Vì sao phải đổi mới doanh nghiệp nhà nước

Cách mạng 4.0 với tiền đề là sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ, kết hợp với các lĩnh vực vật lý, công nghệ số và sinh học nhằm tạo ra những khả năng sản xuất hoàn toàn mới. Sự thay đổi mang lại tác động sâu sắc đến đời sống kinh tế, chính trị, xã hội của toàn thế giới. Đặc trưng chính của Cách mạng 4.0 bao gồm:

  • Sự kết hợp công nghệ cảm biến, Big Data, Cloud và IoT;
  • Sự phát triển tối ưu của công nghệ in 3D, công nghệ nano và vật liệu mới và AI [trí tuệ nhân tạo]

Các hoạt động trên giúp đẩy mạnh phát triển tự động hóa, nhà máy thông minh. Quá trình sản xuất, kinh doanh được bỏ qua các khâu trung gian tốn chi phí và cho phép con người kiểm soát hệ thống tại bất cứ đâu với mức độ chính xác cao hơn, không bị giới hạn về không gian, thời gian.

Tìm hiểu thêm: Chuyển đổi số kinh tế số: Xu thế tất yếu của doanh nghiệp thời 4.0

Vì sao phải chuyển đổi số thì thực tế, trước dịch Covid, các doanh nghiệp cũng đã trăn trở tìm hướng đi chuyển đổi số. Sau thời kỳ Covid, khi các doanh nghiệp đang ở trong giai đoạn suy yếu và vực dậy, việc thực hiện chuyển đổi số sẽ là cơ hội giúp cho các doanh nghiệp vượt qua các đối thủ để bứt phá. Vì thế, các quốc gia, doanh nghiệp và các cá nhân đều cùng phải tích cực tham gia và bước vào cuộc đua số, nhằm giành lấy lợi thế dẫn đầu và tạo tiềm năng phát triển trong tương lai.

Kết quả nghiên cứu của McKensey:  Vào năm 2025, mức độ tác động của chuyển đổi số tới GDP của nước Mỹ là khoảng 25%, với đất nước Brazil là 35%, còn ở các nước Châu Âu là khoảng 36%. Từ đây, có thể thấy khả năng tác động của chuyển đổi số đối với tăng trưởng GDP là rất lớn. Điều này thúc đẩy nhà nước cần phải chuẩn bị và bắt đầu chuyển đổi số để vươn lên

Chính phủ số giúp nhà nước hoạt động hiệu quả hơn, tránh lãng phí

Đối với các hệ thống quản lý công, việc chuyển đổi số về cơ bản là việc áp dụng công nghệ nhằm tạo ra hệ thống quản lý dữ liệu số, làm thay đổi nghiệp vụ, mô hình và phương thức hoạt động của bộ máy cơ quan nhà nước một cách hiệu quả hơn.

Xây dựng và phát triển Chính phủ số cũng giúp cho Chính phủ hoạt động hiệu quả và minh bạch hơn, giảm bớt tham nhũng.

Gia tăng trải nghiệm, chất lượng sống của người dân

Các trải nghiệm về dịch vụ công của người dân cũng được cải thiện, rút ngắn thời gian, giúp tiết kiệm thời gian cũng như công sức và nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân.

Xã hội số giúp người dân bình đẳng về cơ hội tiếp cận dịch vụ, đào tạo, tri thức, thu hẹp khoảng cách phát triển, giảm bất bình đẳng.

Đối với các doanh nghiệp thì vì sao phải chuyển đổi số. Đây không chỉ dừng lại như một xu hướng cần phải chạy theo mà còn là một trong những bước đi bắt buộc không thể bỏ qua. Các doanh nghiệp thờ ơ đứng ngoài cuộc đua chuyển đổi số sẽ phải đối mặt với các khó khăn và thách thức trong tương lai, thậm chí có thể dẫn tới sự thất bại.

Lấy ví dụ: Nokia hay Kodak là các bài học thất bại to lớn, cho thấy người khổng lồ cũng phải gục ngã khi không chịu thay đổi và chuyển mình.

