Viêm da cơ địa tiếng anh là gì năm 2024

Viêm da cơ địa còn được gọi là chàm thể tạng, là một loại viêm da gây ngứa, đỏ, sưng và bị nứt da. Những vùng da bị bệnh thì dày lên theo thời gian và chúng có thể sản sinh ra các chất lỏng. Tình trạng này có thể xảy ra ở bất kì độ tuổi nào, điển hình nó thường bắt đầu xuất hiện ở trẻ ấu thơ với sự thay đổi nghiêm trọng qua các năm. Ở trẻ em dưới một năm tuổi, phần lớn cơ thể đều có thể bị ảnh hưởng. Khi trẻ lớn lên, phía sau đầu gối và trước mặt các khuỷu tay là những vùng da hay bị ảnh hưởng nhất. Với người lớn thì tay và chân mới là vùng da hay bị ảnh hưởng nhất.Gãi làm các triệu chứng nặng nề hơn và chỗ tổn thương có nguy cơ cao bị nhiễm trùng da. Nhiều người trong đợt tiến triển của viêm da cơ địa thường hay có sốt hoặc có cơn hen suyễn.

Nguyên nhân là không rõ nhưng được cho là liên quan đến di truyền học,rối loạn chức năng hệ thống miễn dịch, phơi nhiễm môi trường và rối loạn tính thấm của da. Nếu một người có chị em song sinh mà bị bệnh, thì có đến một 85% người còn lại có nguy cơ bị bệnh tương tự. Những người sống trong thành phố, sống trong khí hậu khô thường dễ bị ảnh hưởng hơn. Tiếp xúc với một số chất hóa học nhất định nào đó hoặc rửa tay thường xuyên làm cho các triệu chứng trở nên tồi tệ hơn. Trạng thái căng thẳng cũng có thể làm cho các triệu chứng tồi tệ hơn mặc dù nó không phải là một nguyên nhân. Các rối loạn này không gây truyền nhiễm. Việc chẩn đoán chủ yếu dựa trên các dấu hiệu và các triệu chứng. Các bệnh cần phải được loại trừ trước khi đưa ra chẩn đoán bao gồm viêm da tiếp xúc, bệnh vẩy nến, và viêm da tiết bã.

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

^ “Handout on Health: Atopic Dermatitis (A type of eczema)”. National Institute of Arthritis and Musculoskeletal and Skin Diseases. tháng 5 năm 2013. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 5 năm 2015. Truy cập ngày 19 tháng 6 năm 2015. Lỗi chú thích: Thẻ không hợp lệ: tên “NIH2013” được định rõ nhiều lần, mỗi lần có nội dung khác

Viêm da tiết bã là tình trạng viêm nhiễm phổ biến ở các vùng da có mật độ tuyến bã nhờn cao (ví dụ như mặt, da đầu, xương ức). Nguyên nhân không rõ, nhưng các loài Malassezia, một nấm men bình thường trên da, đóng một vai trò quan trọng. Tình trạng viêm da này xảy ra với tần suất gia tăng ở bệnh nhân nhiễm HIV và ở những người mắc một số tình trạng rối loạn về thần kinh. Viêm da tiết bã gây ngứa thường xuyên, gàu và vẩy da màu vàng, vẩy nhờn trên da đầu, dọc theo chân tóc và trên mặt. Chẩn đoán được thực hiện bằng khám lâm sàng. Điều trị bằng thuốc chống nấm, corticosteroid tại chỗ, hắc ín và thuốc tiêu sừng.

Dù tên bệnh là viêm da dầu nhưng thành phần và bài tiết của chất bã là bình thường. Sinh bệnh học của viêm da tiết bã không rõ ràng, nhưng sự hoạt động của nó liên quan với số lượng nấm men Malassezia có mặt trên da và phản ứng viêm đối với nấm.

