Bình đăng r giữa giới tính nam nữ là gì năm 2024

Hiện tại, Công đoàn Trung tâm liên kết đào tạo hiện có 12 thành viên, trong đó 04 công đoàn viên là nam, còn lại 08 công đoàn viên là nữ. Là đơn vị có tỉ lệ nữ giới cao, tập thể cán bộ, người lao động của Trung tâm luôn đoàn kết, sáng tạo và giúp đỡ nhau, nhất là đối với các công đoàn viên nữ để họ vừa hoàn thành tốt công việc ở cơ quan, vừa thực hiện thiên chức người vợ, người mẹ ở gia đình. Công đoàn Trung tâm liên kết đào tạo đã tham gia đầy đủ các hoạt động phong trào do Công đoàn trường tổ chức và đạt giải Khuyến khích cuộc thi “Nét đẹp công sở” năm 2018 vừa qua.

TS. Nguyễn Thị Thu - Giảng viên Khoa Lý luận cơ sở

1 . Một số quan niệm

* Bình đẳng giới

Bình đẳng giới là tình trạng không có sự phân biệt đối xử trên cơ sở giới tính (về quyền, trách nhiệm và cơ hội). Nhờ vậy, nữ giới và nam giới được tôn trọng ngang nhau, được tiếp cận các nguồn lực như nhau, được hưởng thụ thành quả như nhau, có cơ hội và điều kiện như nhau để nhận biết được các quyền con người của mình và khả năng đóng góp của bản thân vào sự phát triển kinh tế, văn hóa, chính trị, xã hội của đất nước.

Bình đẳng giới là một trong những quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân Việt Nam được quy định cụ thể trong các văn bản quy phạm pháp luật và trong các Công ước Quốc tế mà Việt Nam đã tham gia ký kết. Theo Khoản 3, Điều 5 Luật Bình đẳng giới đã được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XI, kỳ họp thứ 10 thông qua ngày 29 tháng 11 năm 2006: “Bình đẳng giới là việc nam, nữ có vị trí, vai trò ngang nhau, được tạo điều kiện và cơ hội phát huy năng lực của mình cho sự phát triển của cộng đồng, của gia đình và thụ hưởng như nhau về thành quả của sự phát triển đó”.

Có ba kiểu quan niệm về bình đẳng giới, đó là bình đẳng giới kiểu hình thức, bình đẳng giới kiểu bảo vệ, bình đẳng giới kiểu thực chất.

Bình đẳng giới kiểu hình th ức. Đây là kiểu bình đẳng giới xuất phát từ quan niệm coi nam và nữ là giống như nhau, không để ý đến sự khác biệt về mặt sinh học cũng như sự khác biệt do xã hội quy định. Quan niệm bình đẳng giới kiểu hình thức cho rằng, nữ có thể tiếp cận các cơ hội giống như cách tiếp cận của nam nên thường chọn cách đối xử với nam và nữ giống hệt nhau. Do vậy, xét về bản chất, kiểu quan niệm này tạo thêm gánh nặng cho nữ giới, buộc họ phải thể hiện mình theo cách của nam giới.

Bình đẳng giới kiểu bảo vệ. Đây là kiểu bình đẳng giới nhận diện được sự khác biệt giữa nam và nữ, nhưng cho rằng cần tập trung xem xét các điểm yếu của nữ để tạo ra những sự đối xử khác biệt. Quan niệm này dẫn đến việc cố gắng tạo ra những “vỏ bọc bảo vệ nữ giới”, chẳng hạn như các chính sách, quy định, biện pháp…dành riêng cho nữ giới, giới hạn nữ giới tham gia một số lĩnh vực hoạt động được coi là không phù hợp với nữ giới. Các biện pháp tiếp cận bình đẳng giới kiểu bảo vệ có thể phát huy tác dụng bảo vệ nữ giới trong một số bối cảnh không gian và thời gian đặc thù nhất định. Tuy nhiên, việc thực hiện bình đẳng giới theo quan niệm này thực ra là cản trở quyền tự do lựa chọn của nữ giới. Nữ giới có thể bị tước đi hàng loạt cơ hội phát triển khiến tình trạng bất bình đẳng giới ngày càng trở nên trầm trọng. Nhìn chung, quan niệm này củng cố khuôn mẫu định kiến giới và không dẫn đến biến đổi xã hội theo hướng bình đẳng hơn.

