Bản thảo Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến được công nhân là gì

Thứ nhất, Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến khẳng định khát vọng hòa bình, ý chí và quyết tâm sắt đá bảo vệ nền độc lập, tự do của dân tộc. Trong lịch sử dựng nước và giữ nước, khát vọng hòa bình và mong muốn hòa bình để xây dựng đất nước là khát vọng cháy bỏng của dân tộc ta. Mở đầu Lời kêu gọi, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: “Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta lần nữa” [1]. Khát vọng hòa bình của nhân dân ta sẽ không bao giờ có được khi kẻ thù có dã tâm xâm lược nước ta. Nên Người xác định rõ ý chí, quyết tâm sắt đá của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta trong bảo vệ nền độc lập, tự do của dân tộc, trong khi, thành quả Cách mạng Tháng Tám vừa mới giành được. Người khẳng định: “Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ” [2]. Lời khẳng định đó là sự kết tinh của truyền thống hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc ta; là sự tiếp nối ý chí và quyết tâm “Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập” đã được Người khẳng định trong Tuyên ngôn độc lập.

Thứ hai, Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, là lời hịch cứu nước, có tác dụng cổ vũ, thôi thúc và động viên toàn dân nhất tề đứng lên đánh giặc. Để huy động sức mạnh, tiến hành cuộc kháng chiến toàn dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi “Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc” [3]. Lời hiệu triệu của Người là tiếng gọi thiêng liêng của non sông, đất nước, thôi thúc cả dân tộc bước vào cuộc chiến đấu mới để giành độc lập dân tộc.

Đáp lại Lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, toàn thể dân tộc đã nhất tề đứng lên kháng chiến với ý chí “Quyết tử để Tổ quốc quyết sinh”. Tại Hà Nội, sau hiệu lệnh nổ súng, Vệ quốc đoàn và Tự vệ đồng loạt tiến công các mục tiêu trong trung tâm Thành phố. Phối hợp với bộ đội, các tầng lớp nhân dân tích cực tham gia chiến đấu và phục vụ chiến đấu, tạo ra thế trận chiến tranh nhân dân rộng khắp chặn địch. Cùng với quân, dân Thủ đô, quân và dân các đô thị từ Bắc vĩ tuyến 16 trở ra, như: Đà Nẵng, Huế, Vinh, Nam Định, Hải Dương, Bắc Ninh, Bắc Giang,... cũng nổ súng tiến công giam chân địch trong các thành phố, thị xã, giành được thắng lợi bước đầu. Ở Nam Bộ, Nam Trung Bộ và Tây Nguyên, lực lượng vũ trang và nhân dân đẩy mạnh chiến tranh du kích, đánh phá kế hoạch bình định, kiềm chế không cho địch đưa lực lượng chi viện cho Trung Bộ và Bắc Bộ. Cuộc chiến đấu quyết liệt, anh dũng của quân và dân ta trong những ngày đầu toàn quốc kháng chiến đã giành được những thắng lợi quan trọng, làm thất bại chiến lược “đánh nhanh, thắng nhanh” của thực dân Pháp. Như vậy, Lời kêu gọi đã hiệu triệu, động viên và khơi dậy tinh thần yêu nước, ý chí kiên cường, bất khuất của toàn dân tộc để chúng ta làm nên những thắng lợi bước đầu, tạo nền tảng cho những chiến công oanh liệt về sau, đi đến kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của dân tộc.

Thứ ba, Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến đã phác họa những nét cơ bản về đường lối chống thực dân Pháp, góp phần chỉ đạo, định hướng cho cuộc kháng chiến giành thắng lợi. Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược bùng nổ trong tương quan lực lượng có lợi cho địch. Để giành thắng lợi, chúng ta phải lấy nhỏ đánh lớn, lấy ít địch nhiều. Nắm chắc vấn đề đó, với tầm nhìn thấu suốt, nên trong Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, Người đã vạch rõ những nét cơ bản của đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp đó là: Toàn dân, toàn diện, lâu dài và tự lực cánh sinh. Người chỉ rõ lực lượng tham gia kháng chiến là toàn dân tộc, bao gồm mọi tầng lớp, mọi lứa tuổi, không phân biệt tôn giáo, đảng phái; đánh Pháp bằng bất cứ thứ vũ khí gì có thể; đồng thời, Người cũng chỉ rõ cuộc chiến sẽ rất gian lao, lâu dài, phải trải qua gian khổ, hy sinh, nhưng thắng lợi cuối cùng “nhất định về dân tộc ta” đó là một tất yếu của lịch sử.

