Thủ đô hà nội có bao nhiêu tên gọi

HÀ NỘI ĐÃ CÓ BAO NHIÊU TÊN GỌI? HÀ NỘI ĐÃ CÓ BAO NHIÊU TÊN GỌI?Thǎng Long - Hà Nội là kinh đô lâu đời nhất trong lịch sử Việt Nam. Mảnh đất địa linh nhân kiệt này từ trước khi trở thành kinh đô của nước Đại Việt dưới triều Lý [1010] đã là đất đặt cơ sở trấn trị của quan lại thời kỳ nhà Tùy [581-618], Đường [618-907] của phong kiến phương Bắc. Từ khi hình thành cho đến nay, Thǎng Long - Hà Nội có nhiều tên gọi. Chúng tôi xin chia các tên gọi ấy thành hai loại: Chính quy và không chính quy theo thứ tự thời gian như sau:I. Tên chính quy:Là những tên được chép trong sử sách do các triều đại phong kiến, Nhà nước Việt Nam chính thức đặt ra:Phố cổ ven đô1. Long Đỗ: Truyền thuyết kể rằng lúc Cao Biền nhà Đường, vào nǎm 866 mới đắp thành Đại La, thấy thần nhân hiện lên tự xưng là thần Long Đỗ. Do đó trong sử sách thường gọi Thǎng Long là đất Long Đỗ. Thí dụ vào nǎm Quang Thái thứ 10 [1397] đời Trần Thuận Tông, Hồ Quý Ly có ý định cướp ngôi nhà Trần nên muốn dời kinh đô về đất An Tôn, phủ Thanh Hóa. Khu mật chủ sự Nguyễn Nhữ Thuyết dâng thư can, đại ý nói: "Ngày xưa, nhà Chu, nhà Ngụy dời Kinh đô đều gặp điều chẳng lành. Nay đất Long Đỗ có núi Tản Viên, có sông Lô Nhị [tức sông Hồng ngày nay], núi cao sông sâu, đất bằng phẳng rộng rãi". Điều đó cho thấy Long Đỗ đã từng là tên gọi đất Hà Nội thời cổ.2. Tống Bình: Tống Bình là tên trị sở của bọn đô hộ phương Bắc thời Tùy [581-618], Đường [618-907]. Trước đây, trị sở của chúng là ở vùng Long Biên [Bắc Ninh ngày nay]. Tới đời Tùy, chúng mới chuyển đến Tống Bình.3. Đại La: Đại La hay Đại La thành nguyên là tên vòng thành ngoài cùng bao bọc lấy kinh đô. Theo kiến trúc xưa, kinh đô thường có "Tam trùng thành quách": Trong cùng là Tử cấm thành [tức bức thành mầu đỏ tía] nơi vua và hoàng tộc ở, giữa là Kinh thành và ngoài cùng là Đại La thành. Nǎm 866, Cao Biền bồi đắp thêm Đại La thành rộng hơn và vững chãi hơn trước. Từ đó, thành này được gọi là thành Đại La. Thí dụ trong Chiếu dời đô của vua Lý Thái Tổ viết nǎm 1010 có viết: "... Huống chi thành Đại La, đô cũ của Cao Vương [tức Cao Biền] ở giữa khu vực trời đất..." [Toàn thư, Tập I. H.1993, tr.241].4. Thǎng Long: [Rồng bay lên]. Đây là cái tên có tính vǎn chương nhất, gợi cảm nhất trong số các tên của Hà Nội. Sách Đại Việt sử ký toàn thư cho biết lý do hình thành tên gọi này như sau: "Mùa thu, tháng 7 nǎm Canh Tuất [1010] vua từ thành Hoa Lư, dời đô ra Kinh phủ thành Đại La, tạm đỗ thuyền dưới thành, có rồng vàng hiện lên ở thuyền ngự, nhân đó đổi tên thành gọi là thành Thǎng Long" [Toàn thư, Tập I, H.1993, tr.241].5. Đông Đô: Sách Đại Việt sử ký toàn thư cho biết: "Mùa hạ tháng 4 nǎm Đinh Sửu [1397] lấy Phó tướng Lê Hán Thương [tức Hồ Hán Thương] coi phủ đô hộ là Đông Đô" [Toàn thư Sđd - tr.192]. Trong bộ Khâm định Việt sử thông giám cương mục, sử thần nhà Nguyễn chú thích: "Đông