Vị trị mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ chiến lược hiện nay như thế nào

Xử lý tốt mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc

[ĐCSVN] - Xây dựng đất nước đi đôi với bảo vệ Tổ quốc [BVTQ] đã trở thành quy luật trong quá trình dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam. Nắm vững, giải quyết và xử lý tốt mối quan hệ giữa xây dựng và BVTQ mà Đại hội XIII của Đảng đã đề ra là một nhiệm vụ to lớn và hết sức nặng nề, đòi hỏi quyết tâm chính trị cao với những giải pháp đồng bộ, thể hiện rõ trách nhiệm chính trị của mỗi chủ thể trong hệ thống chính trị nước ta.
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Bí thư Quân ủy Trung ương thăm phòng truyền thống của Bệnh viện Trung ương Quân đội 108, nhân kỷ niệm 70 năm ngày truyền thống và đón nhận danh hiệu Anh hùng Lao động thời kỳ đổi mới của Bệnh viện [Ảnh: TTXVN]

Trong định hướng phát triển đất nước, Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng xác định rõ: “Tiếp tục nắm vững và xử lý tốt các quan hệ lớn”; trong đó có quan hệ “giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”. Vậy phải làm gì và làm như thế nào để xử lý mối quan hệ trung tâm và chủ yếu này trong triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng?

Đại hội XIII đã đánh giá, xem xét, thông qua nhiều văn kiện, nhưng trong từng văn kiện, cũng như từng lĩnh vực đều có sự gắn bó mật thiết với bảo vệ Tổ quốc [BVTQ]. Về kết quả thực hiện Nghị quyết Đại hội XII, Báo cáo chính trị của Đại hội XIII nhận định tổng quát: “toàn Đảng, toàn dân, toàn quân đã nỗ lực phấn đấu vượt qua nhiều khó khăn, thách thức, thực hiện thắng lợi các mục tiêu, các nhiệm vụ trọng tâm, đạt được nhiều thành tựu rất quan trọng, khá toàn diện, tạo nhiều dấu ấn nổi bật”; mà ở đó có: “Chính trị, xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh không ngừng được củng cố, kiên quyết, kiên trì đấu tranh giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ; quan hệ đối ngoại và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng và hiệu quả; vị thế, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao”.

Việc rút ra bài học, vấn đề BVTQ cũng được Đại hội xác định trong mối quan hệ tổng thể của 5 bài học lớn. Đánh giá 10 năm thực hiện Cương lĩnh [bổ sung, phát triển năm 2011], Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 2011-2020, BVTQ đúc rút trong mối quan hệ khăng khít với mọi lĩnh vực khác để có nhận định: Mục tiêu, đặc trưng, những phương hướng cơ bản và những mối quan hệ lớn mang tính quy luật trong quá trình xây dựng và BVTQ tiếp tục được bổ sung, cụ thể hóa, phát triển với những nhận thức quan trọng.

Trong hệ thống 5 quan điểm cơ bản chỉ đạo thực hiện tầm nhìn, định hướng, mục tiêu phát triển đất nước đến năm 2025, 2030, 2045, ý nghĩa, tầm quan trọng của BVTQ được Đại hội xác định trong mối quan hệ tương ứng của mọi nhiệm vụ khác, lập nên quan điểm: Gắn kết chặt chẽ và triển khai đồng bộ các nhiệm vụ, trong đó phát triển kinh tế-xã hội là trung tâm; xây dựng Đảng là then chốt; phát triển văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội; bảo đảm quốc phòng, an ninh là trọng yếu, thường xuyên…

Để xử lý tốt mối quan hệ giữa xây dựng và BVTQ mà Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đề ra, cần quán triệt, tập trung thực hiện một số vấn đề sau:

