Bài thơ bếp lửa trong sách văn học lớp mấy năm 2024

Một trong những bài thơ gây xúc động nhất trong sách giáo khoa ngữ văn lớp 9 chính là tác phẩm Bếp lửa của nhà thơ Bằng Việt (tên thật Nguyễn Việt Bằng). Bài thơ được Bằng Việt sáng tác vào năm 1963, khi ông còn là chàng sinh viên 22 tuổi đang theo học ngành luật tại đại học tổng hợp Kiev (Liên Xô cũ).

Như Bằng Việt từng chia sẻ trong một cuộc trả lời phỏng vấn rằng, khi trải qua những ngày đông lạnh giá ở xứ người, ông nhớ da diết về gia đình, về bếp lửa và những ngày ở bên bà nội.

Đó là lý do mà chỉ ngay từ những câu mở bài của Bếp lửa, nhà thơ đã nhấn mạnh đầy cảm xúc: "Cháu thương bà biết mấy nắng mưa!" Chỉ với một câu thơ như vậy, người đọc đã dễ dàng cảm nhận được tình cảm giữa tác giả với bà của mình dù rất dung dị nhưng vẫn vô cùng sâu sắc và cảm động.

Bài thơ bếp lửa trong sách văn học lớp mấy năm 2024

Tranh minh họa.

Trong ký ức của nhiều thế hệ người Việt, hình ảnh bếp lửa bập bùng đã gắn liền với những kỷ niệm thơ ấu ngọt ngào. Bên bếp lửa sẽ là những khoảnh khắc gia đình quây quần trò chuyện, nấu cơm hoặc cùng ăn một bữa cơm giản dị.

Hình ảnh bếp lửa ấm áp đã in sâu trong tâm trí của nhiều người Việt dù thời gian trôi qua, cuộc sống hiện đại có nhiều thay đổi và giờ đây, không còn nhiều người dùng bếp lửa nữa.

Ký ức "bếp lửa" của Bằng Việt và bà nội không hẳn chỉ là những kỷ niệm ngọt ngào. Như ông viết:

"Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói

Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi,

Bố đi đánh xe, khô rạc ngựa gầy,

Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu

Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay!".

Tác giả đã trải qua những khoảng thời gian "đói mòn đói mỏi" khiến ông mỗi khi nhớ lại vẫn cay sống mũi. Tuy nhiên, dù như thế nào, trong trí nhớ của một đứa trẻ xa bố mẹ thì khoảng thời gian ở bên người bà yêu thương của mình vẫn sẽ là những miền ký ức ngọt ngào. Vì thế, Bằng Việt viết:

"Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe,

Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học".

Trong những năm 60, đất nước trải qua muôn vàn khó khăn vì chiến tranh ác liệt, ngôi làng mà bà cháu Bằng Việt ở đã bị giặc đốt cháy và hai bà cháu phải nhờ tới hàng xóm giúp đỡ để dựng lại một túp lều nhỏ. Dù trong hoàn cảnh khó khăn, gian khổ như vậy nhưng bà của nhà thơ vẫn kiên cường, mạnh mẽ vượt lên hoàn cảnh. Bà của Bằng Việt còn dặn cháu:

"Bố ở chiến khu, bố còn việc bố,

Mày có viết thư chớ kể này kể nọ,

Cứ bảo nhà vẫn được bình yên!".

Qua những vần thơ dung dị, có thể cảm nhận được tình cảm bao la mà bà của Bằng Việt dành cho con cháu của mình. Dù khó khăn tới mấy cũng sẽ cố gắng tự mình vượt qua, không để các con đang đi công tác xa nhà phải lo lắng. Trong gian khó, thử thách, bà của nhà thơ vẫn luôn là người "giữ lửa", thắp sáng tình yêu trong gia đình và tình yêu dành cho tổ quốc của mình. Nhà thơ viết:

"Rồi sớm rồi chiều, lại bếp lửa bà nhen,

Một ngọn lửa, lòng bà luôn ủ sẵn,

Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng..."

