Vũ tông phan là ai

Đền Ngọc Sơn là một danh thắng-di tích lịch sử văn hóa nổi tiếng của Thăng Long-Hà Nội, gắn liền với tên tuổi của Tiến sĩ Vũ Tông Phan, Hội trưởng Hội Hướng thiện. Ông dốc tâm sức vào việc xây dựng ngôi đền và văn bia Ngọc Sơn [1843], lưu lại cho hậu thế công trình kiến trúc-văn hóa tuyệt tác. Ông còn mở Trường Hồ Đình ở thôn Tự Tháp nênđược gọi với cái tên mến mộ-ông Nghè Tự Tháp. Cùng với thần Siêu, thánh Quát, Vũ Tông Phan là một trong những nhà thơ tiêu biểu của thi đàn Thăng Long cuối thế kỷ XIX, góp phần phục hưng văn hóa dân tộc.

Tiến sĩ Vũ Tông Phan. [Họa sĩ Bảo Nguyên vẽ]

Vũ Tông Phan, tự Hoán Phủ, hiệu Đường Xuyên và Lỗ Am, sinh năm 1800 trên đất Thăng Long khi triều Nguyễn đang củng cố thế lực; đất nước đau thương trước họa tham nhũng, lộng quyền của bọn quan tham. Cảnh nhà bần hàn, Vũ Tông Phan theo cha là ông Tú Cửu dạy học ở các làng ven Thăng Long và xứ Đoài, cho đến khi đỗ Tú tài mới theo học cậu ruột là Tiến sĩ Phạm Quý Thích ở Thăng Long. Học cùng giảng đàn của Phạm Quý Thích, Vũ Tông Phan, Ngô Thế Vinh, Lê Duy Trung, Nguyễn Văn Siêu trở thành “một chiếu bạn bút nghiên” thân thiết và được thầy rèn giũa, hướng đạo tư tưởng cứu nước, giúp đời, giữ vững tiết tháo người quân tử.

Năm 1826, Vũ Tông Phan đỗ tiến sĩ và hăm hở mang chữ thánh hiền ra làm quan với tư tưởng “vi dân”. Nhưng rồi ông sớm nhận ra quan trường trong cảnh nhiễu nhương không hợp với khí chất thanh liêm của mình, cũng chẳng thể đem chữ thánh hiền để hành đạo như mong muốn. Sau 7 năm không hợp với cảnh cá chậu chim lồng, năm 1833, ông cáo quan về nếp nhà đơn sơ ở thôn Tự Tháp rồi dựng ngôi nhà 5 gian mở Trường Hồ Đình dạy học. Bao tâm tư của kẻ sĩ thời tao loạn, ông gửi gắm tâm huyết trong thơ:

Sáng tối trăm năm đều thế cả

Một đời thực-giả khỏi bàn tay

Hồ Gươm vườn nước đầy thanh hứng

Nghĩ dựng thư phòng gửi sớm hôm

[Ngẫu hứng ở nhà dạy học]

Ông đã cùng với các bạn chí cốt đồng chí hướng phục hưng văn hóa Thăng Long mở trường để đào tạo các sĩ tử có lòng yêu nước, giữ gìn văn hóa dân tộc. Ở ngôi trường nhỏ nhìn ra Hồ Gươm, “Bốn mùa nước xuân biếc/ Một mái Ngọc Sơn hồng” [Nguyễn Văn Siêu gửi Vũ Tông Phan] ông say sưa truyền thụ kiến văn và tư tưởng yêu nước. Học trò theo học ngày càng đông, nhiều người đỗ đạt như Hoàng giáp Nguyễn Tư Giản, Lê Đình Diên, Cử nhân Đỗ Thực, Đỗ Duy Ninh, Nguyễn Huy Đức, Ngô Văn Dạng đều noi gương thầy giúp đời, cứu nước. Ông đã được vua Tự Đức ban cho bốn chữ “Đào thục hậu tiến” ghi nhận công lao đào tạo nhân tài cho đất nước. Ông còn sưu tập một số bài thi Hương, thi Hội năm 1846-1847 thành sách Thiệu Trị Đinh Vị khoa văn tuyển, sau khi ông mất, con cháu ông tập hợp tiếp các bài thi cho đến khoa thi năm 1877 đời Tự Đức rồi cho in.