  •  Vốn là ông lớn trong lĩnh vực kinh doanh của mình, Kodak với sự cứng ngắc trong chiến lược, lo sợ phát minh mới về máy ảnh kỹ thuật số sẽ khiến cho doanh số của phim và thuốc rửa phim giảm sút nên phớt lờ sự thay đổi, và nhận lấy kết quả phá sản vào năm 2012.
  • Cũng tương tự, thất bại của Nokia dẫn đến việc dần chìm vào lãng quên và bán mình cho Microsoft là do việc không quan tâm tới nhóm khách hàng tương lai. Trong khi Apple cùng với hệ điều hành iOS hứa hẹn mang lại các trải nghiệm hoàn toàn mới thay đổi hoàn toàn hành vi sử dụng của người dùng với thiết bị di động, Nokia vẫn cố bám trụ với hệ điều hành Symbian già cỗi lạc hậu và không kịp thích ứng với sự thay đổi của thị trường.

Tại sao doanh nghiệp cần chuyển đổi số thì có thể nói nó giúp doanh nghiệp có được các dữ liệu quan trọng thu được trong toàn bộ quá trình điều hành sản xuất của mình. Đây là tiền đề giúp cho ban lãnh đạo và các nhà quản lý đưa ra các quyết định chính xác hơn và nhanh chóng hơn.

Cùng với đó, chuyển đổi số giúp tối ưu vận hành, cải thiện và nâng cao năng suất lao động. Ứng dụng kỹ thuật số hỗ trợ đưa ra các dự báo chính xác về hiệu năng hoạt động của máy móc, giảm bớt chi phí, thời gian bảo trì và quản lý tài sản và tăng độ chính xác của thành phẩm nhờ lược bỏ bớt các khâu sản xuất thủ công.

Đối với khách hàng, việc thu thập và phân tích dữ liệu khách hàng cũng giúp hỗ trợ cho khâu phát triển sản phẩm. Trong đó, việc tìm hiểu nhu cầu của người dùng trở nên dễ dàng hơn, các sản phẩm và dịch vụ ra đời, nâng cao trải nghiệm ngày càng sát với mong đợi của khách hàng.

Nhờ vào sự phát triển của công nghệ, đặc biệt là thông qua chuyển đổi số, rất nhiều mô hình kinh doanh mới đã ra đời. Các mô hình kinh doanh trên các nền tảng số giúp doanh nghiệp mở rộng khả năng tiếp cận khách hàng, tăng hiệu quả kinh doanh.

Lấy ví dụ:

Uber là một ví dụ về mô hình kinh doanh taxi kiểu mới. So với mô hình truyền thống, thay vì quản lý trực tiếp các xe taxi, Uber đã ra đời với việc đáp ứng nhu cầu kết nối người đi nhờ xe với các xe còn trống. Sự ra đời của Uber còn đến các trải nghiệm hoàn toàn mới cho người dùng, nắm bắt và quản lý được thông tin người lái xe, lộ trình, và chia sẻ các thông tin nhằm tăng tính an toàn trong quá trình sử dụng dịch vụ của mình.

Tìm hiểu thêm: Vai trò của chuyển đổi số trong doanh nghiệp? 

Việc thực hiện chuyển đổi số quốc gia hay đối với doanh nghiệp đều được thực hiện với mục tiêu cốt lõi nhằm tạo ra một cuộc sống tốt hơn cho người dân, và với môi trường làm việc chất lượng. Vậy cá nhân vì sao phải chuyển đổi số?

Chuyển đổi số quốc gia sẽ được ứng dụng vào toàn bộ các ngành như, giáo dục, y tế, hành chính công. Ví dụ, với nền tảng số lưu giữ thông tin khám chữa bệnh, tại bất cứ bệnh viện nào, các thông tin lưu ý về chỉ số sức khoẻ, về lịch sử khám chữa bệnh được hiển thị sẽ giúp cho các bác sĩ nhanh chóng nắm bắt được tình hình bệnh nhân, từ đó nhanh chóng kịp thời khám chữa bệnh.

