầm trọng khi thể tích máu toàn thể trên 30%, tương ứng với tình trạng mất trên 1.000 ml máu ở người có trọng lượng khoảng 50 kg và có thể đe dọa đến tính mạng.
Nguyên tắc chỉ định truyền máu
Xác định mục đích của việc truyền máu là để tăng khả năng vận chuyển oxygen trong các trường hợp truyền hồng cầu, tăng khả năng cầm máu và đông máu trong các trường hợp truyền huyết tương và tiểu cầu, tăng khả năng đề kháng chống nhiễm khuẩn trong các trường hợp truyền bạch cầu, gamma globulin...
Việc chỉ định truyền máu phải đúng và hợp lý, trước mỗi trường hợp khi có quyết định truyền máu và các chế phẩm từ máu cần phải cân nhắc kỹ càng cái lợi và cái hại. Các bác sĩ lâm sàng nên xem xét hết các phương pháp điều trị khác trước khi có quyết định truyền máu cho bệnh nhân hoặc nạn nhân. Phải bảo đảm nguyên tắc là chỉ thực hiện việc truyền máu khi thật cần thiết, thiếu cái gì truyền cái nấy, chỉ truyền cái bị thiếu mà thôi và nên hạn chế tối đa truyền máu toàn phần.
Máu và các chế phẩm từ máu có: máu toàn phần gồm máu tươi toàn phần và máu toàn phần lưu trữ; khối hồng cầu, khối hồng cầu rửa với hồng cầu đã loại bỏ huyết tương, khối hồng cầu đã loại bỏ bạch cầu; khối tiểu cầu; huyết tương tươi đông lạnh, tủa lạnh.
Xử trí truyền máu theo các mức độ mất máu
Nếu bị mất máu ở mức độ vừa, có thể truyền các dung dịch nước muối sinh lý hoặc các dung dịch keo để bù đắp thể tích tuần hoàn, chưa cần truyền máu toàn phần nếu như bệnh nhân hoặc nạn nhân là người còn trẻ, không có tiền sử thiếu máu, các bệnh về đường hô háp hay tim mạch.
Nếu bị mất máu ở mức độ nặng, ưu tiên truyền các dung dịch có trọng lượng phân tử cao trước. Nếu tiếp tục bị mất máu hoặc có biểu hiện các triệu chứng thiếu máu nặng hơn thì cần phải truyền máu toàn phần.
Nếu bị mất máu quá cấp tính và trầm trọng có thể đe dọa đến tính mạng, cần truyền cấp cứu máu toàn phần đồng nhóm kết hợp với truyền các dung dịch có trọng lượng phân tử cao.
Chỉ định sử dụng máu và các chế phẩm phẩm từ máu
-Máu toàn phần gồm máu tươi toàn phần và máu toàn phần lưu trữ
Máu tươi toàn phần được sử dụng như một nguồn vật liệu chính để sản xuất các chế phẩm máu. Việc chỉ định truyền máu tươi toàn phần hầu như không còn được thực hiện ở các nước tiên tiến. Tuy nhiên ở những nơi không có sẵn các chế phẩm máu thích hợp thỉ việc sử dụng máu tươi vẫn được chỉ định để điều trị các trường hợp bệnh lý như thiếu hụt các yếu tố đông máu huyết tương hoặc giảm tiểu cầu. Ngoài ra máu tươi toàn phần còn được chỉ định trong các trường hợp truyền thay máu và mất máu với khối lượng lớn.
Máu toàn phần lưu trữ chủ yếu chứa hồng cầu và huyết tương với chức năng vận chuyển oxygen và tăng thể tích tuần hoàn. Chỉ định sử dụng truyền máu toàn phần chỉ còn giới hạn trong những trường hợp cấp cứu hoặc ở những nơi không có đủ điều kiện để sản xuất đủ các thành phần của máu.
Chỉ định hợp lý truyền máu toàn phần là để phục hồi thể tích máu sau một tình trạng xuất huyết cấp tính như trong các trường hợp chảy máu đường tiêu hóa, chấn thương, những phẫu thuật lớn của ngoại khoa và sản khoa.
Cần lưu ý rằng ngay trong vài giờ đầu sau khi bị mất máu nặng, cả hồng cầu cũng như huyết tương đều bị mất. Vì vậy các xét nghiệm như định lượng hemoglobin hoặc hematocrite được thực hiện trong thời điểm này không thể đánh giá chính xác mức độ thiếu máu nặng hay nhẹ để quyết định truyền máu cũng như số lượng máu cần truyền vì chúng chỉ cho biết tỷ lệ giữa thể tích hồng cầu và thể tích máu. Ở trong giai đoạn này các triệu chứng lâm sàng như tụt huyết áp tư thế, ngất xỉu, nhịp tim nhanh, thở khó, có cảm giác khát nước là những dấu hiệu chỉ dẫn cho biết mất khối lượng máu lớn như với trên 1.500 ml máu ở người lớn; trường hợp này đòi hỏi phải truyền máu cấp cứu để bảo đảm huyết động cũng như khả năng vận chuyển oxygen. Trong trường hợp quá khẩn cấp có thể truyền ngay nhóm máu O mà không cần thử nghiệm phù hợp trước. Các trường hợp bị mất máu không quá nặng có thể truyền huyết tương hoặc dung dịch nước muối sinh lý trước, trong khi chờ đợi các xét nghiệm định nhóm máu phù hợp.