Bình đẳng giới kiểu thực chất đó là nhận rõ sự khác biệt giữa nam giới và nữ giới về sinh học và sự khác biệt xã hội do lịch sử để lại. Do vậy quan niệm này chú ý đến bình đẳng trong pháp luật và bình đẳng trong thực tế, tập trung điều chỉnh các môi trường có ảnh hưởng tiêu cực đối với cả nam giới và nữ giới, đồng thời chú ý tạo sự bình đẳng cho cả nam giới và nữ giới về cơ hội, tiếp cận cơ hội và hưởng thụ cơ hội. Kiểu quan niệm này kết quả mang lại là rất lớn.

* Phát triển

Theo Tuyên bố về quyền phát triển của Liên Hợp quốc: “phát triển là một quá trình toàn diện về chính trị, văn hóa, xã hội và kinh tế nhằm cải thiện một cách liên tục và vững chắc sự phồn vinh của toàn thể dân chúng và của mọi cá nhân, dựa trên sự tham gia có ý nghĩa tự do và tích cực của họ vào sự phát triển và vào việc phân phối một cách công bằng những lợi ích phát sinh từ sự phát triển đó”.

2. Mối quan hệ giữa bình đẳng giới và phát triển

Với cách hiểu bình đẳng giới là tình trạng không có sự phân biệt đối xử trên cơ sở giới tính về cả quyền, trách nhiệm và cơ hội cho thấy bình đẳng giới đóng vai trò vô cùng quan trọng cho quá trình phát triển. Đồng thời, các kết quả phát triển chắc chắn có tác động mạnh mẽ đến tình hình bình đẳng giới. Theo Báo cáo khoảng cách giới toàn cầu năm 2022 do Diễn đàn kinh tế thế giới công bố vào tháng 7/2022, chỉ số xếp hạng về bình đẳng giới của Việt Nam năm 2022 là 83/146 quốc gia, tăng 4 bậc so với năm 2021 (năm 2021 Việt Nam xếp thứ 87/144 quốc gia), trong đó các chỉ số về trao quyền cho phụ nữ, lĩnh vực sức khỏe và giáo dục có những bước tiến bộ rõ rệt. Mối quan hệ giữa bình đẳng giới với phát triển nói chung và ở Việt Nam nói riêng được thể hiện trên nhiều góc độ khác nhau, trong bài viết này tác giả tiếp cận mối quan hệ này trên hai góc độ:

Thứ nhất, bình đẳng giới với phát triển kinh tế - xã hội.

Trong những năm qua, phụ nữ Việt Nam đã khẳng định được vai trò và vị thế của mình trong xã hội. Không chỉ là những người phụ nữ nội trợ của gia đình mà rất nhiều phụ nữ đã nỗ lực vươn lên nắm giữ nhiều vị trí quan trọng trong bộ máy của chính quyền cũng như làm chủ doanh nghiệp. Trong các ngành công nghiệp có nhiều sáng kiến cải tiến kỹ thuật, tăng năng suất, chất lượng; trong ngành giáo dục các nữ trí thức, nhà khoa học say mê nghiên cứu, ứng dụng khoa học, tham gia chủ trì nhiều đề tài là cơ sở hoạch định chính sách; đội ngũ nữ doanh nhân năng động, sáng tạo, vượt khó, tạo việc làm cho hàng triệu lao động…

Những kết quả trên cho thấy bình đẳng giới sẽ tạo điều kiện cho phụ nữ tham gia và đóng góp ngày càng nhiều vào các thành tựu của sự phát triển kinh tế - xã hội và ngược lại, những thành tựu đó càng chứng tỏ vấn đề bình đẳng giới ngày càng được thực hiện tốt hơn.