Ý thức “nghĩa vụ người quân tử là lo cho dân”, ông tích cực tham gia các hoạt động văn hóa-xã hội. Ông soạn văn bia ghi sự tích Trưng Vương ở đền Đồng Nhân; văn bia ghi việc trùng tu miếu Hỏa thần; văn bia ghi việc sửa mới lại nhà thờ Tam Nguyên của họ Bùi ở ngõ Phất Lộc. Là Hội trưởng Hội Hướng thiện, ông đã dốc tâm sức vào việc xây dựng đền Ngọc Sơn [khởi công năm 1841], làm cho ngôi đền trở thành một trong những di tích và danh thắng đẹp nhất Hà Nội và cũng là trung tâm hoạt động văn hóa của các sĩ phu yêu nước thời đó. Năm 1843, ông soạn văn bia Ngọc Sơn đế quân từ ký, ghi lại việc Hội Hướng thiện cải tạo chùa Ngọc Sơn thành đền thờ Văn Xương đế quân. Sau đó, Phương Đình Nguyễn Văn Siêu đã cho trùng tu và dựng thêm một số công trình - đình Trấn Ba, cầu Thê Húc, đài Nghiên, tháp Bút tạo nên quần thể kiến trúc độc nhất vô nhị giữa trung tâm Thăng Long và trở thành danh thắng nổi tiếng, niềm tự hào của người Hà Nội.

Sau hơn 10 năm dạy học, năm 1849, ông giao Trường Hồ Đình cho con trai cả là Tú kép Như Trâm, lui về sống và dạy học ở Giang Đình thục, thôn Kim Giang gần Vân Đình [nay thuộc huyện Ứng Hòa] và biên tập thơ văn của mình, công việc mà ông yêu thích, hợp với sở nguyện khi các bạn thân thiết đã bị triều đình nhà Nguyễn hạch tội.

Tiếp theo Tô Khê tùy bút tập gồm những bài thơ sáng tác trước khi đỗ Cử nhân [1825], Vũ Tông Phan đã tập hợp những bài thơ ông viết sau 1825, nhưng chưa kịp xuất bản thì ông mất đột ngột ngày 26-6 năm Tân Hợi [1851]. Yêu mến và thương tiếc ông, đầu năm 1852, các nhà in Hữu Văn Đường, Đa Văn Đường,Tự Văn Đường in lại bộ Cổ Văn hợp tuyển dày gần 1.400 trang [nhà in Hữu Văn Đường đã khắc in từ năm 1838]. Làm tiếp những công việc dang dở của cha, Tú kép Như Trâm tập hợp bản thảo cha để lại thành quyển Lỗ Am di cảo thi tập.

Cùng với thần Siêu, thánh Quát, Vũ Tông Phan là một trong những nhà thơ tiêu biểu của thi đàn Thăng Long cuối thế kỷ XIX. Nhớ ơn ông - nhà thơ, nhà văn hóa tiêu biểu, người thầy mẫu mực, Hoàng Giáp Nguyễn Tư Giản đã soạn bài ký ở nhà thờ thầy Vũ Lỗ Am khi dựng văn bia năm 1873: “Người đời thường nói: Chẳng nhọc nhằn vì cầu phú quý, chẳng buồn phiền vì nỗi nghèo hèn. Thầy ta như vậy đó; ơn tác thành của Tiên sinh bao la như hồ nước long lanh, tựa khói trăng bàng bạc. Vẫn y nguyên vậy. Ôi, tiên sinh là bất hủ”.

Nguyễn Quang Dũng

Một đoạn Phố Vũ Tông Phan ven bờ sông Tô Lịch Hà Nội

Vũ Tông Phan [1800 - 1851] với Nguyễn Văn Siêu [1799 - 1872] là “đồng môn”, tức bạn học cùng trường từ thuở thiếu thời, cùng thụ giáo cậu ruột của Phan là Lập Trai Phạm Quý Thích, vị tiến sĩ danh tiếng triều Lê. Họ cũng là “đồng niên”, tức cùng đỗ cử nhân” khoa thi hương 1825. Nhưng Phan ngay năm sau, 1826, vào kinh đô Huế thi Hội, đỗ tiến sĩ rồi ra làm quan trong triều ngoài quận, Siêu ở nhà đóng cửa đọc sách, ba lần khước từ  lệnh của triều Nguyễn triệu ra nhận chức ở bộ Lại. Điều ít người biết, kể cả các nhà “Hà Nội học”, là: hai vị còn là “dồng chí”, tức cùng một chí hướng: người trước [Phan, 1836 - 1851], kẻ sau [Siêu, 1854 - 1872] đứng đầu Hướng Thiện hội đền Ngọc Sơn chủ trì công cuộc chấn hưng văn hóa-giáo dục Thăng Long trong suốt thế kỷ XIX, gây dựng cơ sở văn hóa-xã hôi cho phong trào canh tân cứu nước hồi đầu thế kỷ XX.