Một là, nắm vững tư tưởng chủ đạo của Đại hội, xác định tâm thế giải quyết tốt mối quan hệ giữa xây dựng và BVTQ. Nếu so với chủ đề của Đại hội XII, cho thấy: Tuy cùng có 5 thành tố, nhưng nội dung các thành tố nêu trong chủ đề của Đại hội XIII đã có sự kế thừa, bổ sung, phát triển hơn. BVTQ được xác định và đặt trong mối liên hệ mật thiết với 4 thành tố khác, nhưng được bổ sung, gắn với “xây dựng” để trở thành một thành tố hoàn chỉnh: “xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định”… Rõ ràng, tư tưởng chủ đạo, xuyên suốt của Đại hội đã chủ trương gắn kết chặt chẽ hai nhiệm vụ chiến lược với nhau; cả hai đều phải phấn đấu thực hiện cho được độ “vững chắc”, “giữ vững” được “môi trường hòa bình, ổn định” cho đất nước đạt đến mục tiêu mang tầm nhìn và định hướng chiến lược: “phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa”… Nhận thức rõ tư tưởng này, bất kỳ chủ thể lãnh đạo, quản lý nào của đất nước ta cũng phải quán triệt sâu sắc và triển khai thực hiện đồng thời, cụ thể có hiệu quả cả nhiệm vụ xây dựng và BVTQ theo chức năng, nhiệm vụ của ngành, lĩnh vực mà mình đảm nhiệm.

Hai là, coi trọng gắn kết chặt chẽ giữa mọi nhiệm vụ phát triển kinh tế với tăng cường quốc phòng, an ninh. Trong khi thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế, các chủ thể quản lý nhà nước này cần quán triệt và tổ chức thực hiện chủ trương phát triển kinh tế gắn với quốc phòng, an ninh mà Đại hội xác định. Cụ thể: Khi cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước phải theo hướng tập trung vào những doanh nghiệp then chốt, địa bàn quan trọng, quốc phòng, an ninh. Khi đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa cần phải coi trọng phát triển công nghiệp quốc phòng, an ninh kết hợp phục vụ dân sinh. Trong thực hiện chiến lược phát triển kinh tế biển phải kết hợp chặt chẽ với bảo đảm quốc phòng, an ninh, bảo vệ chủ quyền biển, đảo, tài nguyên, môi trường biển; phòng, chống thiên tai, tìm kiếm cứu nạn, thích ứng với biến đổi khí hậu, nâng cao đời sống nhân dân vùng biển, đảo; nâng cao hiệu lực, hiệu quả thực thi pháp luật trên biển, bảo vệ chủ quyền biển, đảo. Trong khi hoàn thiện, đồng bộ thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa [XHCN], phải coi trọng xử lý tốt những bất cập của cơ chế thị trường, bảo đảm phúc lợi và an sinh xã hội, quốc phòng, an ninh và bảo vệ môi trường sinh thái.

Ba là, phát huy mạnh mẽ vai trò của giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ đối với sự nghiệp quốc phòng, an ninh, BVTQ. Các chủ thể trên lĩnh vực này cần tập trung quán triệt và tổ chức thực hiện tốt những phương hướng, nhiệm vụ mà Đại hội XIII đã xác định, đó là: Chú trọng hơn giáo dục đạo đức, nhân cách, năng lực sáng tạo và các giá trị cốt lõi, nhất là giáo dục tinh thần yêu nước, tự hào, tự tôn dân tộc, truyền thống và lịch sử dân tộc, ý thức trách nhiệm xã hội cho các tầng lớp nhân dân, nhất là thế hệ trẻ… khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN. Có chiến lược phát triển khoa học và công nghệ phù hợp với xu thế chung của thế giới và điều kiện đất nước, đáp ứng yêu cầu xây dựng và BVTQ trong giai đoạn mới, thích ứng với Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Tập trung cơ cấu lại các chương trình nghiên cứu khoa học và công nghệ theo hướng lấy doanh nghiệp làm trung tâm, lấy phục vụ hiệu quả sự nghiệp xây dựng, BVTQ làm mục tiêu. Ưu tiên chuyển giao, ứng dụng các tiến bộ khoa học và công nghệ vào các lĩnh vực kinh tế, xã hội, văn hóa, con người, quốc phòng, an ninh trọng yếu. Gắn hợp tác quốc tế về khoa học và công nghệ với mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế-xã hội, quốc phòng và an ninh.