Tuy nhiên, với quan niệm “thiên chức” của người phụ nữ là sinh đẻ và chăm sóc con cái vẫn đang phổ biến. Trách nhiệm chăm sóc và việc nhà không được trả lương là nguyên nhân gốc rễ tạo nên khoảng cách giới trong các lĩnh vực như phát triển sự nghiệp, thu nhập trong suốt vòng đời và vai trò lãnh đạo của phụ nữ.

Mặc dù nam giới thường hay làm các công việc phi chính thức cao hơn phụ nữ với tỷ lệ lần lượt là 78,9% và 67,2%, nhưng tỷ lệ này đối với cả hai giới lại cao đối với nhóm lao động không có việc làm bảo đảm và không có bảo hiểm xã hội. Phụ nữ chiếm tỷ lệ cao hơn trong nhóm lao động đóng góp cho kinh tế gia đình, đây là trường hợp của đa số phụ nữ làm nông nghiệp (85,9%). Hơn nữa, ước tính chỉ có khoảng 10% lao động giúp việc gia đình có hợp đồng lao động, khiến họ trở thành một trong những nhóm người lao động dễ bị bóc lột nhất ở Việt Nam.

Khoảng cách giới trong trả lương cao hơn cho nam giới vẫn còn tồn tại và hiện là 13,7% đối với lao động chính thức. Tổng cục Thống kê ước tính khoảng cách về giới trong thu nhập là 29,5%, trong đó chênh lệch ở khu vực thành thị là 21,5% và ở khu vực nông thôn là 35,2%. Phụ nữ làm việc với số giờ tương tự nam giới và không có sự khác biệt đáng kể về trình độ học vấn. Phụ nữ chiếm đa số trong các phân khúc được trả lương thấp hơn trên thị trường lao động và trong các công việc bán thời gian. Tuy nhiên, một phần của khoảng cách này cũng vẫn “chưa giải thích được” và phản ánh sự phân biệt đối xử mang tính cấu trúc và do “tình thế bất lợi trong công việc khi làm mẹ” được lũy kế đối với phụ nữ. Phụ nữ dân tộc thiểu số làm công ăn lương có mức thu nhập thấp hơn 17% so với nam giới.

Thứ hai, bình đẳng giới với vấn đề phụ nữ tham gia ngày càng nhiều vào lĩnh vực chính trị.

Trong lĩnh vực chính trị, phụ nữ tham gia cấp ủy, cơ quan hành chính Nhà nước các cấp đều tăng cả về số lượng và chất lượng. Sau 10 năm thực hiện Chiến lược Bình đẳng giới (thực hiện mục tiêu quốc gia về bình đẳng giới năm giai đoạn 2011-2020), Việt Nam đã thu được nhiều kết quả đáng khích lệ, góp phần thu hẹp khoảng cách giới trong các lĩnh vực, đóng góp tích cực vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Điều đó thể hiện ở việc tăng cường sự tham gia của phụ nữ vào các vị trí lãnh đạo, quản lý nhằm từng bước giảm dần khoảng cách giới trong lĩnh vực chính trị. Báo cáo số 362/BC-CP ngày 18/8/2020 của Chính phủ về việc thực hiện mục tiêu quốc gia về bình đẳng giới năm 2019 và giai đoạn 2011-2020 cho thấy, tỷ lệ nữ giới tham gia các cấp ủy Đảng khóa sau đã tăng hơn khóa trước. Cụ thể: Tỷ lệ nữ giới tham gia Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI là 8,62%, các Đảng bộ trực thuộc Trung ương là 11,4%, cấp huyện là 14% và cấp cơ sở là 18,1%; tới khóa XII, các tỷ lệ tương ứng đạt lần lượt là 10%, 13,3%, 14,3% và 19,07%. Nhiệm kỳ 2015-2020, lần đầu tiên có 3 đồng chí nữ là Ủy viên Bộ Chính trị (đạt tỷ lệ 15,78%). Tỷ lệ nữ tham gia Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII chiếm tỷ lệ 9,5%. Tỷ lệ nữ đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2016-2021 đều tăng so với nhiệm kỳ 2010-2015 ở cả 3 cấp tỉnh, huyện và xã. Nhiệm kỳ 2010-2015, tỷ lệ nữ đại biểu HĐND cấp tỉnh là 25,17%, cấp huyện 24,62%, cấp xã 21,71%; tỷ lệ này đã được nâng lên ở nhiệm kỳ 2016-2021 tương ứng là 26,54%, 27,85% và 26,59%. Đến cuối nhiệm kỳ 2011-2015, tỷ lệ UBND các cấp có lãnh đạo chủ chốt là nữ ở cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã lần lượt là: 32,14%; 32,64%; 21,95%.