Tương tự như vậy, ứng dụng chuyển đổi số giúp người dân có thể thực hiện khai báo hoặc làm các thủ tục hành chính giấy tờ trên các nền tảng số tại bất cứ đâu. Người dân không cần xếp hàng tốn nhiều ngày tra cứu dữ liệu và có được ngay các thông tin cần thiết.

Vì sao cần chuyển đổi số? Việc ứng dụng chuyển đổi số cung cấp các thông tin minh bạch, về nguồn gốc hay chất lượng sản phẩm tới người tiêu dùng, phát triển các hệ thống mua bán hàng và giao nhận giúp cho việc mua sắm trở nên thuận tiện và dễ dàng.

Tuy vậy, việc thực hiện chuyển đổi số đối quốc gia hay đối với doanh nghiệp có thể thực hiện thành công hay không chủ yếu phải dựa trên yếu tố con người, hay chính xác hơn là mức độ sẵn sàng chuyển đổi số của con người.

Để có thể kịp thời thích ứng với cuộc sống số, người dân cần trang bị cho mình các kiến thức, kỹ năng để sẵn sàng tham tha vào công cuộc chuyển đổi số quốc gia, cũng như chuyển đổi số doanh nghiệp trong tương lai gần tới đây.

Kết lại, để nói về lý do vì sao phải chuyển đổi số thì có thể nói đây là một xu thế không thể đảo ngược, có khả năng ảnh hưởng sâu rộng và làm biến đổi nhiều mặt kinh tế xã hội. Chính vì vậy các chủ thể chính trong các hoạt động kinh tế xã hội bao gồm chính phủ, doanh nghiệp và người dân cần có nhận thức đầy đủ,  được đào tạo để sẵn sàng tiếp nhận những thay đổi mà xu hướng chuyển đổi số mang lại

Đổi mới và phát triển Doanh nghiệp nhà nước

01/03/2002

NGUYỄN VĂN HOAN Vụ Kinh tế và Ngân sách

VPQH

Từ viết tắt In trang Gửi tới bạn

Thực trạng

Sắp xếp, đổi mới, phát triển doanh nghiệp nhà nước [DNNN] là một quá trình liên tục được tiến hành từ đầu những năm đổi mới của đất nước, là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của tiến trình đổi mới kinh tế được đề ra từ Đại hội Đảng lần thứ VI và gần đây là Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3 Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá IX xác định, nhằm làm cho kinh tế nhà nước thực sự thực hiện được vai trò chủ đạo trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Để thực hiện được điều này, đòi hỏi phải thực hiện đổi mới toàn diện, mà trọng yếu là đổi mới cơ chế, chính sách đối với DNNN một cách đồng bộ và triệt để, bao gồm các vấn đề như: sở hữu, vốn, khoa học - kỹ thuật và công nghệ, công tác cán bộ, quản lý nhà nước đối với DNNN, lao động...

Sau quá trình hơn 15 năm thực hiện đổi mới và phát triển DNNN, với 3 đợt sắp xếp lớn, đến nay cơ cấu và quy mô DNNN đã được điều chỉnh theo hướng thích ứng và hiệu quả hơn với cơ chế thị trường. Số DNNN cả nước đã giảm 6.345 doanh nghiệp [từ hơn 12.000 DNNN xuống còn 5.655 doanh nghiệp], chiếm 55%. Tỷ lệ DNNN có vốn dưới 1 tỷ đồng đã giảm từ 50% xuống còn 18%.