Đô tức Thǎng Long, lúc ấy gọi Thanh Hóa là Tây Đô, Thǎng Long là Đông Đô" [Cương mục - Tập 2, H.1998, tr.700].6. Đông Quan: Đây là tên gọi Thǎng Long do quan quân nhà Minh đặt ra với hàm nghĩa kỳ thị kinh đô của nước ta, chỉ được ví là "cửa quan phía đông" của Nhà nước phong kiến Trung Hoa. Sử cũ cho biết, nǎm 1408, quân Minh đánh bại cha con Hồ Quý Ly đóng đô ở thành Đông Đô, đổi tên thành Đông Quan. Sách Đại Việt sử ký toàn thư chép: "Tháng 12 nǎm Mậu Tý [1408] Giản Định đế1 bảo các quân "Hãy thừa thế chẻ tre, đánh cuốn chiếu thẳng một mạch như sét đánh không kịp bưng tai, tiến đánh thành Đông Quan thì chắc phá được chúng" [Toàn thư Sđd - Tập 2, tr.224].7. Đông Kinh: Sách Đại Việt sử ký toàn thư cho biết sự ra đời của cái tên này như sau: "Mùa hạ, tháng 4 nǎm Đinh Mùi [1427] Vua [tức Lê Lợi] từ điện tranh ở Bồ Đề, vào đóng ở thành Đông Kinh, đại xá đổi niên hiệu là Thuận Thiên, dựng quốc hiệu là Đại Việt đóng đô ở Đông Kinh. Ngày 15 vua lên ngôi ở Đông Kinh, tức là thành Thǎng Long. Vì Thanh Hóa có Tây Đô, cho nên gọi thành Thǎng Long là Đông Kinh" [Toàn thư - Sđd. Tập 2, tr.293].8. Bắc Thành: Đời Tây Sơn [Nguyễn Huệ - Quang Trung 1787-1802]. Vì Kinh đô đóng ở Phú Xuân [tức Huế] nên gọi Thǎng Long là Bắc thành" [Nguyễn Vinh Phúc - Trần Huy Bá - Đường phố Hà Nội - H.1979, tr.12].9. Thǎng Long: [Thịnh vượng lên]. Sách Lịch sử thủ đô Hà Nội cho biết: "Nǎm 1802, Gia Long quyết định đóng đô ở tại nơi cũ là Phú Xuân [tức Huế], không ra Thǎng Long, cử Nguyễn Vǎn Thành làm Tổng trấn miền bắc và đổi kinh thành Thǎng Long làm trấn thành miền bắc. Kinh thành đã chuyển làm trấn thành thì tên Thǎng Long cũng cần phải đổi. Nhưng vì tên Thǎng Long đã có từ lâu đời quen dùng trong nhân dân toàn quốc, nên Gia Long thấy không tiện bỏ đi ngay mà vẫn giữ tên Thǎng Long, nhưng đổi chữ "Long" là "Rồng" thành chữ "Long" là "thịnh vượng", lấy cớ rằng rồng là tượng trưng cho nhà vua, nay vua không ở đây thì không được dùng chữ "Long" là "Rồng" [Trần Huy Liệu [chủ biên] - Lịch sử thủ đô Hà Nội, H.1960, tr.81].Việc thay đổi nói trên xảy ra nǎm 1805, sau đó vua Gia Long còn hạ lệnh phá bỏ hoàng thành cũ, vì vua không đóng đô ở Thǎng Long, mà hoàng thành Thǎng Long lại lớn rộng quá.10. Hà Nội: Sách Lịch sử thủ đô Hà Nội cho biết: "Nǎm 1831, vua Minh Mạng đem kinh thành Thǎng Long cũ hợp với mấy phủ huyện chung quanh như huyện Từ Liêm, phủ ứng Hòa, phủ Lý Nhân và phủ Thường Tín lập thành tỉnh Hà Nội, lấy khu vực kinh thành Thǎng Long cũ làm tỉnh lỵ của Hà Nội". [Trần Huy Liệu chủ biên - Lịch sử thủ đô Hà Nội. H.1960, tr.82].II. Tên không chính quy:Là những tên trong vǎn thơ, ca dao, khẩu ngữ... dùng để chỉ thành Thǎng Long - Hà Nội:1. Trường An [Tràng An]: Vốn là tên kinh đô của hai triều đại phong kiến thịnh trị vào bậc nhất của nước Trung Quốc: Tiền Hán [206 tr CN - 8 sau CN] và Đường [618 - 907]. Do đó, được các nhà nho Việt