Ngọn lửa ở đây không chỉ còn là một ngọn lửa thông thường mà đã trở thành một hình tượng đẹp đại diện cho tình yêu của người bà dành cho cháu và xa hơn nữa, đó là niềm tin và tình yêu dành cho tổ quốc, niềm tin rằng khó khăn nào rồi cũng sẽ qua, chỉ cần chúng ta kiên cường, luôn khắc ghi trong tim những tình cảm lớn lao nhất dành cho quê hương, đất nước của mình. Hình ảnh bà của nhà thơ cũng chính là hình ảnh tiêu biểu cho nhiều người phụ nữ Việt Nam: Tần tảo, chịu thương, chịu khó.

Cứ như vậy, nhiều năm sau đó, khi Bằng Việt đã trưởng thành thì bà của nhà thơ vẫn giữ thói quen dậy sớm nhóm lửa. Bên bếp lửa không chỉ là nồi xôi, củ khoai, củ sắn mà là cả những tâm tình của những người yêu thương nhau, là những tình cảm dung dị và thiêng liêng biết mấy. Đó là lý do Bằng Việt viết nên những câu thơ:

"Nhóm niềm xôi gạo mới, sẻ chung vui,

Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ...

Ôi kỳ lạ và thiêng liêng - bếp lửa!"

Bài thơ Bếp lửa kết lại bằng lời tự sự của người cháu đang xa nhà nhưng vẫn đau đáu nỗi nhớ quê hương:

"Giờ cháu đã đi xa. Có ngọn khói trăm tàu,

Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả,

Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở:

Sớm mai này, bà nhóm bếp lên chưa?..."

Dù đã trưởng thành và không còn ở trong vòng tay của bà nhưng Bằng Việt sẽ không thể nào quên những ngày sống cùng bà trong gian nhà đơn sơ với bếp lửa luôn nồng ấm như tình cảm bà dành cho nhà thơ. Dù cách xa bà hàng nghìn cây số, Bằng Việt vẫn băn khoăn suy nghĩ, không biết giờ này ở nhà, bà đã nhóm lửa hay chưa.

Những vần thơ dung dị và đầy xúc động của Bếp lửa được nhiều thế hệ người Việt yêu thích bởi đó là "bức tranh" đẹp nhất miêu tả tình cảm gia đình, tình yêu dành cho quê hương, đất nước.

Thơ Bằng Việt trong trẻo, mượt mà, tràn đầy cảm xúc, đề tài thơ thường đi vào khai thác những kỉ niệm, những kí ức thời thơ ấu và gợi những ước mơ tuổi trẻ.

Hoàn cảnh sáng tác

Bài thơ Bếp lửa được sáng tác năm 1963, khi tác giả đang là sinh viên học ngành Luật ở nước ngoài.

Bài thơ được đưa vào tập Hương cây – Bếp lửa (1968), tập thơ đầu tay của Bằng Việt và Lưu Quang Vũ.

Bố cục: 4 phần

Phần 1 (ba dòng đầu): Hình ảnh bếp lửa khơi nguồn cho dòng hồi tưởng, cảm xúc về bà.

Phần 2 (bốn khổ thơ tiếp theo): Hồi tưởng những kỷ niệm tuổi thơ sống bên bà và hình ảnh bà gắn liền với hình ảnh bếp lửa.

Phần 3 (hai khổ thơ tiếp theo): Suy ngẫm về bà và cuộc đời bà.

Phần 4 (khổ cuối): Nỗi nhớ về bà.

Giá trị nội dung

Qua hồi tưởng và suy ngẫm của người cháu đã trưởng thành, bài thơ Bếp lửa gợi lại những kỉ niệm đầy xúc động về người bà và tình bà cháu đồng thời thể hiện lòng kính yêu trân trọng và biết ơn của người cháu đối với bà và cũng là đối với gia đình, quê hương, đất nước.