Vốn bình quân của một DNNN tăng từ 3,3 tỷ đồng lên 22 tỷ đồng. Năm 2000, DNNN đã làm ra 39,5% GDP và đóng góp 39,2% tổng thu ngân sách nhà nước. Trong số 631 DNNN đã thực hiện cổ phần hoá [tính đến 31/5/2001], xuất hiện nhiều mô hình mới trong lĩnh vực nông nghiệp, dịch vụ làm ăn có hiệu quả. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được, những yếu kém, tồn tại về nhiều mặt của DNNN vẫn còn như: hiệu quả sản xuất kinh doanh của DNNN thấp, khả năng cạnh tranh yếu. Tình trạng tài chính DNNN tồn tại nhiều vấn đề bất cập: quy mô vốn của các DNNN vẫn nhỏ bé, cơ cấu bất hợp lý; tình trạng nợ nần, chiếm dụng vốn của nhau ngày càng nghiêm trọng, kéo dài trong nhiều năm mà chưa có giải pháp đủ mạnh để giải quyết, xử lý. Trang thiết bị, công nghệ lạc hậu, năng lực công nghệ của DN yếu kém. Những tồn tại, yếu kém này đòi hỏi chúng ta cần phải đẩy mạnh hơn nữa quá trình sắp xếp, đổi mới và phát triển DNNN.

Nguyên nhân

Theo chúng tôi, có một số nguyên nhân chủ yếu ảnh hưởng đến tiến trình đổi mới DNNN [mà cổ phần hoá, giao, bán, khoán, cho thuê DNNN là những giải pháp quan trọng và hữu hiệu trong cải cách DNNN], như sau:

Thứ nhất , do việc lựa chọn, phân loại và giao kế hoạch thực hiện doanh nghiệp thuộc đối tượng chuyển đổi chưa phù hợp với thực tiễn . Ví dụ như: trong số doanh nghiệp được lựa chọn để tiến hành cổ phần và đa dạng sở hữu, có nhiều doanh nghiệp đã mất khả năng thanh toán, thuộc diện phải giải thể, phá sản, không đủ điều kiện để thực hiện cổ phần hoá, giao, bán, khoán, cho thuê theo quy định tại các Nghị định số 44/1998/NĐ- CP và Nghị định số 103/1999/NĐ-CP của Chính phủ;

những doanh nghiệp hoạt động tại các vùng sâu, vùng xa không có điều kiện kinh doanh có lãi nhưng cần thiết phải duy trì cũng đưa vào diện cổ phần hoá...

Thứ hai , do yếu tố tâm lý của lãnh đạo doanh nghiệp và đội ngũ công nhân . Hiện nay đang thiếu những quy định cụ thể và phù hợp đối với các chức danh giám đốc, kế toán trưởng. Vậy, sau khi DNNN đã chuyển thành công ty cổ phần, giao doanh nghiệp cho tập thể người lao động hoặc sau khi bán, khoán, cho thuê doanh nghiệp, họ có thể không tiếp tục giữ các cương vị cũ nữa, thì sẽ được giải quyết theo những quy định nào? Giải quyết ra sao? Bởi vì, họ không chỉ thuộc đối tượng áp dụng của Bộ luật Lao động mà còn thuộc đối tượng áp dụng của Pháp lệnh Cán bộ, công chức. Trong khi đó, theo quy định tại Khoản 4, Điều 21 Nghị định số 103/NĐ-CP/1999 ngày 10/9/1999, " Giám đốc, Phó Giám đốc và Kế toán trưởng doanh nghiệp được cấp quyết định bán doanh nghiệp, xét từng trường hợp cụ thể để bố trí công việc hoặc giải quyết theo chế độ thôi việc. Người quản lý thiếu trách nhiệm dẫn đến thua lỗ, mất vốn Nhà nước không được giữ vị trí quản lý ở các DNNN khác hoặc cơ quan nhà nước ". Đối với người lao động thì tâm lý lo sợ bị mất việc làm luôn thường trực. Bên cạnh đó, công tác phổ biến, tuyên truyền chính sách về sắp xếp và đổi mới DNNN chưa được sâu rộng tới quần chúng nhân dân nói chung và người lao động trong doanh nghiệp nói riêng. Thực tế hiện nay có tình trạng doanh nghiệp tìm mọi cách để không phải đưa vào diện doanh nghiệp sắp xếp, đổi mới.