Thứ tư, lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến đã để lại những bài bài học sâu sắc cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng xác định: “…tập hợp, đoàn kết mọi người Việt Nam ở trong và ngoài nước, tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa nhân dân và Đảng, Nhà nước tạo sinh lực mới của khối đại đoàn kết toàn dân tộc” [4]. Theo đó, để thực hiện thành công mục tiêu trên, tạo sức mạnh to lớn cho công cuộc đổi mới, chúng ta cần quán triệt và từng bước hiện thực hóa mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, coi đó là điểm tương đồng để thống nhất về chính trị, tư tưởng trong toàn xã hội. Đồng thời, thực hiện đoàn kết mọi tầng lớp, lực lượng trong xã hội, trên nền tảng khối liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức; giải quyết hài hòa các lợi ích làm cơ sở cho sự ổn định, đoàn kết và thống nhất. Bên cạnh đó, một trong những yếu tố quan trọng là phải xây dựng bộ máy Nhà nước trong sạch, kiên quyết đấu tranh có hiệu quả bệnh quan liêu, tham nhũng, tạo lòng tin trong nhân dân vững chắc.

Trong điều kiện hiện nay, cần nêu cao tinh thần chủ động, cảnh giác cách mạng, kiên quyết giữ vững hòa bình, ổn định, tạo điều kiện thuận lợi cho sự nghiệp đổi mới, phát triển đất nước. Sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay chịu tác động sâu sắc từ những biến động mạnh mẽ và phức tạp của tình hình khu vực và quốc tế, nhất là sự chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch trên nhiều lĩnh vực, lại được che dấu trong các quan hệ kinh tế, thương mại, văn hóa, v.v. Do đó, yêu cầu đặt ra đối với chúng ta là phải luôn chủ động, tỉnh táo, cảnh giác, kết hợp chặt chẽ, linh hoạt giữa hợp tác với đấu tranh vì lợi ích cao nhất của đất nước. Phải phát huy sức mạnh tổng hợp, thế và lực để ngăn ngừa, đẩy lùi nguy cơ xung đột chiến tranh, kịp thời đối phó với những tình huống gây “đột biến”, cần có kế sách bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa; chủ động phòng ngừa, phát hiện sớm và triệt tiêu các nhân tố bất lợi. Có như vậy mới giữ vững được môi trường hòa bình, ổn định, góp phần tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong bối cảnh hội nhập vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Thứ năm, Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến còn là bài học sâu sắc đối với việc xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc hiện nay. Nền quốc phòng toàn dân trước hết được xây dựng vì mục đích hòa bình, giữ gìn sự ổn định để phát triển đất nước. Tư tưởng đó được kế thừa trong lịch sử dân tộc và được nâng lên tầm cao mới trong thời đại Hồ Chí Minh. Để có được hòa bình, “chúng ta phải nhân nhượng” và quyết “hy sinh tất cả” để bảo vệ độc lập khi Tổ quốc lâm nguy. Trong giai đoạn hiện nay, tinh thần đó tiếp tục gợi mở về những biện pháp linh hoạt, mềm dẻo trong quan hệ đối ngoại, hội nhập quốc tế. Đặc biệt, cần phải biết giữ vững nguyên tắc chiến lược, đồng thời linh hoạt về sách lược nhằm “thêm bạn, bớt thù”, tránh được các xung đột và chiến tranh, thực hiện hòa nhập nhưng không “hòa tan” trong quan hệ quốc tế. Vì vậy, xây dựng nền quốc phòng toàn dân trong điều kiện mới, đòi hỏi phải xây dựng toàn diện cả về tiềm lực, lực lượng và thế trận; trong đó, chú trọng xây dựng tiềm lực về chính trị, tinh thần, phát huy nhân tố con người là yếu tố có ý nghĩa quyết định nhất.

Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến tuy rất ngắn gọn, nhưng là văn kiện quan trọng, mang tính chỉ đạo không chỉ trong những ngày đầu, mà còn có tác dụng định hướng cho sự phát triển của cả cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp cũng như sau này. Trên cơ sở tư tưởng đó, kết hợp với hoạt động thực tiễn, Đảng ta từng bước hoàn chỉnh thành đường lối, chỉ đạo nhân dân tiến hành cuộc kháng chiến đi tới thắng lợi hoàn toàn và luôn có ý nghĩa giá trị lịch sử to lớn trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hôm nay và mai sau.

[1]. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng Toàn tập, tập 8, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2000, tr. 160.

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng Toàn tập, tập 8, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2000, tr. 160.

 . Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng Toàn tập, tập 8, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2000, tr. 160.

. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2016, tr. 159.

Đ.V.M

     Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, chấm dứt chế độ thực dân và phong kiến ở nước ta, mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử dân tộc, kỷ nguyên độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Tuy vậy đất nước ta lúc bấy giờ đứng trước hoàn cảnh thù trong, giặc ngoài. Phía Bắc hơn 20 vạn quân Tưởng, đi cùng là bọn Việt Quốc, Việt Cách với âm mưu "Diệt Cộng, cầm Hồ". Phía Nam, thực dân Pháp núp sau quân đội Anh vào giải giáp quân Nhật nhưng thực chất là muốn cướp nước ta lần nữa...Trong nước, giặc đói đã làm hơn 2 triệu đồng bào ta chết đói, hơn 95% dân số nước ta lúc đó mù chữ.
     Đứng trước dã tâm xâm lược nước ta của thực dân Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cùng với toàn Đảng và cả dân tộc sát cánh bên nhau, đưa ra nhiều kế sách nhằm hòa hoãn với Tưởng và sau đó là Pháp để xây dựng và củng cố lực lượng như: Ký với thực dân Pháp Hiệp định sơ bộ ngày 6/3/1946 và Tạm ước 14/9/1946. Nhưng với dã tâm xâm lược đất nước ta một lần nữa, cuối tháng 11/1946, quân Pháp đánh chiếm Hải Phòng, thị xã Lạng Sơn và Đà Nẵng. Tại Hà Nội, ngày 17/12, chúng phá các công sự của quân dân thủ đô ở phố Hàng Bún - Yên Ninh, gây đổ máu ở khu vực cầu Long Biên, Cửa Đông [Hà Nội]. Ngày 18/12/1946, tướng Louis Morlière gửi cho Chính phủ Việt Nam tối hậu thư đòi chiếm đóng Sở Tài chính, giải tán lực lượng tự vệ, bàn giao quyền kiểm soát an ninh ở Hà Nội. Quân Pháp đe dọa, nếu các yêu cầu trên không được thực hiện, chậm nhất sáng 20/12/1946, quân Pháp sẽ hành động. Trước tình hình hết sức căng thẳng và gấp rút, ngày 18 và 19-12-1946, tại làng Vạn Phúc [Hà Đông], Thường vụ Trung ương Đảng họp Hội nghị mở rộng do Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì. Để hiệu triệu toàn dân đứng lên chống Pháp và để có đường lối chung chỉ đạo thực tiễn, Hồ Chủ tịch đã thay mặt Trung ương Đảng, thay mặt Chính phủ viết Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến. Trong cuộc họp chiều ngày 19-12-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề nghị Hội nghị đóng góp ý kiến cho văn bản Người đã soạn thảo. Vào lúc 20 giờ ngày 19- 12-1946, tiếng đại bác từ pháo đài Láng hiệu lệnh toàn quốc kháng chiến được phát ra, cuộc kháng chiến chống xâm lược bùng nổ trên phạm vi cả nước. Sáng sớm ngày 20-12-1946, qua sóng phát thanh của Đài Tiếng nói Việt Nam, Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh được truyền đi cả nước với quyết tâm cao độ là đánh thắng giặc Pháp xâm lược, bảo vệ tổ quốc.