Bốn là, xây dựng và phát huy giá trị văn hóa, con người, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và BVTQ. Để đưa Nghị quyết Đại hội XIII vào cuộc sống, các tổ chức đảng, chính quyền nhà nước, các đoàn thể chính trị, xã hội từ trung ương đến cơ sở, cần ra sức quán triệt và tổ chức thực hiện tốt các chủ trương, nhiệm vụ quan trọng như: Tăng cường giáo dục lòng yêu nước, lòng tự hào dân tộc, ý thức trách nhiệm xã hội cho các tầng lớp nhân dân, nhất là thanh niên; tạo động lực cho thanh niên xung kích phát huy vai trò trong sự nghiệp xây dựng và BVTQ. Kịp thời tôn vinh, khen thưởng những doanh nhân có nhiều đóng góp xứng đáng cho sự nghiệp xây dựng và BVTQ. Động viên cựu chiến binh, công an hưu trí phát huy bản chất, truyền thống “Bộ đội Cụ Hồ” và Công an nhân dân Việt Nam cách mạng trong xây dựng và bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ XHCN, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Vận động, đoàn kết, tập hợp các tổ chức tôn giáo, chức sắc, tín đồ đóng góp tích cực cho công cuộc xây dựng và BVTQ. Có chính sách thu hút nguồn lực của người Việt Nam ở nước ngoài đóng góp tích cực cho sự nghiệp xây dựng và BVTQ. Tăng cường vai trò nòng cốt chính trị, trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị-xã hội trong xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc; tập hợp, vận động nhân dân đẩy mạnh các phong trào thi đua yêu nước. Xây dựng thế trận lòng dân, phát huy sức mạnh đoàn kết, đồng thuận của nhân dân trong và ngoài nước để xây dựng và BVTQ.

Năm là, phát huy dân chủ, bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong sự nghiệp xây dựng và BVTQ.

Trong khi thực hiện các nhiệm vụ này trên các lĩnh vực của đời sống xã hội để xây dựng và phát triển đất nước, các tổ chức chính trị, xã hội, đoàn thể của đất nước, cần lưu ý tới thực hiện nhiệm vụ BVTQ mà Đại hội XIII đã xác định. Cụ thể: Đề cao vai trò chủ thể, vị trí trung tâm của nhân dân trong toàn bộ quá trình xây dựng và BVTQ. Phát huy tính tích cực chính trị-xã hội, trí tuệ, quyền và trách nhiệm của nhân dân tham gia… xây dựng nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân, ngoại giao nhân dân gắn với thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân, thế trận lòng dân. Tiếp tục xây dựng nền tư pháp Việt Nam chuyên nghiệp, hiện đại, công bằng, nghiêm minh, liêm chính, phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Hoạt động tư pháp phải có trọng trách bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của tổ chức, cá nhân. Trong xây dựng, chỉnh đốn Đảng, cần tập trung đổi mới nội dung, phương thức tuyên truyền, vận động, sử dụng có hiệu quả các phương tiện thông tin đại chúng, mạng xã hội theo hướng thiết thực, tăng cường đồng thuận, củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ XHCN, phát huy sức mạnh to lớn của khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong phát triển kinh tế-xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh. Trong khi triển khai đồng bộ, sáng tạo, hiệu quả hoạt động đối ngoại, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, cần quan tâm đến các mục tiêu, nhiệm vụ của quốc phòng, an ninh. Trên cơ sở vừa hợp tác, vừa đấu tranh, tiếp tục nâng cao hiệu quả hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế vì lợi ích quốc gia - dân tộc, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN. Chủ động, tích cực tham gia các cơ chế đa phương về quốc phòng, an ninh theo tư duy mới về BVTQ. Kiên quyết, kiên trì đấu tranh, làm thất bại mọi âm mưu, hành động can thiệp của các thế lực thù địch vào công việc nội bộ, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, an ninh quốc gia và ổn định chính trị đất nước.

Sáu là, tăng cường quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc XHCN hướng đến phục vụ đắc lực cho sự nghiệp đổi mới, xây dựng đất nước giàu mạnh. Trong khi đòi hỏi mọi nhiệm vụ xây dựng đất nước phải gắn kết chặt chẽ với nhiệm vụ BVTQ, thì đồng thời các nhiệm vụ BVTQ cũng phải hướng đến thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ của xây dựng đất nước. Ví như: Bên cạnh tập trung các nhiệm vụ bảo vệ các mục tiêu tối quan trọng là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân, chế độ xã hội chủ nghĩa, thì phải chú ý tới bảo vệ nền văn hóa và lợi ích quốc gia-dân tộc; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định chính trị, an ninh quốc gia, an ninh con người; xây dựng xã hội trật tự, kỷ cương, an toàn, lành mạnh để phát triển đất nước theo định hướng XHCN.