Phố Nguyễn Văn Siêu có từ trước 1945 [gọi là phố Án sát Siêu, vì cụ Phó bảng từng làm Án sát Hưng Yên thời vua Tự Đức]. Phố Vũ Tông Phan mãi năm 2013 mới được đặt ở quận Thanh Xuân - Hà Nội, là đoạn đường rộng 11 mét, dài 2 km, chạy ven bờ sông Tô Lịch khoảng từ Cầu Mới đến cầu Lủ, đối diện với phố Khương Đình và phố Kim Giang chạy ven bờ sông bên kia. Hà Nội là thành phố thứ tư đặt tên danh nhân này cho một đường phố, sau Đà Nẵng [2009], Hải Dương [2011] và TP Hồ Chí Minh [2012].

Hai vị danh nhân họ Vũ và họ Nguyễn đã bắt đâu công cuộc chấn hưng văn hóa-giáo dục Thăng Long-  Hà Nội bao giờ và như thế nào?

Tuy gia tộc Vũ Tông Phan khoảng từ đầu thế kỷ XVIII đời nối đời ngụ cư ở thôn Tự Tháp phường Báo Thiên ven bờ tây Kiếm Hồ, do ông nội của Phan đỗ hương cống năm 1762, lại trúng Thị nội văn chức, phải chầu hầu về việc văn từ trong phủ chúa Trịnh, tọa lạc tại khu vực Phú Doãn - đầu Quang Trung ngày nay, nhưng bản thân ông Phan lại có nhiều duyên nợ với dòng sông Tô.

Trước hết, ở bờ đối diện phố Vũ Tông Phan mới, xưa có Kẻ Lủ, tức làng Kim Lũ, là quê hương bản quán Nguyễn Văn Siêu. Chưa thấy thư tịch cổ nào, kể cả tộc phả, nói ông Phan từng ngụ cư và làm thầy đồ ở các phường thôn ven sông Tô Lịch, vậy mà thi tập đầu tay trước năm 1825 của ông lại nhan đề "Tô Khê tùy bút tập", trong đó có hai bài Đề Nhĩ Hà [Vịnh sông Nhĩ], nhưng không có bài nào về sông Tô Lịch!

Có thể nói sự khởi đầu nghiệp lớn của hai vị danh sĩ là sự kiện Vũ Tông Phan mới làm quan có 5 năm, lên đến chức Tham hiệp Thái Nguyên [như phó tỉnh trưởng] đã chán cảnh quan trường thời “bá đạo” của họ Nguyễn, vì lí do chính ông chỉ rõ trong bài Ngẫu cảm [1831]:

Học cổ nhập quan kim vị hợp

[“Học cổ nhập quan” [Kinh thư], tức học theo đạo người xưa rồi mới ra làm quan, nay chẳng hợp thời nữa]

Sách Thăng Long hoài cổ thập tứ thủ, lưu trữ tại Viện Hán Nôm Hà Nội

Hai năm sau, 1833, ông Nghè Phan từ quan về lại thôn Tự Tháp ven bờ tây hồ Hoàn Kiếm, mở trường Hồ đình [dưới gốc đa trong khuôn viên trụ sở báo Nhân Dân ngày nay] dạy học. Lập tức ẩn sĩ Siêu xuất đầu lộ diện, tuy từ trước đó đã chuyển nhà từ làng Lủ ra tổng Đồng Xuân phía bắc hồ Hoàn Kiếm, nhưng vẫn đóng cửa đọc sách. Theo thơ xướng họa của Vũ Tông Phan, Nguyễn Văn Siêu, Cao Bá Quát, Trần Văn Vi… nhóm bạn đồng môn tâm giao này thường xuyên gặp gỡ, luận bàn tại Hồ đình của Nghè Phan và Học quán của Cử Vi ở phường Đông Các trên bờ sông Tô [đầu phố Hàng Bạc ngày nay] để “tầm nguyên, phỏng cổ” [chữ trên vế đối ở cổng đền Ngọc Sơn], và kết quả là mùa xuân 1834, Cử Siêu dựng trong khu phố cổ [nay là phố Nguyễn Văn Siêu, quận Hoàn Kiếm], cũng trên bờ sông Tô Lịch  ngôi nhà hình vuông để dạy học, đặt tên là Phương đình, bởi thế ông có biệt hiệu là “Phương Đình tiên sinh”. Dưới đây là bằng chứng.