Nam xưa sử dụng như một danh từ chung chỉ kinh đô. Từ đó cũng được người bình dân sử dụng nhiều trong ca dao, tục ngữ chỉ kinh đô Thǎng Long.Thí dụ:Chẳng thơm cũng thể hoa nhàiDẫu không thanh lịch cũng người Tràng An.Rõ ràng chữ Tràng An ở đây là để chỉ kinh đô Thǎng Long.2. Phượng Thành [Phụng Thành]: Vào đầu thế kỷ 16, ông Trạng Nguyễn Giản Thanh người Bắc Ninh có bài phú Nôm rất nổi tiếng.Phượng Thành xuân sắc phú[Tả cảnh sắc mùa xuân ở thành Phượng].Nội dung của bài phú trên là tả cảnh mùa xuân của Thǎng Long đời Lê. Phụng thành hay Phượng thành được dùng trong vǎn học Việt Nam để chỉ thành Thǎng Long3. Long Biên: Vốn là nơi quan lại nhà Hán, Ngụy Tấn, Nam Bắc triều [thế kỷ 3, 4, 5 và 6] đóng trị sở của Giao Châu [tên nước ta thời đó]. Sau đó, đôi khi cũng được dùng trong thơ vǎn để chỉ Thǎng Long - Hà Nội. Sách Quốc triều đǎng khoa lục có đoạn chép về tiểu sử Tam nguyên Trần Bích San [1838 -1877], ghi lại bài thơ của vua Tự Đức viếng ông, có hai câu đầu như sau:Long Biên tài hướngPhượng thành hồiTriệu đối do hy, vĩnh biệt thôi!Dịch nghĩa:Nhớ ngươi vừa tự thànhLong Biên về tới Phượng ThànhTrẫm còn đang hy vọngtriệu ngươi vào triều bàn đối, bỗng vĩnh biệt ngay.Thành Long Biên ở đây, vua Tự Đức dùng để chỉ Hà Nội, bởi vì bấy giờ Trần Bích San đang lĩnh chức Tuần phủ Hà Nội. Nǎm 1877 vua Tự Đức triệu ông về Kinh đô Huế để sung chức sứ thần qua nước Pháp, chưa kịp đi thì mất.4. Long Thành: Là tên viết tắt của kinh thành Thǎng Long. Nhà thơ thời Tây Sơn Ngô Ngọc Du, quê ở Hải Dương, từ nhỏ theo ông nội lên Thǎng Long mở trường dạy học và làm thuốc. Ngô Ngọc Du là người được chứng kiến trận đại thắng quân Thanh ở Đống Đa - Ngọc Hồi của vua Quang Trung. Sau chiến thắng xuân Kỷ Dậu [1789], Ngô Ngọc Du có viết bài Long thành quang phục kỷ thực [Ghi chép việc khôi phục Long thành].5. Hà Thành: Là tên viết tắt của thành phố Hà Nội được dùng nhiều trong thơ ca để chỉ Hà Nội. Thí dụ như bài Hà Thành chính khí ca của Nguyễn Vǎn Giai, bài Hà Thành thất thủ, tổng vịnh [khuyết danh], Hà Thành hiểu vọng của Ba Giai?...6. Hoàng Diệu: Ngay sau Cách mạng Tháng Tám - 1945, đôi khi trong các báo của ta, chúng ta sử dụng tên này để chỉ Hà Nội.Ngoài ra, trong cách nói dân gian, còn nhiều từ được dùng để chỉ Thǎng Long - Hà Nội như: Kẻ Chợ [Khéo tay hay nghề đất lề Kẻ Chợ - Khôn khéo thợ thầy Kẻ Chợ]; Thượng Kinh, tên này để nói đất Kinh đô ở trên mọi nơi khác trong nước, dùng để chỉ kinh đô Thǎng Long [Chẳng thơm cũng thể hoa nhài, Chẳng lịch cũng thể con người Thượng Kinh]; Kinh Kỳ, tên này nói đất có Kinh đô đóng [Thứ nhất Kinh Kỳ, thứ nhì phố Hiến]. Và đôi khi chỉ dùng một từ kinh như "Ǎn Bắc, mặc Kinh". Bắc đây chỉ vùng Kinh Bắc [Bắc Ninh], Kinh chỉ Kinh đô Thǎng Long.Loại tên "không chính quy" của Thǎng Long - Hà Nội còn nhiều được sử dụng khá linh hoạt trong vǎn học, ca dao... khó kể hết đượcNguồn: www.yeuhoabinh.com