Mặt khác, cần tập trung cụ thể hóa và thực hiện có hiệu quả quan hệ giữa hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và BVTQ Việt Nam XHCN trong cả chiến lược phát triển kinh tế-xã hội, lẫn chiến lược BVTQ; trong các lĩnh quốc phòng, an ninh; trong từng địa phương, vùng, địa bàn chiến lược và trong từng nhiệm vụ, chương trình, kế hoạch cụ thể.

Xây dựng các lực lượng vũ trang, trước hết là Quân đội nhân dân và Công an nhân dân phải đạt được các tiêu chí, hạn định, hiệu quả cụ thể, để vừa bảo đảm các yêu cầu về quốc phòng, an ninh, vừa bảo đảm yêu cầu về tiết kiệm chi tiêu ngân sách quốc gia. Đó là phải đạt đến độ cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, một số quân chủng, binh chủng, lực lượng tiến thẳng lên hiện đại. Đến năm 2025, cơ bản xây dựng Quân đội, Công an tinh, gọn, mạnh, tạo tiền đề vững chắc, phấn đấu năm 2030 xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại; vững mạnh về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ. Xây dựng cấp ủy, tổ chức đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên trong Quân đội và Công an tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và nhân dân, kiên định với mục tiêu, lý tưởng cách mạng của Đảng, bảo đảm chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu cao, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong mọi tình huống.

Xây dựng, phát triển nền công nghiệp quốc phòng, công nghiệp an ninh hiện đại, phải lưỡng dụng, vừa đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ BVTQ, phải vừa góp phần quan trọng phát triển kinh tế-xã hội. Có cơ chế huy động nguồn lực từ địa phương, nguồn lực xã hội cho xây dựng tiềm lực quốc phòng, an ninh tại các khu vực phòng thủ.

Cùng với đó, phải đổi mới và nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác giáo dục, bồi dưỡng kiến thức quốc phòng, an ninh cho cán bộ, công chức, viên chức và cho toàn dân, bảo đảm phù hợp với từng đối tượng. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức, trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, của các cấp, các ngành, của mỗi cán bộ, đảng viên và người dân đôi với nhiệm vụ tăng cường quốc phòng, an ninh, BVTQ.

Xây dựng đất nước đi đôi với bảo vệ Tổ quốc đã trở thành quy luật trong quá trình dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam. Nắm vững, giải quyết và xử lý tốt mối quan hệ giữa xây dựng và BVTQ mà Đại hội XIII của Đảng đã đề ra là một nhiệm vụ to lớn và hết sức nặng nề, đòi hỏi quyết tâm chính trị cao với những giải pháp đồng bộ và thể hiện rõ trách nhiệm chính trị của mỗi chủ thể trong hệ thống chính trị nước ta, trước hết là của mỗi tổ chức đảng, chính quyền các cấp và của từng cán bộ, đảng viên trong triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng./.

Đại tá, PGS.TS Nguyễn Văn Quang, Trưởng ban, Ban nghiên cứu lý luận chính trị, Viện KHXH&NVQS