Giá trị nghệ thuật

Bài thơ đã kết hợp nhuần nhuyễn giữa biểu cảm với miêu tả, tự sự và bình luận.

Thành công của bài thơ còn ở sự sáng tạo hình ảnh bếp lửa gắn liền với hình ảnh người bà, làm điểm tựa khơi gợi mọi kỉ niệm, cảm xúc và suy nghĩ về bà và tình bà cháu.

Bài thơ bếp lửa trong sách văn học lớp mấy năm 2024

2. Dàn ý chung phân tích bài thơ Bếp lửa - Bằng Việt

A. Mở bài: Giới thiệu tác giả, tác phẩm.

Hẳn ai cũng có những quá khứ đẹp đẽ bên người thân, gia đình. Trong thời kỳ đất nước chống giặc ngoại xâm, biết bao người đã rời khỏi gia đình để nhập ngũ, dốc sức vì đất nước - điều đó đã đi sâu vào kí ức của những đứa trẻ thời chiến để hình thành nên mảng kí ức không thể nào quên. Nhà thơ Bằng Việt cũng có một tuổi thơ mà cha mẹ ông đều đi đánh giặc. Một mình sống với bà nhưng ông không hề cảm thấy cô đơn mà còn rất tự hào và vui sướng vì được sống bên bà. Ông đã sáng tác nên bài thơ "Bếp lửa" để nói lên tình cảm của ông dành cho bà cũng như khẳng định rằng bếp lửa không chỉ làm ấm tình cảm bà cháu mà còn sưởi ấm một đời người.

Bằng Việt thuộc thế hệ nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến chống Mĩ. Ông viết bài thơ Bếp lửa vào tuổi 19, đó là năm 1963 khi còn là sinh viên đang học đại học ở nước ngoài. Cảm xúc dào dạt, lời thơ đẹp, giọng thơ thiết tha bồi hồi, hình tượng thơ độc đáo, sáng tạo, đặc sắc, đó là ấn tượng của nhiều người khi đọc bài thơ Bếp lửa.

B. Thân bài

1. Khái quát chung

- Hoàn cảnh sáng tác

- Mạch cảm xúc

2. Phân tích

  1. Khổ thơ đầu: Hình ảnh bếp lửa – nơi bắt đầu nỗi nhớ

* Dòng hồi tưởng bắt đầu từ hình ảnh thân thương, ấm áp về bếp lửa. Để rồi, từ hình ảnh bếp lửa ấy, dòng kỉ niệm về bà thức dậy và được tái hiện:

"Một bếp lửa chờn vờn sương sớm

Một bếp lửa ấp iu nồng đượm"

- Trước hết, đó là hình ảnh bếp lửa tả thực, nhỏ bé, gần gũi, quen thuộc trong mỗi gia đình tự bao giờ.

- Hình ảnh ẩn dụ "ấp iu nồng đượm":

+ Gợi đến bàn tay cần mẫn, khéo léo, chính xác của người nhóm lửa.

+ Gợi tấm lòng chi chút của người nhóm lửa.

- Từ "bếp lửa" được điệp lại hai lần:

+ Gợi bóng dáng của người bà, người mẹ tần tảo, thức khuya dậy sớm chăm sóc cho chồng, cho con.