[Hình ảnh nhân dân thủ đô dựng chiến hào để cản bước tiến của thực dân Pháp]

     Nội dung Lời kêu gọi
     Mở đầu, Hồ Chí Minh viết: “Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta một lần nữa”. Khẳng định tính chính nghĩa của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp; Đây là cuộc chiến tranh giữ nước; đồng thời tố cáo tính chất phi nghĩa của cuộc chiến tranh do thực dân Pháp gây ra - kẻ xâm lược.
     Thông qua Lời kêu gọi, Người khẳng định quyết tâm kháng chiến bảo vệ nền độc lập của nhân dân ta. Lời kêu gọi viết: “Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ. Hỡi đồng bào! Chúng ta phải đứng lên!”  Đây chính là sự xuất phát điểm của truyền thống anh dũng bất khuất của dân tộc, khát vọng độc lập của nhân dân Việt Nam, “Thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu làm nô lệ”. Do vậy, Hồ Chí Minh kêu gọi: “Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc”.
     Cùng với kêu gọi toàn thể nhân dân tham gia kháng chiến, Hồ Chí Minh kêu gọi: Hỡi anh em binh sĩ, tự vệ, dân quân! Giờ cứu nước đã đến. Ta phải hy sinh đến giọt máu cuối cùng để giữ gìn đất nước”. Trong giờ phút cam go, Lời kêu gọi của Hồ Chí Minh với lực lượng vũ trang thể hiện tinh thần “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Đây chính là quan điểm rõ nhất của Hồ Chí Minh cho tinh thần đại đoàn kết dân tộc trong cuộc kháng chiến chống một kẻ thù xâm lược mạnh hơn mình trên tất cả các mặt.
     Đồng thời khẳng định tính tất yếu của thắng lợi cuối cùng chắc chắn thuộc về dân tộc Việt Nam. Kết thúc Lời kêu gọi, Hồ Chí Minh khẳng định một niềm tin tất thắng: “Dù phải gian lao kháng chiến, nhưng với một lòng kiên quyết hy sinh, thắng lợi nhất định về dân tộc ta". Việt Nam độc lập và thống nhất muôn năm! Kháng chiến thắng lợi muôn năm!”. Niềm tin của Hồ Chí Minh dựa vào cơ sở: “Chính ắt thắng tà”; dựa vào sức mạnh của chiến tranh nhân dân; quy luật vận động, phát triển biện chứng của chiến tranh cách mạng theo lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin; kinh nghiệm trong lịch sử kháng chiến chống xâm lược của nhân dân ta qua các thời kỳ lịch sử.
     Ý nghĩa của tác phẩm
     Trong tác phẩm Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến khẳng định khát vọng hòa bình, ý chí và quyết tâm sắt đá bảo vệ nền độc lập, tự do của dân tộc. Trong dòng chảy liên tục của lịch sử dựng nước và giữ nước, mong muốn hòa bình để dựng xây đất nước là khát vọng cháy bỏng của cả dân tộc Việt Nam. Khát vọng hòa bình của nhân dân ta sẽ không bao giờ có được khi kẻ thù có dã tâm xâm lược nước ta. Cho nên, Người khẳng định rõ ý chí, quyết tâm sắt đá của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta trong bảo vệ nền độc lập, tự do - thành quả của Cách mạng Tháng Tám vừa giành được: “Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”. Lời khẳng định đó là sự kết tinh của truyền thống hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam; là sự tiếp nối ý chí và quyết tâm “Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập” đã được Người khẳng định trong Tuyên ngôn độc lập.
     Có thể khẳng định, đây là lời hịch cứu nước, có tác dụng cổ vũ, thôi thúc và động viên toàn dân nhất tề đứng lên đánh giặc. Để huy động sức mạnh, tiến hành cuộc kháng chiến toàn dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi “Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc”. Lời hiệu triệu của Người là tiếng gọi thiêng liêng của non sông, đất nước, thôi thúc cả dân tộc bước vào cuộc chiến đấu mới.