-Khối hồng cầu
Khối hồng cầu được chỉ định sử dụng với mục đích làm tăng khả năng vận chuyển oxygen của máu nhờ tăng lượng hemoglobin trong máu. Mỗi đơn vị khối hồng cầu chuẩn sẽ làm tăng lượng hemoglobin lên khoảng 10 g/l ở người lớn. Mặc dù phần lớn các nghiên cứu về truyền khối hồng cầu đều căn cứ chỉ số hemoglobin như một tiêu chuẩn để chỉ định truyền khối hồng cầu. Tuy nhiên, quyết định truyền khối hồng cầu còn phụ thuộc vào các yếu tố khác như nguyên nhân của thiếu máu, tình trạng thiếu máu cấp tính hoặc mãn tính, các biểu hiện lâm sàng của thiếu oxygen cũng như khả năng bù trừ của bệnh nhân đối với sự thiếu máu.
Chỉ định truyền khối hồng cầu được thực hiện trong các bệnh thiếu máu mãn tính có nguy cơ quá tải tuần hoàn, cần nhiều hemoglobin để vận chuyển oxygen nhưng không muốn tăng thể tích tuần hoàn như ở người già, trẻ con, người có bệnh tim, bệnh thận; các trường hợp thiếu máu mãn tính mà không thể điều trị bằng các chất tạo máu như chất sắt, vitamin B12, acid folic hoặc erythroprotein tái tổ hợp; các trường hợp chảy máu nặng do chấn thương, phẫu thuật, xuất huyết tiêu hóa làm mất khoảng từ 15 đến 25% thể tích máu lưu thông, nếu mất nhiều hơn cần truyền máu toàn phần.
-Khối hồng cầu rửa
Khối hồng cầu rửa là khối hồng cầu đã được rửa nhiều lần bằng dung dịch nước muối đẳng trương nhằm loại bỏ hầu hết huyết tương và sau đó bổ sung bằng dung dịch nước muối sinh lý để tạo nên một dung dịch treo hồng cầu. Phương pháp này cho phép loại bỏ 85% bạch cầu và 99% huyết tương; tồn trữ ở nhiệt độ từ 2 đến 6oC và dùng trong 24 giờ.
Khối hồng cầu rửa được chỉ định sử dụng để phòng ngừa phản ứng dị ứng ở các bệnh nhân có tiền sử dị ứng với các thành phần của huyết tương; các trường hợp thiếu máu tan máu miễn dịch có hoạt hóa bổ thể như thiếu máu huyết tán kháng thể lạnh IgM, bệnh tiểu hemoglobin kịch phát ban đêm; các bệnh nhân thiếu hụt bẩm sinh IgA để phòng ngừa sốc phản vệ khi truyền máu có chứa IgA nếu bệnh nhân đã có kháng thể IgA hoặc tránh mẫn cảm hóa nếu kháng thể này chưa xuất hiện. Ngoài ra còn được sử dụng ở các bệnh nhân có tiền sử ban xuất huyết sau truyền máu.
-Khối hồng cầu loại bỏ bạch cầu
Khối hồng cầu loại bỏ bạch cầu là khối hồng cầu đã loại bỏ đi bạch cầu. Mức loại bỏ tùy thuộc kỹ thuật sử dụng. Có thể loại bỏ bằng phương pháp loại lớp đệm nhưng phương pháp này ít hiệu quả, chỉ tạo được khối hồng cầu nghèo bạch cầu. Tốt nhất là lọc bằng bộ lọc bạch cầu. Với bộ lọc bạch cầu có thể loại bỏ 99% bạch cầu.
Khối hồng cầu loại bỏ bạch cầu được chỉ định sử dụng để phòng ngừa các phản ứng sốt run lạnh liên quan đến kháng nguyên hệ HLA (Human Lymphocyte Antigen) ở các bệnh nhân có biểu hiện này trong tiền sử và các bệnh nhân sẽ phải truyền máu nhiều lần; phòng ngừa các bệnh truyền qua bạch cầu như nhiễm CMV (Cytomegalovirus); các trường hợp truyền tiểu cầu không có hiệu quả; phòng ngừa nguy cơ gây miễn dịch hệ HLA có thể gây ra các phản ứng thải mãnh ghép ở các bệnh nhân cần ghép tạng sau này.