+ Diễn tả dòng cảm xúc dâng tràn ùa về kí ức

- Từ láy "chờn vờn":

+ Miêu tả bếp lửa với ngọn lửa bốc cao, bập bùng, tỏa sáng, ẩn hiện giữa màn sương sớm

+ Bếp lửa ấy mờ tỏa, chờn vờn trong kí ức về những năm tháng tuổi thơ được sống bên bà của nhà thơ

* Một cách tự nhiên, hình ảnh bếp lửa đã làm trỗi dậy dòng cảm xúc yêu thương mãnh liệt trong người cháu: "Cháu thương bà biết mấy nắng mưa"

- Bộc lộ sự thấu hiểu đến tận cùng của sự vất vả, nhọc nhằn, lam lũ của đời bà

- Chữ "thương" dùng thật đắt qua vần thơ cảm thán, diễn tả cảm xúc đến rất tự nhiên và lan tỏa tâm hồn người cháu

\=> Hình ảnh "bếp lửa" đã khơi dậy trong lòng người cháu bao cảm xúc để những dòng hồi tưởng, kí ức đó ùa về khiến người cháu không khỏi xúc động

  1. Những kỉ niệm tuổi thơ bên bà và kỉ niệm với bếp lửa

b.1. Những kỉ niệm hồi lên 4 tuổi

* Đó là kỉ niệm tuổi thơ với những năm tháng gian khổ, thiếu thốn, nhọc nhằn:

"Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói

Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi

Bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy"

- Thành ngữ "đói mòn đói mỏi":

+ Miêu tả một hiện thực đau thương trong lịch sử: Năm 1945, do chính sách cai trị hà khắc của phát xít Nhật và thực dân Pháp đã khiến hơn hai triệu đồng bào ta chết đói

+ Câu thơ trĩu xuống, khiến lòng người như nao nao, nghẹn ngào khi nghĩ về kí ức tuổi thơ ấy.

- Hình ảnh "Bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy" phần nào diễn tả hoàn cảnh khó khăn, thiếu thốn của người cha phải bươn chải kiếm sống đủ nghề.

- Hình ảnh "đói mòn đói mỏi" và "khô rạc ngựa gầy" là những hình ảnh đậm chất hiện thực, đặc tả được sự xơ xác, tiều tụy của những con người trong cuộc mưu sinh.

Trong những năm đói khổ ấy, cháu cùng bà nhóm lửa:

"Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu

Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay"

- Khói bếp của bà chẳng làm no lòng cháu nhưng đã lưu giữ một kỉ niệm sống mãi không nguôi: mùi khói đã hun nhèm mắt cháu để đến bây giờ nghĩ lại "sống mũi còn cay".

- Tác giả nhắc đi nhắc lại từ: "mùi khói", "khói hun" gợi một sự ám ảnh về một thời gian khó đã đi qua.

- Cảm giác cay cay vì khói bếp và cái cay cay bởi nỗi xúc động của người cháu như hòa quyện, quá khứ và hiện tại như đồng hiện trên từng dòng thơ.

\=>Những hình ảnh, những kỉ niệm bên bà, bên bếp lửa đã cho thấy một tuổi thơ gian khổ, thiếu thốn, nhọc nhằn và đầy ám ảnh của tác giả. Để rồi khi đã đi xa, ông không khỏi xúc động mỗi khi nghĩ về bà và những kỉ niệm bên bà.

b.2. Những kỉ niệm hồi lên tám tuổi:

* Đó là những năm tháng cháu sống trong sự cưu mang, dạy dỗ của bà: "Tám năm ròng, cháu cùng bà nhóm lửa"

- Gợi khoảng thời gian tám năm ròng cháu được sự yêu thương, che chở, bao bọc của bà

- Tám năm ấy, cháu sống cùng bà vất vả, khó khăn nhưng đầy tình yêu thương.

- Bếp lửa hiện diện như tình bà ấm áp, như chỗ dựa tinh thần, như sự cưu mang đùm bọc đầy chi chút của bà

* Đó là những năm tháng hồn nhiên, trong sáng và vô tư qua hình ảnh tâm tình với chim tu hú:

"Tu hú kêu trên những cánh đồng xa

Tu hú kêu bà còn nhớ không bà?

Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế

Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế!"

- Tiếng chim tu hú – âm thanh quen thuộc của đồng quê mỗi độ hè về, để báo hiệu mùa lúa chin vàng đồng, vải chín đỏ cành.