Từ khi hình thành cho đến nay, Thăng Long-Hà Nội có nhiều tên gọi khác nhau được ghi chép trong sử sách Nhà nước Việt Nam và chia thành hai loại: chính thức và không chính thức, theo thứ tự thời gian.

Thăng Long-Hà Nội là kinh đô lâu đời nhất trong lịch sử Việt Nam. Từ khi hình thành cho đến nay, Thăng Long-Hà Nội có nhiều tên gọi khác nhau được ghi chép trong sử sách Nhà nước Việt Nam và chia thành hai loại: chính thức và không chính thức, theo thứ tự thời gian. 

Những tên gọi chính thức của Thăng Long-Hà Nội qua chiều dài lịch sử

Một góc phố cổ Hà Nội khi lên đèn. [Ảnh: Thanh Tùng/TTXVN]

Tên chính thức là những tên được chép trong sử sách do các triều đại phong kiến, Nhà nước Việt Nam chính thức đặt ra:

Thăng Long [Rồng bay lên]. Đây là cái tên có tính văn chương nhất, gợi cảm nhất trong số các tên của Hà Nội. Sách Đại Việt sử ký toàn thư viết lý do hình thành tên gọi này như sau: "Mùa Thu, năm Canh Tuất [1010] vua từ thành Hoa Lư, dời đô ra Kinh phủ thành Đại La, tạm đỗ thuyền dưới thành, có rồng vàng hiện lên ở thuyền ngự, nhân đó đổi tên thành gọi là thành Thăng Long" [Sách “Toàn thư”, Tập 1, Hà Nội 1993, tr 241].

Đông Đô: Sách "Đại Việt sử ký toàn thư" viết: "Mùa Hạ tháng 4 năm Đinh Sửu [1397] lấy Phó tướng Hồ Hán Thương coi phủ đô hộ là Đông Đô" [Sách “Toàn thư”, Tập I, Hà Nội 1993, tr 192]. Hồ Quý Ly lên ngôi đóng đô ở Tây Đô [Thanh Hóa], Thăng Long là Đông Đô.

Trong bộ Khâm định Việt sử thông giám cương mục chú thích: "Đông Đô tức Thăng Long, lúc ấy gọi Thanh Hóa là Tây Đô, Thăng Long là Đông Đô" [Sách “Cương mục”, Tập 2, Hà Nội 1998, tr 700].

Đông Quan: Đây là tên gọi Thăng Long do quan quân nhà Minh đặt ra với hàm nghĩa kỳ thị Kinh đô của Việt Nam, chỉ được ví là "cửa quan phía Đông" của Nhà nước phong kiến Trung Hoa. Sử cũ cho biết năm 1408, quân Minh đánh bại cha con Hồ Quý Ly đóng đô ở thành Đông Đô, đổi tên thành Đông Quan. 