Một chiều cuối xuân 1834, Phương Đình tiên sinh mở tiệc khánh thành nhà dạy học Phương đình trên bờ sông Tô, “dụng đình vận chiêu thi” [lấy vần “đình” mời làm thơ]. Tham dự có tiến sĩ Vũ Tông Phan, các cử nhân Trần Văn Vi, Cao Bá Quát, Lê Duy Trung, Diệp Xuân Huyên và Khoái Ông Nguyễn [chưa xác định được danh tính]. Các bài xướng họa độc nhất vô nhị này chép trong sách “Chư gia thi văn tuyển”, ký hiệu A.357, vẫn còn lưu trữ tại Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm Hà Nội, là bằng chứng khẳng định không phải là mãi đến khi cáo quan vào 1855 như các nhà Hà Nội học vẫn viết, “Thần Siêu” mới dựng trường dạy học theo thói thường “tiến vi quan, thoái vi sư”, mà chủ động hưởng ứng chủ trương mở trường khai hóa sĩ dân của bạn đồng môn từ thở thiếu thời [cùng thụ giáo tiến sĩ triều Lê là Lập Trai Phạm Quý Thích, bác ruột của Nghè Phan về bên mẹ].

Trong bữa tiệc ấy của các bậc danh sĩ Hà thành, Vũ Tông Phan được làm bài xướng vì ông là người duy nhất trong số họ đến thời điểm đó đã đỗ tiến sĩ, lại từng trải qua chức Đốc học Bắc Ninh, tỉnh đứng đầu cả nước về số lượng tiến sĩ.

Ngày xưa ấy hẳn là:

Nước sông Tô vừa trong vừa mát,

Em dừng chèo ghé sát thuyền anh…

nên thi sĩ họ Vũ mới có thể mở đề rằng:

Nhật chính tà tà, phong chính thanh

Nhiễu tường trúc thụ chính thanh thanh…

[Ánh chiều đúng lúc tà tà / gió đúng hồi tươi mát / Rặng trúc quanh tường đúng độ ngắt xanh]

Vị tiến sĩ nguyên Đốc học không ngẫu nhiên láy đi láy lại ba lần chữ “chính” , vốn vô cùng quan trọng với Nho gia, mà nhóm Phan - Siêu cũng vừa nhất trí thề ước tại các cuộc tụ hội luận bàn ở Hồ đình và Phương đình về “chính nhân tâm” [làm cho nhân tâm đúng đắn] “chính phong tục” [làm cho phong tục đúng đắn] và “chính học thuật”  [làm cho sự học đúng đắn]. Chữ “chính” hợp với chữ “phương” thành “PHƯƠNG CHÍNH” – phương châm tư tưởng và hành động của quân tử: NGAY THẲNG, CHÍNH TRỰC. Bởi thế, trong một bài họa đáp tại bữa tiệc khai trường Phương đình trên bờ sông Tô ấy, Nguyễn Văn Siêu đã nguyện cùng các đồng chí:

Cố tri viên thị trí,

Nguyện thủ PHƯƠNG vi hình.

Nghĩa là: “Vẫn biết tròn là khôn ngoan / Xin nguyện giữ VUÔNG làm khuôn mẫu”. Bởi lẽ vuông thì chỉ thẳng một hướng mà tiến, chứ tròn thì lăn lông lôc ba vạ mọi nơi!