Viêm da tiết bã xảy ra nhiều nhất ở trẻ sơ sinh, thường trong vòng 3 tháng đầu đời, và ở những người từ 30 đến 70 tuổi. Tỷ lệ và mức độ nghiêm trọng của bệnh dường như bị ảnh hưởng bởi các yếu tố di truyền, căng thẳng cảm xúc hoặc thể chất, và khí hậu (thường tệ hơn trong thời tiết lạnh). Viêm da tiết bã có thể có trước hoặc kết hợp với bệnh vẩy nến Bệnh vẩy nến Bệnh vẩy nến là một bệnh viêm có biểu hiện rõ nhất là các sẩn và mảng đỏ, ranh giới rõ bao phủ bởi các vẩy da trắng bạc. Nhiều yếu tố nguy cơ, bao gồm di truyền học. Các tác nhân kích thích... đọc thêm

Viêm da cơ địa tiếng anh là gì năm 2024
(gọi là bệnh vẩy nến tiết bã hoặc bệnh vẩy nến). Viêm da tiết bã có thể phổ biến hơn và trầm trọng hơn ở những bệnh nhân bị rối loạn thần kinh (đặc biệt là bệnh Parkinson Bệnh Parkinson Bệnh Parkinson là một rối loạn thoái hóa chậm tiến triển, được đặc trưng bởi run tĩnh trạng, tăng trương lực cơ, giảm vận động và vận động chậm, và sau cùng ổn định tư thế và/hoặc dáng đi. Chẩn... đọc thêm ), ví dụ, do sự thay đổi hoạt động của các tuyến bã nhờn, hoặc ở những người bị HIV/AIDS, có thể là do mất cân bằng giữa các phản ứng bảo vệ và chống viêm của tế bào T. Rất hiếm khi, viêm da trở nên lan tỏa.

Các triệu chứng và dấu hiệu của bệnh viêm da tiết bã

Các triệu chứng của viêm da tiết bã phát triển dần dần và tình trạng viêm da này thường chỉ biểu hiện rõ ràng dưới dạng vảy khô hoặc vảy nhờn lan tỏa trên da đầu (gàu) kèm theo thay đổi tình trạng ngứa.

Ở thể bệnh nặng, các sẩn vẩy màu vàng đỏ xuất hiện dọc theo đường chân tóc, sau tai, trên lông mày, nếp gấp mũi và trên xương ức. Viêm mí mắt góc mắt vàng có vẩy tiết vàng khô và kích ứng kết mạc có thể xảy ra. Viêm da tiết bã nhờn không gây rụng tóc.

Trẻ sơ sinh có thể tiến triển viêm da tiết bã với tổn thương da đầu dày, màu vàng, nâu nhuyễn; nẻ và vẩy màu vàng đằng sau tai; nốt đỏ mặt; và phát ban tã lót.

Trẻ lớn hơn và người lớn có thể phát triển các mảng vẩy có vẩy dày trên da đầu, có đường kính từ 1 đến 2 cm.

  • Đánh giá lâm sàng

Chẩn đoán viêm da tiết bã được thực hiện bằng cách khám sức khỏe..

Viêm da tiết bã ở da đầu phải được phân biệt với các rối loạn khác:

  • Điều trị tại chỗ với thuốc chống nấm, corticosteroid, hắc ín, thuốc tiêu sừng và thuốc ức chế calcineurin

Điều trị viêm da tiết bã nhờn trên da đầu nên gội đầu ít nhất hai lần một tuần, vì gội đầu ít thường xuyên hơn sẽ làm tăng sinh Malassezia. Dầu gội chống nấm (ví dụ: ketoconazole 2% hoặc 1%) có hiệu quả cao trong việc kiểm soát gàu của bệnh viêm da tiết bã. Vì viêm da tiết bã có xu hướng mạn tính và thường tái phát khi ngừng điều trị, nên thường phải sử dụng dầu gội chống nấm lâu dài (ví dụ: một hoặc hai lần/tuần). Dầu gội có tác dụng tiêu sừng (kẽm pyrithione, selen sulfide, hoặc lưu huỳnh và axit salicylic) và dầu gội hắc ín (bán tại quầy ở Mỹ) được sử dụng hàng ngày hoặc cách ngày cho đến khi gàu được kiểm soát và hai lần/tuần sau đó cũng rất hiệu quả.