Sách "Đại Việt sử ký toàn thư" chép: "Tháng 12 năm Mậu Tý [1408], Giản Định đế bảo các quân "Hãy thừa thế chẻ tre, đánh cuốn chiếu thẳng một mạch như sét đánh không kịp bưng tai, tiến đánh thành Đông Quan thì chắc phá được chúng" [Sách “Toàn thư”, Tập 2, Hà Nội 1993, tr 224].

Đông Kinh: Sách "Đại Việt sử ký toàn thư" viết về sự ra đời của tên “Đông Kinh” như sau: "Mùa Hạ, tháng 4 năm Đinh Mùi [1427], Vua [tức Lê Lợi] từ điện tranh ở Bồ Đề, vào đóng ở thành Đông Kinh, đại xá đổi niên hiệu là Thuận Thiên, dựng quốc hiệu là Đại Việt đóng đô ở Đông Kinh. Ngày 15, vua lên ngôi ở Đông Kinh, tức là thành Thăng Long. Vì Thanh Hoá có Tây Đô, cho nên gọi thành Thăng Long là Đông Kinh" [Sách “Toàn thư”, Tập 2, Hà Nội 1993, tr 293].

Bắc Thành: “Đời Tây Sơn [Nguyễn Huệ-Quang Trung 1787-1802] vì kinh đô đóng ở Phú Xuân [Huế] nên gọi Thăng Long là Bắc thành. Đầu đời Gia Long đặt “Tổng trấn Bắc Thành," đem phủ Phụng Thiên lệ vào” [Nguyễn Vinh Phúc-Trần Huy Bá, Đường phố Hà Nội, Hà Nội 1979, tr12].

Thăng Long [Thịnh vượng lên]: Sách "Lịch sử Thủ đô Hà Nội" viết: "Năm 1802, Gia Long quyết định đóng đô ở tại nơi cũ là Phú Xuân [Huế], không ra Thăng Long, cử Nguyễn Văn Thành làm Tổng trấn miền Bắc và đổi kinh thành Thăng Long làm trấn thành miền Bắc. Kinh thành đã chuyến làm trấn thành thì tên Thăng Long cũng cần phải đổi. Nhưng vì tên Thăng Long đã có từ lâu đời, quen dùng trong nhân dân toàn quốc, nên Gia Long thấy không tiện bỏ đi ngay mà vẫn giữ tên Thăng Long, nhưng đổi chữ "Long" là Rồng thành chữ "Long" là Thịnh vượng, lấy cớ rằng rồng là tượng trưng cho nhà vua, nay vua không ở đây thì không được dùng chữ "Long" là "Rồng" [Trần Huy Liệu [chủ biên], Lịch sử thủ đô Hà Nội, Hà Nội 1960, tr 81].

Việc thay đổi nói trên xảy ra năm 1805, sau đó vua Gia Long còn hạ lệnh phá bỏ hoàng thành cũ, vì vua không đóng đô ở Thăng Long, mà hoàng thành Thăng Long lại quá lớn rộng.

Hà Nội: Sách Lịch sử Thủ đô Hà Nội viết: "Năm 1831, vua Minh Mạng đem kinh thành Thăng Long cũ hợp với mấy phủ huyện xung quanh như huyện Từ Liêm, phủ Ứng Hòa, phủ Lý Nhân và phủ Thường Tín lập thành tỉnh Hà Nội, lấy khu vực kinh thành Thăng Long cũ làm tỉnh lỵ của Hà Nội" [Trần Huy Liệu [chủ biên]. Lịch sử thủ đô Hà Nội. Hà Nội 1960, Tr 82].

Những cái tên trong văn học của Thăng Long-Hà Nội

Trong văn thơ, ca dao, khẩu ngữ...,thành Thăng Long-Hà Nội được gắn với nhiều tên gọi khác nhau.

Trường An: Vốn là tên Kinh đô của hai triều đại phong kiến thịnh trị vào bậc nhất của nước Trung Quốc: Tiền Hán [206 trước công nguyên-III sau công nguyên] và Đường [618-907]. Do đó, Tràng An được các nhà nho Việt Nam xưa sử dụng như một danh từ chung chỉ kinh đô, từ đó cũng được người bình dân sử dụng nhiều trong ca dao, tục ngữ chỉ kinh đô Thăng Long.