Sông Tô Lịch gắn bó với họ về tình cảm, tư tưởng và sự nghiệp chung như vậy cho nên năm 1838, khi triều đình buộc Nguyễn Văn Siêu phải ra ứng thí, chỉ được cho đỗ Phó bảng, dẫu “văn như Siêu, Quát vô Tiền Hán” [văn mà như Nguyễn Văn Siêu và Cao Bá Quát thì văn chương thời Tiền Hán bên Trung Hoa chẳng còn là cái gì], và bị triệu vào Huế làm quan, Vũ Tông Phan trong bài thơ tiễn, đã khắc ghi với bạn tâm đắc:

Thử biệt cư hành tâm chiếu xứ

Tô giang thu nguyệt, Kiếm hồ tôn.

Xin tạm dịch:

Biệt ly soi tấc dạ này

Trăng thu Tô Lịch, men say Kiếm Hồ.

 
 

Trang đầu tiên, sau tổng đề của chùm thơ có hai cột chữ nhỏ ghi": "Tự Tháp tiến sĩ ngâm vịnh" và "Đông tác tiến sĩ điểm duyệt". Đông Tác tiến sĩ là Nguyễn Văn Lý, người làng Đông tác - Kim Liên

Nhưng không chỉ có vậy. Trong tâm thức của Vũ Tông Phan, sông Tô cùng núi Nùng được coi là biểu tượng của vùng đất kinh kỳ Thăng Long xưa, cũng như núi Tản sông Đà là biểu tượng của cố đô Phong Châu, núi Ngự sông Hương là biểu tượng của đất Thần Kinh Huế.

"Thăng Long hoài cổ thập tứ thủ" [Mười bốn bài hoài cổ Thăng Long] là tập thơ từng được lưu hành rộng rãi ở đời, sau khi ông Nghè Tự Tháp tạ thế, nhờ công lao “điểm duyệt” của một đồng chí tâm đắc khác của ông trong sự nghiệp chấn hưng văn hóa-giáo dục Thăng Long là tiến sĩ Nguyễn Văn Lý, người làng Đông Tác - Kim Liên Hà Nội. Tập thơ ấy không ngẫu nhiên mở đầu bằng bài Đề Tô giang [Vịnh sông Tô Lịch]. Trong "Tự Tháp Vũ tiên sinh thi tập", bài thơ này có đầu đề thể hiện rõ hơn tư tưởng của tác giả: Tây xuất Tô giang đăng Lí thành cảm tác [Ra sông Tô từ cửa Tây, lên thành nhà Lý cảm tác]. Cửa Tây mở ra hướng Cầu Giấy đi trấn Sơn Tây, miền đất văn hiến có Châu Phong xưa. Bài thơ có tựa đề vịnh sông Tô nhưng tư tưởng chủ yếu là khẳng định công lao lập đô Thăng Long của triều Lý mà Vũ Tông Phan cho cơ đồ trường tồn như tòa thành nhà Lý sừng sững trên vùng địa linh Tô Lịch. Ông Nghè nho học, vốn đau đáu với “cựu bang văn nhã” [chữ trên về đối của Nghè Phan, từng treo tại bái đường Văn chỉ Thọ Xương, nghĩa là: văn hiến tao nhã của nước xưa, tức nước Văn Lang] so sánh cơ nghiệp của nhà Lý với sự nghiệp của của Cao Biền là thành Đại La và khẳng định: duy chỉ có La thành của  viên Đô hộ sứ nhà Đường là hoang phế mà thôi. Ý này bộc lộ rõ hơn nữa ở bài Lý thành hoài cổ trong Di cảo thơ văn của Vũ Tông Phan:

 Cao vương tâm sự phó hồng nê

 Lý diệp kinh dinh vị quả đê

[Việc tâm huyết của Cao Biền – ý ám chỉ việc xây thành Đại la – đã phó mặc cho đất bùn / Sự kinh bang tế thế của các vua Lý thì kết quả không hề thấp bé đi với thời gian]

Nguyên tác bài Đề Tô giang đã được cố thư họa gia Lê Xuân Hòa viết tặng cụ Trưởng tộc dòng họ Vũ-tông Vũ Đình Hòe [x.ảnh ở dưới]. Chúng tôi đã phiên âm và dịch, in trong “Vũ Tông Phan. Tuyển tập thơ văn”, Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây xuất bản năm 2001, nhân 150 năm mất của TS Vũ Tông Phan. Tuy nhiên, bản dịch chưa thể hiện rõ ý công tích lập đô bất hủ của triều Lý, nên nay nhân kỷ niệm 170 năm mất của danh nhân Vũ Tông Phan [1851 – 2021] xin được dịch lại.