Lời kêu gọi đã phác họa những nét cơ bản về đường lối chống thực dân Pháp, góp phần chỉ đạo, định hướng cho cuộc kháng chiến giành thắng lợi. Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược bùng nổ trong tương quan lực lượng có lợi cho địch. Để giành thắng lợi, chúng ta phải lấy nhỏ đánh lớn, lấy ít địch nhiều. Nắm chắc vấn đề đó, với tầm nhìn thấu suốt, nên trong Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vạch rõ những nét cơ bản của đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp: toàn dân, toàn diện, lâu dài và tự lực cánh sinh. Người chỉ rõ lực lượng tham gia kháng chiến là toàn dân tộc, bao gồm mọi tầng lớp, mọi lứa tuổi, không phân biệt tôn giáo, đảng phái; đánh Pháp bằng bất cứ thứ vũ khí gì có thể; đồng thời, Người cũng chỉ rõ cuộc chiến sẽ rất gian lao, lâu dài, phải trải qua gian khổ, hy sinh, nhưng thắng lợi cuối cùng “nhất định về dân tộc ta”.
     Hơn bảy mươi năm đã trôi qua, lời hịch thiêng liêng kêu gọi toàn dân tộc đoàn kết, đứng lên chiến đấu, giành chiến thắng trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp trường kỳ đã để lại những bài bài học sâu sắc cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng đã xác định: “phát huy mạnh mẽ mọi nguồn lực, mọi tiềm năng sáng tạo của nhân dân để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; lấy mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” làm điểm tương đồng; tôn trọng những điểm khác biệt không trái với lợi ích chung của quốc gia - dân tộc; đề cao tinh thần dân tộc, truyền thống yêu nước, nhân nghĩa, khoan dung để tập hợp, đoàn kết mọi người Việt Nam ở trong và ngoài nước, tăng cường quan hệ mật thiết giữa nhân dân với Đảng, Nhà nước, tạo sinh lực mới của khối đại đoàn kết toàn dân tộc”. Đồng thời, thực hiện đoàn kết mọi tầng lớp, lực lượng trong xã hội, trên nền tảng khối liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức; giải quyết hài hòa các lợi ích làm cơ sở cho sự ổn định, đoàn kết và thống nhất. Bên cạnh đó, một trong những yếu tố quan trọng là phải xây dựng bộ máy Nhà nước trong sạch, kiên quyết đấu tranh có hiệu quả bệnh quan liêu, tham nhũng, tạo lòng tin trong nhân dân.
     Trải qua lịch sử truyền thống của dân tộc, tiếp nối hào khí của bài thơ thần “Nam quốc sơn hà” thời Lý, “Hịch tướng sĩ” thời Trần, “Bình Ngô đại cáo” thời Lê Sơ,... Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến là một áng hùng văn bất hủ, chứa đựng những giá trị và tư tưởng mang tính thời đại, là lời hịch động viên cả nước đứng lên chiến đấu bằng thái độ kiên định và dứt khoát. Lời kêu gọi còn là bản cương lĩnh kháng chiến có tính khái quát cao, chứa đựng những quan điểm về đường lối chiến tranh nhân dân, toàn dân đánh giặc và khẳng định niềm tin tuyệt đối vào thắng lợi cuối cùng của cuộc kháng chiến. Những tư tưởng cơ bản đó cần tiếp tục nghiên cứu, vận dụng sáng tạo trong giai đoạn mới của cách mạng. Nhằm đưa sự nghiệp đổi mới của đất nước đi vào chiều sâu và phát triển bền vững đất nước.
                                                                                                                                       Chu Mai Phong
                                                                                                                         Trường Chính trị tỉnh Kon Tum
Lưu ý: tất cả các nội dung trích của tác phẩm "Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến" đã được in trong Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 4, trang 480, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội 1995

 

Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr. 158-159

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

 

 



 

Video liên quan

Chủ Đề