-Khối tiểu cầu  
Khối tiểu cầu được chỉ định sử dụng truyền cho các bệnh nhân hoặc nạn nhân bị giảm tiểu cầu về cả số lượng hoặc chất lượng.
Về nội khoa, truyền tiểu cầu để dự phòng, ngăn ngừa xuất huyết ở các bệnh nhân giảm tiểu cầu nhưng chưa có triệu chứng nhằm giữ số tiểu cầu ở mức tương đối an toàn tùy theo cơ địa và tình huống lâm sàng ở các bệnh nhân có giảm tiểu cầu nhưng lâm sàng ổn định, không có các yếu tố nguy cơ xuất huyết; ở các bệnh nhân có các yếu tố nguy cơ xuất huyết như sốt, nhiễm trùng tăng huyết áp, u não hoặc bị tụt tiểu cầu nhanh trong vòng 72 giờ; ở các bệnh nhân chuẩn bị thực hiện các thủ thuật xâm nhập như chọc sinh thiết gan, chọc dò tủy sống, soi phế quản sinh thiết, đặt catheter... hoặc đang điều trị kháng đông máu, có đông máu rải rác nội mạch. Ngoài ra, truyền tiểu cầu để điều trị ở các bệnh nhân có các biểu hiện xuất huyết như ban xuất huyết có chấm và mãng nhiều nơi, tụ máu lớn gây đau và chèn ép, xuất huyết võng mạc lúc soi đáy mắt, bọng u ở vòm miệng, hemoglobin tụt nhanh, rối loạn ý thức, rối loạn thi giác...
Về ngoại khoa, tùy theo tình huống lâm sàng và bệnh lý để quyết định truyền khối tiểu cầu. Nếu có yếu tố nguy cơ xuất huyết thì phải truyền tiểu cầu, đặc biệt đối với các phẫu thuật ở thần kinh và phẫu thuật ở phần sau của mắt; các trường hợp gây tê tủy sống...
Về sản khoa, khối tiểu cầu cũng được chỉ định sử dụng trong một số trường hợp mổ lấy thai hoặc sinh thường.
-Huyết tương tươi đông lạnh
Huyết tương tươi đông lạnh được tách từ máu tươi toàn phần trong vòng 6 đến 8 giờ sau khi lấy máu và được làm đông lạnh ngay ở nhiệt độ âm 20oC, có thể bảo quản đến 1 năm. Mỗi đơn vị huyết tương tươi đông lạnh có thể tích từ 200 đến 250 ml. Sản phẩm này chứa albumin, immunoglobin và các yếu tố đông máu. Huyết tương tươi đông lạnh phải được truyền ngay trước 2 giờ sau khi giải đông để bảo đảm chất lượng các yếu tố đông máu cũng như tránh nhiễm trùng. Truyền huyết tương tươi đông lạnh cũng cần phù hợp với nhóm máu của bệnh nhân.
Huyết tương tươi đông lạnh được chỉ định sử dụng trong các trường hợp: bệnh lý đông máu gây cạn kiệt các yếu tố đông máu, xuất huyết cấp tính và nặng đưa đến giảm toàn bộ các yếu tố đông máu; thiếu hụt các yếu tố đông máu hiếm trong lúc các thành phần này không có sẵn, ban xuất huyết giảm tiểu cầu huyết khối, hội chứng huyết tán và tăng urê máu; suy gan gây xuất huyết; các trường hợp điều trị chống đông máu nhóm kháng vitamin K xuất hiện biến chứng chảy máu; xuất huyết do thiếu vitamin K ở trẻ sơ sinh trong lúc chờ đợi tác dụng điều trị của vitamin K; truyền máu với khối lượng lớn trên 10 đơn vị trong 24 giờ, trong thực tế chỉ định truyền huyết tương tươi đông lạnh khi có kết hợp biểu hiện xuất huyết hoặc lúc cần thực hiện một thủ thuật có nguy cơ xuất huyết đồng thời có một bất thường rõ về cầm máu và đông máu.
Không chỉ định truyền huyết tương tươi đông lạnh trong các trường hợp rối loạn đông máu có thể điều trị bằng các phương tiện điều trị đặc hiệu có sẵn như tủa lạnh, vitamin K hoặc để bù đắp thể tích tuần hoàn khi dung dịch keo có sẵn.
-Tủa lạnh
Tủa lạnh được điều chế từ huyết tương tươi đông lạnh bằng cách làm tan đông ở nhiệt độ 40oC, lấy lại phần tủa, sau đó được huyền dịch lại trong từ 10 đến 15 ml huyết tương. Tủa lạnh được chỉ định sử dụng đối với bệnh Hemophilia, Willebrand, các trường hợp thiếu hụt fibrinogen bẩm sinh và mắc phải như tiêu sợi huyết nguyên phát hoặc đông máu rải rác trong lòng mạch; bệnh thiếu yếu tố XIII của máu.

TTƯT.BS. Nguyễn Võ Hinh
(www.impe-qn.org.vn)