Thứ ba , do vướng mắc trong giải quyết công nợ . Trong các DNNN nói chung và DNNN thuộc diện sắp xếp, đổi mới nói riêng, không ít doanh nghiệp sản xuất kinh doanh không có hiệu quả, thua lỗ kéo dài. Việc giải quyết công nợ khó khăn làm ảnh hưởng chậm đến tiến độ sắp xếp và đổi mới doanh nghiệp, nhất là đối với việc cổ phần hóa, giao, bán DNNN. Tuy rằng trong thời gian gần đây, Chính phủ đã cho phép thành lập các Công ty mua, bán nợ, song thực tế hoạt động của các Công ty này cũng chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra về việc giải quyết công nợ lòng vòng giữa các doanh nghiệp trong nền kinh tế hiện nay. Về công nợ, tuy có phương án giải quyết, nhưng chưa dứt điểm.

Thứ tư , do sự bất cập của chế độ định giá tài sản doanh nghiệp . Hiện nay, đại bộ phận tài sản của các DNNN là máy móc, thiết bị có công nghệ cũ và thời gian sử dụng đã nhiều năm, đã hết khấu hao nhiều lần, do đó việc xác định giá trị thực tế khó khăn. Nhưng khó khăn hơn cả là xác định lợi thế kinh doanh. Theo quy định tại Điểm 3, Điều 11 Nghị định số 44/1998/NĐ-CP ngày 29/6/1998 thì lợi thế kinh doanh của doanh nghiệp chính là "về vị trí địa lý, uy tín mặt hàng [nếu có]". Lợi thế này thể hiện ở tỷ xuất lợi nhuận thực hiện trên vốn bình quân 3 năm trước khi cổ phần hóa. Giá trị lợi thế nói trên tính tối đa 30% là chưa được phù hợp trong thực tiễn. Đã có hiện tượng DNNN sản xuất kinh doanh có hiệu quả tìm cách xác định giá trị doanh nghiệp thấp hơn giá trị thực tế tại thời điểm sắp xếp và đổi mới, ngược lại có những DNNN hiệu quả sản xuất kinh doanh thấp thì tìm cách nâng giá trị doanh nghiệp lên để che lấp yếu kém...

Về chính sách, theo quy định tại Điểm 1, Điều 14 của Nghị định số 44/1998/NĐ-Chính phủ, " ... những doanh nghiệp có vốn tự tích lũy từ 40% giá trị doanh nghiệp trở lên thì tổng giá trị ưu đãi cho người lao động không quá 30% giá trị vốn Nhà nước tại doanh nghiệp ". Quy định trên chưa khuyến khích được những doanh nghiệp sản xuất kinh doanh có hiệu quả trong việc cổ phần hóa. Trong thực tiễn có DNNN hoạt động bằng 100% vốn vay, việc cổ phần hóa doanh nghiệp này chưa có quy định và hướng dẫn cụ thể [ví dụ như một số nhà máy đường...].

Thứ năm , do vướng mắc trong cơ chế giải quyết số lao động dôi dư . Số lao động dôi dư của các doanh nghiệp dự kiến sắp xếp lại dưới các hình thức tới hàng trăm nghìn người. Đặc điểm số lao động dôi dư tập trung chủ yếu ở doanh nghiệp có quy mô nhỏ và ở diện lao động có hợp đồng dài hạn và không thời hạn chiếm khoảng 96,59%; dưới 40 tuổi chiếm khoảng 59,37%; số lao động không qua đào tạo khoảng 19,35%; trình độ trung cấp và dạy nghề khoảng 9,6%; lao động lành nghề khoảng 4,8%. Tình trạng lao động dôi dư chủ yếu do 6 nguyên nhân chính [theo kết quả nghiên cứu và điều tra của Viện nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương], đó là:

+ Do sức khoẻ [chủ yếu ở lĩnh vực khai thác mỏ]: 33,51%;

+ Do không đáp ứng yêu cầu đổi mới công nghệ: 30,41%;

+ Do không đáp ứng trình độ sản xuất hiện tại: 43,30%;

+ Do sắp xếp lại tổ chức sản xuất: 42,27%;

+ Do không tiêu thụ được sản phẩm [chủ yếu ở lĩnh vực nông- lâm- ngư nghiệp]: 32,47%;

+ Lý do khác: 9,28%.