Về mối quan hệ giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa

Ngày phát hành: 11/12/2019 Lượt xem 26148


Dựng nước đi đôi với giữ nước là quy luật tồn tại và phát triển của dân tộc ta qua hàng nghìn năm lịch sử. Xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là quy luật phát triển của cách mạng nước ta, là hai nhiệm vụ chiến lược của đất nước ta hiện nay. Xây dựng chủ nghĩa xã hội là phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội để đất nước ta trở thành một nước xã hội chủ nghĩa phồn vinh, nhân dân có cuộc sống tự do, hạnh phúc, một đất nước dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ công cuộc đổi mới, bảo vệ lợi ích quốc gia dân tộc, bảo vệ nền văn hóa dân tộc, giữ vững ổn định chính trị, trật tự, an toàn xã hội.
Quan hệ giữa xây dựng chủ quyền xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là khác quan, tất yếu, thống nhất, gắn bó chặt chẽ với nhau, tạo tiền đề, điều kiện cho nhau, cùng hướng tới một mục tiêu chung là độc lập, chủ quyền của đất nước, tự do, hạnh phúc của nhân dân. Có bảo vệ được độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ mới có đất nước để xây dựng; có giữ vững môi trường hòa bình, ổn định mới có thể xây dựng, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội đất nước; có bảo vệ được Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa mới có tiền đề, điều kiện để xây dựng chủ nghĩa xã hội, phát triển đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa. Bảo vệ nhân dân, bảo vệ lợi ích quốc gia, bảo vệ nền văn hóa dân tộc là nghĩa vụ, trách nhiệm của Đảng, Nhà nước, những người lãnh đạo, quản lý đất nước. Đồng thời, ngược lại, có xây dựng, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, nâng cao sức mạnh tổng hợp, thế và lực, uy tín quốc tế của đất nước, không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân mới có nguồn lực để đầu tư củng cố, tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh của đất nước; mới củng cố, tăng cường được sức mạnh của khối đoàn kết dân tộc, thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân vững chắc; tạo được sự ủng hộ, giúp đỡ của bạn bè quốc tế... Đây là những yếu tố có vai trò và ý nghĩa quyết định đối với việc bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Ngay từ khi đất nước ta hòa bình, thống nhất, Đảng ta đã xác định xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là hai nhiệm vụ chiến lược của nước ta. Từ sau Đại hội VI của Đảng [1968], đất nước ta thực hiện đường lối đổi mới, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, hội nhập quốc tế; quan điểm về chủ nghĩa xã hội, phương pháp, cách thức xây dựng chủ nghĩa có thay đổi, nhưng mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa không thay đổi, vẫn được xác định là nhiệm vụ chiến lược của đất nước, giữa hai nhiệm vụ này có quan hệ gắn bó chặt chẽ với nhau. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH năm 1991 của Đảng nêu rõ: “Xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc là hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam. Trong khi đặt lên hàng đầu nhiệm xây dựng đất nước, nhân dân ta luôn luôn nêu cao cảnh giác, củng cố quốc phòng, bảo vệ an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ Tổ quốc và các thành quả cách mạng” . Cương lĩnh [bổ sung, phát triển năm 2011] tiếp tục khẳng định “Xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là hai nhiệm vụ chiến lược có quan hệ chặt chẽ với nhau” và đề ra yêu cầu trong thực hiện đường lối đổi mới, phải nắm vững và giải quyết tốt mối quan hệ “giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa”3. Đồng thời, trong văn kiện các Đại hội toàn quốc của Đảng, nhiều lần nêu các quan điểm cụ thể để gắn kết việc thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược này. Văn kiện Đại hội IX của Đảng yêu cầu phải “kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng, an ninh và quốc phòng, an ninh với kinh tế trong các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội”4. Đại hội XII của Đảng đề ra nhiệm vụ “kết hợp chặt chẽ kinh tế, văn hóa, xã hội với quốc phòng, an ninh và quốc phòng, an ninh với kinh tế, văn hóa, xã hội trong từng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội, chú trọng vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo. Khắc phục triệt để những sơ hở, thiếu sót trong việc kết hợp kinh tế và quốc phòng, an ninh tại các địa bàn, nhất là các địa bàn chiến lược”5.