Nếu dầu gội chống nấm và keratolytic không đủ để giảm ngứa, sử dụng các dung dịch corticosteroid bôi (ví dụ: dung dịch fluocinolone acetonide 0,01%). Mặc dù da đầu là một trong những khu vực ít nhạy cảm nhất với các tác dụng phụ của corticosteroid tại chỗ (ví dụ: giãn mạch, teo da, viêm nang lông, mụn trứng cá, rạn da), các tác dụng phụ có thể xảy ra khi sử dụng lâu dài, vì vậy corticosteroid tại chỗ chỉ nên được sử dụng như cần thiết.

Viêm da tiết bã ở vùng râu và lông mày được điều trị tương tự như viêm da tiết bã ở da đầu. Tuy nhiên, vùng râu và lông mày dễ bị tác dụng phụ của thuốc bôi chứa corticosteroid hơn. Do đó, corticosteroid nên được sử dụng ít thường xuyên hơn và nên sử dụng các dung dịch corticosteroid có hiệu lực thấp hơn (ví dụ, triamcinolone 0,025%) khi có thể.

Đối với viêm da tiết bã ở những vùng không có lông ở đầu (ví dụ: nếp gấp mũi, vùng sau tai, xương ức), điều trị tương tự. Tuy nhiên, kem (thường không dùng ở những vùng có lông) được ưu tiên hơn là dung dịch. Đối với những trường hợp nhẹ hơn, kem ketoconazole 2% hoặc imidazoles bôi khác bôi hai lần mỗi ngày thường là đủ. Nếu không, corticosteroid tại chỗ nhẹ (kem hydrocortisone 1 đến 2,5%, kem hydrocortisone valerate 0,2%) được thoa hai lần mỗi ngày. Corticosteroid tại chỗ có hiệu lực cao hơn thường không bắt buộc và chỉ nên sử dụng ngắn hạn, nếu có, vì da mặt nhạy cảm với các tác dụng phụ của corticosteroid (ví dụ, giãn mạch, teo da, viêm nang lông/mụn trứng cá, viêm da quanh miệng). Thuốc ức chế calcineurin (pimecrolimus và tacrolimus) cũng có hiệu quả, đặc biệt khi cần sử dụng lâu dài và chỉ dùng thuốc chống nấm không đủ hiệu quả.

Ở trẻ sơ sinh, dầu gội dành cho trẻ em được sử dụng hàng ngày, và 1 đến 2,5% kem hydrocortisone hoặc fluocinolone 0,01% dầu có thể được sử dụng một lần đến hai lần mỗi ngày để làm giảm đỏ và vẩy trên da đầu hoặc trên mặt. Thuốc chống nấm tại chỗ như kem ketoconazole 2% hoặc kem econazole 1% cũng có thể hữu ích trong những trường hợp nặng.

Đối với những tổn thương nặng trên da đầu của trẻ nhỏ, dầu khoáng, dầu ô liu, hoặc gel corticosteroid hoặc dầu được bôi trước khi đi ngủ vào các vùng bị ảnh hưởng, ví dụ chà xát bằng bàn chải đánh răng. Da đầu được gội đầu hàng ngày cho đến khi mất hết vẩy dày.

  • Ở người lớn, bệnh viêm da tiết bã gây ra gàu và đôi khi đóng vẩy trên da đầu, xung quanh lông mày, nếp gấp mũi, mũi, ống tai ngoài, sau tai và trên xương ức.
  • SD có thể gây tổn thương da đầu dày, vàng da, hoặc các mảng da ở da đầu, vẩy ở trẻ lớn và người lớn.
  • Phương pháp điều trị bao gồm thuốc chống nấm dạng bôi; dầu gội chống nấm, tiêu sừng và hắc ín; và corticosteroid dạng bôi.

Viêm da cơ địa tiếng anh là gì năm 2024

Bản quyền © 2024 Merck & Co., Inc., Rahway, NJ, USA và các chi nhánh của công ty. Bảo lưu mọi quyền.