Để giải quyết vấn đề lao động dôi dư hiện nay, nếu chỉ căn cứ vào những quy định của Bộ luật Lao động thì không thể giải quyết được triệt để, vấn đề đặt ra cần có chính sách hỗ trợ đủ hấp dẫn để số lao động dôi dư tự nguyện thôi việc.

Thứ sáu , do hạn chế của cơ chế quản lý doanh nghiệp sau sắp xếp và đổi mới . Cần có cơ chế quản lý rõ ràng đối với các DNNN sau khi đã thực hiện việc sắp xếp và đổi mới, nhất là việc quản lý các doanh nghiệp cổ phần có vốn góp của Nhà nước và các doanh nghiệp cổ phần có vốn góp của các DNNN được thực hiện việc giao, bán. Trong đó, chủ yếu là vấn đề quản lý vốn nhà nước, lao động và quản lý lãnh đạo doanh nghiệp. Việc cử người trực tiếp quản lý phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp theo hướng dẫn tại Nghị định số 73/CP của Chính phủ còn chưa rõ ràng, cụ thể, cơ chế quản lý còn chưa thật chặt chẽ.

Nhìn chung, do một số chính sách vĩ mô của Nhà nước về quy hoạch ngành, vùng, miền của Nhà nước dẫn đến cơ cấu đầu tư, cơ cấu sản xuất phát triển chưa hiệu quả, đầu tư đã không hướng vào chiều sâu và đổi mới công nghệ nhằm nâng cao tỷ trọng hàng hoá có chất lượng cao và sản xuất ra các sản phẩm mới có sức cạnh tranh trên thị trường trong nước cũng như quốc tế. Khuôn khổ pháp lý chưa rõ ràng để bảo đảm cho DNNN thực sự tự chủ trong hoạt động kinh doanh do Luật DNNN và các văn bản hướng dẫn, không có sự phân biệt rõ ràng các quyền hạn và trách nhiệm. Việc phân định quyền quản lý của Nhà nước đối với DNNN, quyền của cơ quan quản lý với tư cách là chủ sở hữu, quyền của đại diện chủ sở hữu trực tiếp tại doanh nghiệp là những vấn đề cực kỳ quan trọng trong quản lý và điều hành tại DN, nhưng lại thiếu các quy định rõ ràng và chậm được sửa đổi, bổ sung. Các cơ chế quản lý của Nhà nước đối với DN còn gò bó, nặng về hành chính, chưa tạo ra động lực để khuyến khích các DN làm ăn có hiệu quả. Các quy định của Nhà nước về chế độ phân phối thu nhập, chế độ lương, sử dụng các quỹ khen thưởng, phúc lợi, chế độ tuyển dụng, bổ nhiệm cán bộ trong các DNNN còn mang tính hành chính, chưa tạo động lực phát triển, chưa động viên cán bộ có năng lực, có trách nhiệm làm việc. Điều này cũng hạn chế sự chủ động, tích cực sáng tạo của cán bộ, công nhân trong DNNN.

Ngoài ra, gánh nặng về chi cho hoạt động xã hội, y tế, giáo dục đối với các DNNN cũng làm giảm khả năng cạnh tranh của các DNNN. Công tác cải cách hành chính, nhất là cải cách hành chính trong kinh tế còn chậm, ảnh hưởng nhiều đến tiến độ cải cách DNNN trong những năm qua.