Những quan điểm của Đảng về kết hợp chặt chẽ hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa được thể chế hóa, cụ thể hóa thành luật pháp, cơ chế chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển các ngành, lĩnh vực, các địa bàn để phát triển kinh tế xã hội và để xây dựng, củng cố quốc phòng, an ninh của đất nước; được cấp ủy, tổ chức Đảng, chính quyền các cấp quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện, với sự tham gia tích cực của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị xã hội và của toàn dân, do đó, đã đạt được những kết quả quan trọng. Nhận thức về mối quan hệ giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa và ý thức về việc phải gắn kết chặt chẽ trong thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược này ở các cấp, các ngành được nâng lên. Đã khắc phục về cơ bản nhận thức đơn giản, phiến diện cho rằng bảo vệ Tổ quốc là nhiệm vụ của các lực lượng vũ trang, của quân đội, công an, còn các ngành, lĩnh vực khác chỉ có nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội; cũng như không thấy vai trò trách nhiệm của các lực lượng vũ trang tham gia phát triển kinh tế - xã hội đất nước.
Trong thực tiễn, sự phối hợp, gắn kết giữa phát triển kinh tế - xã hội với củng cố quốc phòng, an ninh chặt chẽ hơn, hiệu quả hơn, hạn chế được nhiều sai sót, sơ hở. Các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chương trình phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, các dự án đầu tư của các cấp, các ngành, các địa phương đều quan tâm đến các yêu cầu bảo đảm quốc phòng, an ninh, đáp ứng các tiêu chí, điều kiện, mục tiêu về quốc phòng, an ninh [tùy theo quy mô, tính chất của chương trình, dự án mà các dự án đầu tư, các chương trình, quy hoạch, kế hoạch này phải có ý kiến thẩm định, sự đồng thuận của các cơ quan quốc phòng, an ninh có thẩm quyền]. Ưu tiên, khuyến khích đầu tư những dự án xây dựng các công trình, sản xuất các sản phẩm có tính lưỡng dụng, vừa phục vụ phát triển kinh tế - xã hội, vừa có khả năng phục vụ các yêu cầu của quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc khi cần thiết. Việc xây dựng các khu vực phòng thủ vững chắc, nhất là ở các tuyến biên giới, hải đảo, có sự tham gia, đóng góp tích cực của các ngành, các địa phương; việc xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân có sự tham gia rộng rãi, tích cực của toàn dân được đẩy mạnh. Sự phát triển kinh tế là cơ sở để Đảng, Nhà nước có nguồn lực ngày càng lớn đầu tư sản xuất, mua sắm vũ khí, trang thiết bị kỹ thuật ngày càng hiện đại, có những lực lượng đi thẳng vào hiện đại, cho các lực lượng vũ trang, xây dựng các lực lượng vũ trang đủ sức bảo vệ Tổ quốc trong mọi tình huống.
Đồng thời, các lực lượng vũ trang, trong khi tập trung thực hiện tốt nhiệm vụ xây dựng để trở thành lực lượng cách mạng, chính quy, trách nhiệm, ngày càng hiện đại, luôn sẵn sàng chiến đấu, đánh thắng mọi kẻ thù trong mọi tình huống, làm lực lượng nòng cốt cùng toàn dân bảo vệ Tổ quốc; thì trong điều kiện đất nước hòa bình, đã tích cực, có vai trò quan trọng bảo vệ an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, tham gia phòng, chống thiên tai, cứu nạn, bảo vệ tài sản, cuộc sống của nhân dân, tạo môi trường thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội và trực tiếp tham gia vào phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt là ở các vùng khó khăn, các vùng biên giới, hải đảo [các khu kinh tế quốc phòng, các đoàn kinh tế quốc phòng là lực lượng nòng cốt vừa bảo đảm quốc phòng, an ninh, bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, vừa phát triển kinh tế - xã hội ở các địa bàn này]... Thành tựu bao trùm là, trong bối cảnh tình hình quốc tế hết sức phức tạp, độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, quyền làm chủ của nhân dân, chế độ xã hội chủ nghĩa được bảo vệ, giữ vững; sự nghiệp đổi mới tiếp tục được đẩy mạnh, thế và lực, uy tín quốc tế của đất nước, đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân được nâng lên.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả rất cơ bản nêu trên, việc nhận thức và giải quyết mối quan hệ giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc XHCN vẫn còn những hạn chế cần phải được tiếp tục khắc phục. Trong một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân, trong một số cơ quan, đơn vị, nhất là các cơ quan, đơn vị kinh tế, vẫn chưa thấy rõ ý nghĩa, tầm quan trọng của mối quan hệ giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; ý thức về bảo vệ Tổ quốc chưa sâu sắc, chưa trở thành ý thức thường trực trong mỗi hoạt động, mỗi việc làm, khi xem xét, quyết định mỗi chương trình, dự án. Vẫn còn tình trạng chỉ chú ý tới lợi ích kinh tế trước mắt, cục bộ của doanh nghiệp, đơn vị, cá nhân mình mà làm tổn thất tới lợi ích cơ bản, lâu dài của đất nước, bỏ qua các yêu cầu về bảo đảm quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc [cho nước ngoài thuê đất rừng, mặt biển, đầu tư dự án, đứng tên mua nhà, mua đất cho người nước ngoài ở những địa bàn nhạy cảm, quan trọng về quốc phòng, an ninh]. Một số chương trình, dự án, nhiệm vụ quốc phòng, an ninh quan trọng ở một số lĩnh vực, địa bàn thực hiện chậm, chất lượng, hiệu quả thấp. Mục tiêu xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ khi chủ động, tích cực hội nhập quốc tế, kết quả đạt được còn hạn chế. Việc bảo vệ an ninh kinh tế [an ninh lương thực, an ninh năng lượng, an ninh tài chính, tiền tệ], an ninh tư tưởng, an ninh thông tin, an ninh mạng... còn nhiều vấn đề đặt ra phải giải quyết. Nhiều cấp ủy Đảng, chính quyền các cấp, trong khi giành nhiều quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo lĩnh vực bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của đất nước, thì chưa thật sự quan tâm đẩy mạnh đấu tranh chống suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, lợi ích nhóm, quan liêu, tham nhũng trong đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, làm giảm lòng tin của nhân dân vào Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa, ảnh hưởng xấu đến phát triển kinh tế - xã hội, uy tín và hình ảnh của đất nước; chưa làm tốt nhiệm vụ bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân, chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ sự nghiệp đổi mới. Những hạn chế, yếu kém này ảnh hưởng tiêu cực đến xây dựng, nâng cao sức mạnh chiến đấu của các lực lượng vũ trang, đến xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân, đến sức mạnh tổng hợp của đất nước trong nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc.