- Tiếng chim tu hú như giục giã, như khắc khoải điều gì tha thiết lắm, khiến lòng người trỗi dạy những hoài niệm nhớ mong. Tiếng tu hú gợi nhớ, gợi thương:

+ Về tám năm kháng chiến chống Pháp "mẹ cùng cha công tác bận không về" bà vừa là cha, vừa là mẹ.

+ Về những năm tháng tuổi thơ, về một thời cháu cùng bà nhóm lửa, được sống trong tình yêu thương, đùm bọc, cưu mang trọn vẹn của bà:

"Cháu ở cùng bà, bà kể cháu nghe

Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học"

Các động từ: "bảo, dạy, chăm" đã diễn tả sâu sắc tấm lòng bao la, sự chăm chút, nâng niu của bà đối với đứa cháu nhỏ. Các từ "bà" – "cháu" được điệp lại bốn lần, đan xen vào nhau như gợi tả tình bà cháu quấn quýt, yêu thương.

\=> Bà vừa là bà, vừa là sự kết hợp cao quý giữa tình cha, nghĩa mẹ, ơn thầy.

* Tình yêu sự kính trọng bà của người cháu được thể hiện thật chân thành, sâu sắc qua câu thơ:

"Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc"

- Hình ảnh con chim tu hú xuất hiện ở cuối khổ thơ với câu hỏi tu từ là một sự sáng tạo độc đáo của Bằng Việt nhằm diễn tả nỗi lòng da diết của mình khi nhớ về tuổi thơ, về bà:

"Tu hú ơi! Chẳng đến ở cùng bà

Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa?"

+ Gợi hình ảnh chú chim đang lạc lõng, bơ vơ, côi cút ngao ngán được ấp ủ, che chở.

+ Đứa cháu được sống trong tình yêu thương, đùm bọc của bà đã chạnh lòng thương con tu hú. Và thương con tu hú bao nhiêu, tác giả lại biết ơn những ngày được bà yêu thương, chăm chút bấy nhiêu.

\=> Trong khi hồi tưởng về quá khứ, người cháu luôn thể hiện nỗi nhớ thương vô hạn và lòng biết ơn bà sâu nặng

  1. Những kỉ niệm thời bom đạn chiến tranh

Từ trong khói lửa của cuộc chiến tranh tàn khốc, người bà càng sáng lên nhiều phẩm chất đẹp:

"Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi

Hàng xóm bốn bên trở về lầm lụi

Đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh"

- Hình ảnh "cháy tàn cháy rụi" gợi sự tàn phá, hủy diệt khủng khiếp của chiến tranh.

- Trước hiện thực khó khăn, ác liệt ấy, bà vẫn mạnh mẽ, kiên cường không kêu ca, phàn nàn. Điều đó được thể hiện qua lời dặn dò của bà đối với cháu:

"Vẫn vững lòng, bà dặn cháu đinh ninh:

Bố ở chiến khu, bố còn việc bố

Mày viết thư chớ kể này kể nọ

Cứ bảo ở nhà vẫn được bình yên!"

+ Bà đã gồng mình, lặng lẽ gánh vác mọi lo toan để các con yên tâm công tác

+ Bà không chỉ là chỗ dựa vững chắc cho hậu phương mà còn là điểm tựa vững chắc cho tiền tuyến.

\=> Bà đã góp phần làm ngời sáng vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ Việt Nam vốn giàu lòng vị tha, giàu đức hi sinh.