Giải pháp

Để tiến trình sắp xếp và đổi mới DNNN thực hiện đúng kế hoạch, chúng ta cần phải giải quyết đồng thời những vấn đề còn vướng mắc trong việc sắp xếp và đổi mới DNNN. Tôi mạnh dạn xin nêu một số giải pháp trước mắt để chúng ta cùng tham khảo, cụ thể như sau:

1.Xây dựng, kiện toàn khuôn khổ pháp lý bảo đảm cho DNNN thực hiện đầy đủ các quyền tự chủ trong sản xuất, kinh doanh, bình đẳng với các thành phần kinh tế khác. Nhà nước cần rà soát lại để bổ sung, sửa đổi các văn bản pháp luật hiện hành có liên quan đến DNNN, trong đó sớm sửa đổi, bổ sung Luật DNNN, Luật Phá sản doanh nghiệp, Bộ luật Lao động... Đồng thời, sớm ban hành Luật Cạnh tranh, Luật Chứng khoán...

2.Tiếp tục sắp xếp và đổi mới DNNN. Cần rà soát, lên phương án cụ thể những DNNN hoạt động sản xuất kinh doanh và hoạt động công ích, những doanh nghiệp cần phải tiến hành cổ phần hóa, giao, bán, khoán, cho thuê; việc thành lập mới DNNN cần được xem xét thận trọng; đẩy mạnh việc thực hiện và áp dụng những quy định của pháp luật về phá sản, giải thể DNNN; tích cực giải quyết cơ bản về công nợ, làm lành mạnh một bước tài chính doanh nghiệp. Xây dựng lộ trình đổi mới phù hợp với thực tế của doanh nghiệp: có những doanh nghiệp đủ điều kiện thì chuyển đổi ngay; có những doanh nghiệp thì cần củng cố trước khi chuyển đổi; có những doanh nghiệp thuộc diện phải giải thể, phá sản ngay...

3.Cần có quy định linh hoạt hơn về định giá tài sản doanh nghiệp nhưng cần tránh lợi dụng để gây thất thoát tài sản Nhà nước, trong đó đặc biệt quan tâm tới việc xác định giá trị sử dụng đất đai [theo Nghị quyết Trung ương 3 khoá IX của Đảng, việc xác định giá trị sử dụng đất theo giá thị trường].

4.Tạo môi trường pháp lý thuận lợi để nhân dân tin tưởng đầu tư vào sản xuất kinh doanh. Xây dựng cơ chế tài chính, chính sách tạo việc làm cho người lao động phù hợp, tạo sự bình đẳng trên thị trường lao động trong kinh tế thị trường.

5.Nhà nước quản lý thị trường lao động một cách chặt chẽ và năng động, bằng việc phát hiện xử lý kịp thời cùng với việc xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm pháp luật về lao động.

6 . Khẩn trương xây dựng và củng cố quỹ hỗ trợ giải quyết việc làm, đủ khả năng giải quyết những vấn đề phát sinh của thị trường lao động; bảo đảm đời sống tối thiểu của người lao động và ổn định xã hội; xây dựng quỹ bảo hiểm thất nghiệp do Nhà nước, doanh nghiệp và người lao động cùng tham gia đóng góp.

7.Đầu tư thỏa đáng cho công tác đào tạo và đào tạo lại, nhất là khâu đào tạo cán bộ quản lý doanh nghiệp theo cơ chế mới, đảm bảo việc quản lý sau sắp xếp và đổi mới DNNN.

8.Tiếp tục mở rộng thị trường vốn năng động [thị trường vốn, thị trường chứng khoán, thị trường bất động sản...].

9.Xây dựng định mức về lao động trên cơ sở công nghệ và hiệu quả sản xuất kinh doanh.

10.Tăng cường công tác tuyên truyền về sắp xếp, đổi mới và phát triển DNNN. Trong đó, đặc biệt chú ý đến công tác cổ phần hoá DNNN. Triển khai mạnh, kiên quyết và triệt để việc chấp hành pháp luật nói chung và pháp luật liên quan đến sắp xếp, đổi mới và phát triển DNNN nói riêng. Đặc biệt chú ý đến kỷ cương hành chính, nâng cao tính năng động và hiệu quả./.


Video liên quan

Chủ Đề