Trong những năm tới, trong bối cảnh tình hình thế giới và khu vực diễn biến hết sức phức tạp; có những thế lực bất chấp luật pháp quốc tế và sự thật lịch sử, ngang nhiên xâm phạm đe dọa chủ quyền biển đảo của đất nước ta; có những thế lực thù địch tìm mọi cách gây mất ổn định chính trị, xã hội, xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng, chống phá sự nghiệp đổi mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội của nước ta; nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế vẫn chưa được khắc phục, nhất là trong bố cảnh cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, già hóa dân số và tác động ngày càng lớn của biến đổi khí hậu; tình trạng suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí vẫn chưa được ngăn chặn, đẩy lùi... Trong bối cảnh đó, yêu cầu tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh và nâng cao chất lượng, hiệu quả công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa nói chung, nhận thức và giải quyết tốt mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ chiến lược này nói riêng càng có ý nghĩa cấp bách. Việc quán triệt và giải quyết tốt mối quan hệ giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa phải được thực hiện ở tất cả các cấp từ trung ương đến địa phương, cơ sở, từng cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp và từng người dân; ở tất cả các ngành, lĩnh vực; đồng thời còn đòi hỏi phải quan tâm giải quyết quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ trong từng ngành, lĩnh vực, như:
- Trong lĩnh vực chính trị, phải gắn kết chặt chẽ công tác xây dựng Đảng, Nhà nước, hệ thống chính trị, xây dựng chủ trương, đường lối, luật pháp, chính sách với công tác bảo vệ Đảng, Nhà nước, hệ thống chính trị, bảo vệ nền tư tưởng, đường lối của Đảng, bảo vệ sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng, đấu tranh chống suy thoái tư tưởng, đạo đức trong Đảng, sự chống phá của các thế lực thù địch.
- Trong lĩnh vực kinh tế - xã hội, phải gắn kết chặt chẽ giữa phát triển kinh tế, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội với bảo vệ, sử dụng hợp lý, hiệu quả tài sản, nguồn lực của đất nước, của Nhà nước và nhân dân; chống thất thoát, lãng phí; gắn kết chặt chẽ giữa phát triển kinh tế với giải quyết các vấn đề xã hội, bảo vệ môi trường, củng cố quốc phòng, an ninh, giữa chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế với xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ.
- Trong lĩnh vực văn hóa, phải gắn kết chặt chẽ giữa xây dựng và bảo vệ nền văn hóa xã hội chủ nghĩa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; giữa kế thừa, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp với đấu tranh với những tập quán lạc hậu; giữa tiếp thu tinh hoa văn hóa thế giới với phê phán, ngăn chặn sự xâm nhập, ảnh hưởng của tác động tiêu cực từ các sản phẩm văn hóa độc hại từ bên ngoài. Trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh, đối ngoại, phải gắn kết chặt chẽ giữa tăng cường trang bị vũ khí, khí tài, cơ sở vật chất ngày càng hiện đại cho các lực lượng vũ trang, với xây dựng các lực lượng vũ trang vững vàng về chính trị tư tưởng, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, nhân dân, với Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa, thực sự là lực lượng vũ trang cách mạng, đội quân chiến đấu, công tác, sẵn sàng chiến đấu cao, đồng thời tham gia tích cực vào phát triển kinh tế - xã hội. Phải kết hợp chặt chẽ giữa mở rộng quan hệ đối ngoại, đẩy mạnh hội nhập quốc tế với bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc, bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân, chế độ xã hội chủ nghĩa.
Để thực hiện được các mục tiêu, nhiệm vụ gắn kết chặt chẽ giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, cần phải tiếp tục thực hiện tốt các giải pháp sau:
- Tăng cường, nâng cao chất lượng công tác tuyên truyền, giáo dục về chủ nghĩa yêu nước, truyền thống bất khuất, kiên cường của dân tộc trong lịch sử dựng nước và giữ nước; về khát vọng xây dựng đất nước ta giàu mạnh, phồn vinh và ý chí quyết tâm bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa; tạo sự thống nhất nhận thức trong toàn xã hội về các nhiệm vụ chiến lược xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, về ý nghĩa, tầm quan trọng của việc phải kết hợp tốt giữa hai nhiệm vụ này ở các cấp, các ngành, lĩnh vực.
- Tiếp tục hoàn thiện thể chế, luật pháp, chính sách, tạo cơ sở pháp luật và đòi hỏi của pháp luật đối với việc gắn kết chặt chẽ giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, các chương trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội, cũng như các chiến lược, chương trình củng cố quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát, kỷ luật, kỷ cương trong tổ chức thực hiện để chủ trương của Đảng về kết hợp chặt chẽ hai nhiệm vụ chiến lược này được thực hiện có kết quả.


- Tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN tạo môi trường thuận lợi cho đầu tư kinh doanh; huy động mạnh mẽ, phân bổ hợp lý, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực của đất nước, nguồn lực bên ngoài để phát triển kinh tế - xã hội nhanh, bền vững. Đẩy mạnh cơ cấu lại, đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế, công nghiệp hóa, hiện đại hóa trên cơ sở các thành tựu mới của khoa học công nghệ, nhất là của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, để nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế. Trên cơ sở đó, tăng nguồn lực đầu tư cho quốc phòng, an ninh, nâng cao sức mạnh bảo vệ Tổ quốc. Đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong cán bộ, đảng viên, chống tham nhũng, quan liêu, lãng phí; xây dựng Đảng, Nhà nước trong sạch, vững mạnh, củng cố lòng tin của nhân dân vào Đảng, Nhà nước, sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
- Nâng cao năng lực dự báo, nắm chắc diễn biến tình hình những nhân tố tác động tới nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc để chủ động có giải pháp ứng phó, bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa, không để bị động, bất ngờ. Quan tâm phát triển công nghiệp quốc phòng, an ninh, đầu tư sản xuất, mua sắm vũ khí, trang thiết bị kỹ thuật, tăng cường cơ sở vật chất cho các lực lượng vũ trang, xây dựng các lực lượng vũ trang cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, trong đó có những lực lượng đi ngay vào hiện đại, sẵn sàng chiến đấu, có sức chiến đấu cao và tham gia tích cực vào phát triển kinh tế - xã hội đất nước. Xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân, xây dựng các khu vực phòng thủ vững chắc. Mở rộng, nâng cao chất lượng hoạt động đối ngoại, hội nhập quốc tế; nâng cao vai trò, uy tín quốc tế của đất nước, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, khai thác các nguồn lực bên ngoài, sự ủng hộ của bạn bè quốc tế đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta./.


PGS.TS Nguyễn Văn Thạo
Phó Chủ tịch Hội đồng Lý luận TW


Video liên quan

Chủ Đề