        ĐỀ TÔ GIANG                 VỊNH SÔNG TÔ

Ngô  sinh chi tiền hề             Từ ta trở về trước

 Bất tri kỷ niên đại                  Bao thời đại đổi thay

 Vô sổ niên đại sự                   Đại sự nhiều vô số

 Cận túc bán nhật thoại          Đủ bàn gần nửa ngày

 Nhi huống thiên niên lai        Huống hồ nghìn năm nay

 Trần sự hề túc quái                Sự đời bao chuyện lạ

 Lý khuyết La thành tê            Tây La thành cung Lý

 Tô giang vi nhất phái             Trên bờ sông Tô nhỏ

 Lý khuyết cổ thành lập           Sừng sững thành Lý cổ

 La thành hoang nhất đái        Duy thành La hoang tàn

Sở văn giả bất kiến                  Trước chỉ nghe, chưa thấy

Sở kiến giả trường tại              Nay thấy quả trường tồn

Dữ ngô nhất biệt hề                Dù cùng ta cách biệt

Kỷ hà nhi thiên tải                    Mấy mà nghìn năm tròn

Đại cố thường như tư              Đại sự còn vậy đó

Ngô sinh hà túc khái                Đời ta sao đáng lo

 “Cổ thành” Vũ Tông Phan nhắc tới trong bài thơ là đoạn đường Hoàng Hoa Thám và đường Bưởi ngày nay mà trên bản đồ Hà Nội 1873 người Pháp thuê vẽ sau khi chiếm thành Hà Nội lần thứ nhất, có ghi hai Hán tự 李城 - Lý thành”, người Pháp gọi là “digue Parreau” [đê Pa-rô]. Trong hồi ký của hai người bạn học “thuở để chỏm” Vũ Đình Hòe và Nguyễn Hiến Lê đều có nhắc đến “đê Pa-rô”, chứng tỏ những năm 20 của thê kỷ trước còn tên ấy.

Ngày nay nhờ ý tưởng sáng tạo của KTS trẻ tài năng Hoàng Thúc Hào, một đoạn tường thành cổ nhà Lý đã được bắt đầu phục dựng nhân dịp chuẩn bị Đại lễ 1000 năm Thăng Long: đứng ở ngã ba đầu đường Hoàng Quốc Việt nhìn lên, vẫn có thể thấy mặt đường Bưởi mới được kè lại, cao hơn mặt nước sông Tô Lịch chảy bên dưới đến 3 - 4 m. Tiếc rằng do những nguyên nhân khách quan và chủ quan nào đó, công trình bị bỏ dở dang, không thì đã có thể lập bia khắc bài thơ của tiến sĩ Vũ Tông Phan, sáng tác gần hai trăm năm trước, ngợi ca hào khí Thăng Long 1000 năm văn hiến.

Năm 2010, chuẩn bị kỷ niệm nghìn năm Thăng Long, cố Nghệ sĩ nhiếp ảnh Trần Định, học trò thân thiết của tôi ở Khoa tiếng Nga Đại học Ngoại ngữ Hà Nội, niên khóa N67, đề xuất dự án làm album nghệ thuật “Thăng Long-Hà Nội Xưa & Nay trong Thơ & Ảnh”, trên cơ sở tập Thăng Long hoài cổ thập tứ  thủ. Định đèo tôi đi chụp ảnh các thắng tích thi sĩ họ Vũ ca ngợi trong thi tập ấy. Anh đã làm maket bìa và trang mẫu một số bài, trong đó có Đề Tô giang, với nguyên tác chữ Hán là thủ bút của thư họa gia Lê Xuân Hòa viết tặng cụ Trưởng tộc Vũ-tông Vũ Đình Hòe. Tôi chịu trách nhiệm phiên âm, dịch nghĩa, dịch thơ và chú giải. Nhưng rồi Định không sao kêu gọi được khoản đầu tư 200 triệu theo dự  toán của anh...

Maket trang Vịnh sông Tô trong dự án sách-album Thăng Long-Hà Nội trong thơ cổ & ảnh nghệ thuật, do cố nghệ sĩ nhiếp ảnh TRẦN ĐỊNH thực hiện

Video liên quan

Chủ Đề