Thí dụ: “Chẳng thơm cũng thể hoa nhài
Dẫu không thanh lịch cũng người Tràng An."

Rõ ràng chữ Tràng An ở đây là để chỉ kinh đô Thăng Long.

Phượng Thành [Phụng Thành]: Vào đầu thế kỷ XVI, ông Trạng Nguyễn Giản Thanh [người Bắc Ninh] có bài phú nôm rất nổi tiếng: “Phượng Thành xuân sắc phú” [Tả cảnh sắc mùa xuân ở thành Phượng].

Nội dung của bài phú trên là tả cảnh mùa xuân của Thăng Long đời Lê. Phụng Thành hay Phượng Thành được dùng trong văn học Việt Nam để chỉ thành Thăng Long.

Long Biên: Vốn là nơi quan lại nhà Hán, Nguỵ, Tấn, Nam Bắc triều [thế kỷ III, IV, V và VI] ở Giao Châu [tên nước Việt Nam thời đó] đóng trị sở. Sau đó, đôi khi cũng được dùng trong thơ văn để chỉ Thăng Long-Hà Nội. Sách Quốc triều đăng khoa lục có đoạn chép về tiểu sử Tam nguyên Trần Bích San [1838-1877]; ghi lại bài thơ của vua Tự Đức viếng ông, có hai câu đầu như sau:

“Long Biên tài hướng Phượng thành hồi

Triệu đối do hi, vĩnh biệt thôi!”

Dịch nghĩa:

“Nhớ người vừa từ thành Long Biên về tới Phượng Thành.

Trẫm còn đang hy vọng triệu ngươi về triều bàn đối, bỗng vĩnh biệt ngay."

Thành Long Biên ở đây, vua Tự Đức dùng để chỉ Hà Nội, bởi vì bấy giờ Trần Bích San đang lĩnh chức Tuần phủ Hà Nội. Năm 1877 vua Tự Đức triệu ông về kinh đô Huế để sung chức sứ thần qua nước Pháp, chưa kịp đi thì mất.
Biểu trưng chào mừng 1.010 năm Thăng Long-Hà Nội. [Ảnh: Hoàng Hiếu/TTXVN]

Long Thành: Là tên viết tắt của Kinh thành Thăng Long. Nhà thơ thời Tây Sơn Ngô Ngọc Du, quê ở Hải Dương, từ nhỏ theo ông nội lên Thăng Long mở trường dạy học và làm thuốc. 

Ngô Ngọc Du là người được chứng kiến trận đại thắng quân Thanh ở Đống Đa-Ngọc Hồi của vua Quang Trung. Sau chiến thắng xuân Kỷ Dậu [1789], Ngô Ngọc Du có viết bài Long thành quang phục kỷ thực [Ghi chép việc khôi phục Long thành].

Hà Thành: Là tên viết tắt của thành phố Hà Nội được dùng nhiều trong thơ ca để chỉ Hà Nội. Thí dụ như bài Hà Thành chính khí ca của Nguyễn Văn Giai, bài Hà Thành thất thủ, tổng vịnh [khuyết danh], Hà Thành hiểu vọng...

Hoàng Diệu: Ngay sau Cách mạng Tháng Tám-1945, đôi khi trong các báo chí của Việt Nam sử dụng tên này để chỉ Hà Nội.

Ngoài ra, trong cách nói dân gian, còn nhiều từ được dùng để chỉ Thăng Long-Hà Nội như: Kẻ Chợ [Khéo tay hay nghề đất lề Kẻ Chợ-Khôn khéo thợ thầy Kẻ Chợ]; Thượng Kinh, tên này để nói đất kinh đô ở trên mọi nơi khác trong nước, dùng để chỉ kinh đô Thăng Long [Chẳng thơm cũng thể hoa nhài. Chẳng thanh lịch cũng thể người Thượng Kinh]. Kinh Kỳ, tên này nói đất có kinh đô đóng [Thứ nhất Kinh kỳ, thứ nhì phố Hiến].