  1. Những suy ngẫm về bà và bếp lửa

Từ những kỉ niệm tuổi thơ được sống bên bà, nhận được sự yêu thương, đùm bọc của bà bên bếp lửa quê hương, người cháu suy ngẫm về cuộc đời bà và bếp lửa.

c.1. Những suy ngẫm về bà và bếp lửa

Trong bài thơ, trên dưới mười lần tác giả nhắc đến bếp lửa và hiện diện cùng bếp lửa là hình ảnh người bà, với vẻ đẹp tần tảo, nhẫn nại và đầy yêu thương. Và đến đây, tác giả đã dành một khổ thơ để nói lên những suy ngẫm về bếp lửa:

"Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen

Một bếp lửa lòng bà luôn ủ sẵn

Một ngon lửa chứa niềm tin dai dẳng..."

- Hình ảnh bếp lửa ở dòng thơ đầu là hình ảnh tả thực về sự vật hữu hình, cụ thể, gần gũi và gắn liền với những gian khổ của đời bà.

- Từ hình ảnh "bếp lửa" hữu hình, tác giả đã liên tưởng đến "ngọn lửa" vô hình "lòng bà luôn ủ sẵn" với ý nghĩa trừu tượng và khái quát:

+ Bếp lửa bà nhóm lên không chỉ bằng những nguyên liệu bên ngoài mà còn bằng chính ngọn lửa trong lòng bà – ngọn lửa của tình yêu thương, niềm tin vô cùng "dai dẳng", bền bỉ và bất diệt.

+ Ngọn lửa bền bỉ và bất diệt ngày ngày bà nhóm cũng chính là nhóm niềm vui, niềm tin, niềm yêu thương để nâng đỡ cháu trên suốt những chặng đường dài.

+ Bà không chỉ là người nhóm lửa, giữ lửa mà còn là người truyền lửa – ngọn lửa của sự sống, niềm tin cho các thế hệ nối tiếp.

\=> Chính vì cảm nhận, thấu hiểu được trong hình ảnh bếp lửa bình dị mà thân thuộc kia một sự kì diệu và thiêng liêng, nhà thơ đã thốt lên: "Ôi kì lạ và thiêng liêng – bếp lửa!"

- Các động từ "nhen", "ủ sẵn", "chứa" đã khẳng định ý chí, bản lĩnh sống của bà, cũng là của những người phụ nữ Việt Nam.

- Điệp ngữ - ẩn dụ "một ngọn lửa" cùng kết cấu song hành đã làm cho giọng thơ vang lên mạnh mẽ, đầy xúc động, tự hào.

\=>Thông qua những suy ngẫm về hình ảnh bếp lửa, tác giả đã khẳng định và ngợi ca vẻ đẹp tần tảo, nhẫn nại, đầy yêu thương của bà hiện lên lấp lánh như một thứ ánh sáng diệu kì.

c.2. Những suy ngẫm về bà và cuộc đời bà.

* Hình ảnh bà luôn gắn với hình ảnh bếp lửa, ngọn lửa. Bà là người nhóm lửa, cũng là người giữ cho ngọn lửa luôn ấm nóng và tỏa sáng. Để rồi mỗi khi nhớ lại, người cháu vô cùng cảm phục và biết ơn bà:

"Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa

Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ

Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm"

- Cụm từ chỉ thời gian "đời bà", "mấy chục năm" đi liền với từ láy tượng hình "lận đận" và hình ảnh ẩn dụ "nắng mưa" đã diễn tả một cách sâu sắc và trọn vẹn về cuộc đời đầy những lận đận, gian nan, vất vả của bà .

- Thời gian có thể trôi, mọi sự có thể biến đổi, song chỉ duy nhất một sự bất biến: Suốt cả một cuộc đời lận đận, vất vả, bà vẫn "giữ thói quen dậy sớm" để làm công việc nhóm lửa, nhóm lên niềm tin, tình yêu thương cho cháu

\=> Tình thương yêu tác giả dành cho bà được thể hiện trong từng câu chữ. Tình cảm ấy giản dị, chân thành mà sâu nặng thiết tha

* Bà không chỉ nhóm lửa bằng đôi tay khẳng khiu, gầy guộc, mà còn bằng tất cả tấm lòng đôn hậu "ấp iu nồng đượm" đối với cháu:

"Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm

Nhóm niềm yêu thương khoai sắn ngọt bùi

Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui

Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ"

- Điệp từ "nhóm" được nhắc lại bốn lần, đan kết với những chi tiết tả thực mang đến nhiều ý nghĩa và liên tưởng khác nhau:

+ "Nhóm bếp lửa", "nhóm nồi xôi gạo" là hình ảnh tả thực công việc của bà

+ "Nhóm niềm yêu thương", "nhóm dậy cả những tâm tình" là hình ảnh ẩn dụ về công việc thiêng liêng và cao quý nhất của con người. Bà đã khơi dậy trong tâm hồn cháu và những người xung quanh niềm yêu thương, sự chia sẻ.

\=> Có thể nói, cảm xúc của nhà thơ như dâng trào khi suy ngẫm về bà và bếp lửa. Khổ thơ như một sự tổng kết để ngợi ca, khẳng định về bà : Bà là người phụ nữ tần táo, giàu đức hi sinh, luôn chăm lo cho mọi người.

  1. Nỗi nhớ bà và bếp lửa

* Nỗi nhớ bà và bếp lửa gợi lên một thực tại, người cháu năm xưa đã lớn khôn, trưởng thành, đã được chắp cánh bay xa, được làm quen với những chân trời rộng lớn:

"Giờ cháu đã đi xa, có ngọn khói trăm tàu,

Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả,

Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở:

Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?"

- Dòng thơ đầu được ngắt thành hai câu để gợi sự chảy trôi của thời gian (từ 4 tuổi, 8 tuổi đến trưởng thành); gợi sự biến đổi của không gian (từ căn bếp của bà đến những khoảng chân trời rộng lớn)

- Điệp từ "trăm" mở ra một thế giới rộng lớn với bao điều mới mẻ.

- Điệp từ "có" kết hợp với thủ pháp liệt kê:

+ Cho thấy người cháu đã có những thay đổi lớn trong cuộc đời, đã tìm được bao niềm vui mới.

+ Khẳng định đứa cháu không thể quên được ngọn lửa của bà, tấm lòng đùm bọc, ấp iu của bà. Ngọn lửa ấy đã thành kỉ niệm ấm lòng, thành niềm tin thiêng liêng, kì diệu nâng bước người cháu trên suốt chặng đường dài.

\=> Khổ thơ chứa đựng đạo lí thủy chung, cao đẹp bao đời của người Việt: "uống nước nhớ nguồn". Đạo lí ấy được nuôi dưỡng ở mỗi tâm hồn con người từ thuở ấu thơ, để rồi như chắp cánh để mỗi người bay cao, bay xa trên hành trình cuộc đời.

3. Đánh giá nghệ thuật: Bài thơ đã kết hợp nhuần nhuyễn giữa biểu cảm với miêu tả tự sự và bình luận. Thành công của bài thơ còn ở sự sáng tạo hình ảnh bếp lửa gắn liền với hình ảnh người bà, làm điểm tựa khơi gợi một kỷ niệm, cảm xúc, suy nghĩ về bà và tình bà cháu.

C. Kết bài

Với "Bếp lửa" nhà thơ Bằng Việt thực đã dắt dẫn người đọc vào sâu trong mạch kể, mạch hồi tưởng của ông. Hồi ức đẹp một đi không trở lại của tuổi thơ được tái hiện không phải bằng một trí nhớ lan man, chắp vá. Trái lại, ở sâu trong tiềm thức của tác giả, hình ảnh "Bếp lửa" và "người bà" lúc nào cũng tỏa sáng lạ kì trở thành một điểm đi về trong cõi nhớ. Dòng suy tưởng và hoài niệm của người cháu xa quê nhà có lẽ đều được khởi nguồn từ những hình ảnh đầy giản dị mà thân thương, ấm áp vô cùng.