Và đôi khi chỉ dùng một từ kinh như "Ăn Bắc, mặc Kinh." Bắc đây chỉ vùng Kinh Bắc [Bắc Ninh], Kinh chỉ kinh đô Thăng Long.

Loại tên "không chính quy" của Thăng Long-Hà Nội còn  được sử dụng khá linh hoạt trong văn học, ca dao...

Ý nghĩa tên gọi Hà Nội

Sau khi triều Tây Sơn sụp đổ, vua Gia Long đã đổi phủ Phụng Thiên [vốn là đất đai của kinh thành Thăng Long cũ] thành phủ Hoài Đức và vẫn coi là một đơn vị trực thuộc ngang với trấn tức trực thuộc trung ương mà đại diện là Tổng trấn Bắc Thành.

Đến năm Minh Mạng thứ 12 [1831] đã tiến hành một đợt cải cách hành chính lớn, xóa bỏ Bắc Thành [gồm 11 trấn và 1 phủ trực thuộc] ở miền Bắc, chia cả nước ra làm 29 tỉnh, trong đó có 15 tỉnh trực thuộc trung ương. 

Lúc đó, Hoài Đức trở thành một trong bốn phủ họp thành tỉnh Hà Nội. Danh từ Hà Nội bắt đầu có từ bấy giờ. Hà Nội có nghĩa là phía trong sông. Vì trong thực tế, tỉnh mới này nằm trên trong 3 con sông Hông, sông Nhuệ và sông Đáy. Tỉnh Hà Nội có 4 phủ là:

- Phủ Hoài Đức gồm 3 huyện: Thọ Xương, Vĩnh Thuận, Từ Liêm

- Phủ Thường Tín gồm 3 huyện: Thượng Phúc, Thanh Trì, Phú Xuyên

- Phủ Ứng Hoà gồm 4 huyện: Sơn Minh [nay là Ứng Hòa], Hoài An [nay là phía nam Ứng Hòa và một phần Mỹ Đức], Chương Đức [nay là Chương Mỹ-Thanh Oai]

- Phủ Lý Nhân gồm 5 huyện: Nam Xang [nay là Lý Nhân], Kim Bảng, Duy Tiên, Thanh Liêm, Bình Lục.

Tên gọi Hà Nội bắt đầu có từ năm 1831. Như vậy, tỉnh Hà Nội so với nay gồm thành phố Hà Nội, nửa phía đông tỉnh Hà Tây [chính là tỉnh Hà Đông thời Pháp thuộc] và toàn bộ tỉnh Hà Nam, rõ ràng nằm kẹp giữa sông Hồng, sông Đáy và sông Nhuệ.
Khu vực tượng đài Lý Thái Tổ chào mừng 1.010 năm Thăng Long-Hà Nội. [Ảnh: Hoàng Hiếu/TTXVN]

Cũng từ đó, thành Hà Nội cũng được coi là thành tỉnh, và con đường đi từ Hàng Bông qua Mang Cá [công trình phòng thủ hình tam giác xây trước cửa thành] đi vào Cửa Đông của toà thành được gọi là phố "Cửa Đông Cổng tỉnh" nay là phố Đường Thành.

Có người cho rằng chữ Hà Nội là lấy từ câu trong sách Mạnh Tử [Thiên Lương Huệ Vương]: "Hà Nội hung tắc di kỳ dân ư Hà Đông, chuyển kỳ túc ư Hà Nội" [nghĩa là: Hà Nội bị tai họa thì đưa dân về Hà Đông, đưa thóc từ Hà Đông về Hà Nội]. Nhưng đó là trường hợp năm 1904 khi muốn đổi tên tỉnh Cầu Đơ cho khỏi nôm na, "tiểu ban đặt tên" mới lấy câu sách Mạnh Tử nói trên để đổi tỉnh Cầu Đơ ra tỉnh Hà Đôn

B.S [Theo vietnamplus]

Video liên quan

Chủ Đề