Trong cuộc bầu cử năm 2021, tỉ lệ ứng cử viên nữ chiếm 45,38% tổng số và tỷ lệ nữ Đại biểu quốc hội đã tăng lên 30,26% - là lần đầu tiên tỷ lệ tham gia của phụ nữ vượt quá 30% và là mức cao nhất kể từ năm 1976. Đây là minh chứng rõ nét cho những nỗ lực trong thực hiện bình đẳng giới ở Việt Nam để có được kết quả phụ nữ tham gia ngày càng nhiều vào lĩnh vực chính trị. Những thành tựu này sẽ là nền tảng vững chắc để các cấp, ngành tiếp tục duy trì và phát huy hơn nữa trong việc thực hiện các mục tiêu quốc gia bình đẳng giới trong giai đoạn tới.

3. Quan điểm của Đảng ta trong vấn đề bình đẳng giới với phát triển

Ngày 29/7/1980, Việt Nam ký kết tham gia Công ước Xoá bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ (CEDAW) và được Quốc hội phê chuẩn ngày 27/11/1981. Nguyên tắc bình đẳng nam nữ đã được thể hiện nhất quán, liên tục trong các bản Hiến pháp của Nhà nước Việt Nam, kể cả trước và sau khi tham gia công ước CEDAW. Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta luôn thể hiện rõ quan điểm gắn việc thực hiện mục tiêu phát triển với giải quyết các vấn đề bình đẳng giới.

Trong Chỉ thị số 44-CT/TW ngày 7/6/1984 của Ban Bí thư về “ Một số vấn đề cấp bách trong công tác cán bộ nữ" chỉ rõ: “Nhiều cấp ủy đảng và lãnh đạo các ngành buông lỏng việc chỉ đạo thực hiện các nghị quyết của Đảng về công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nữ, còn tư tưởng phong kiến, coi thường phụ nữ, đối xử thiếu công bằng với chị em...". Tiếp đó, Ban Bí thư Trung ương Đảng ra Chỉ thị số 37-CT/TW về "Một số vấn đề công tác cán bộ nữ trong tình hình mới” (16/5/1994), trong đó xác định rõ: "Nâng cao tỷ lệ cán bộ nữ tham gia quản lý nhà nước, quản lý kinh tế - xã hội là yêu cầu quan trọng để thực hiện quyền bình đẳng, dân chủ của phụ nữ, là điều kiện để phát huy tài năng, trí tuệ và nâng cao địa vị xã hội của phụ nữ. Chống những biểu hiện lệch lạc, coi thường phụ nữ, khắt khe, hẹp hòi trong đánh giá, đề bạt cán bộ nữ"…

Đại hội lần thứ X của Đảng (2006) tiếp tục khẳng định: “Nâng cao trình độ mọi mặt và đời sống vật chất, tinh thần thực hiện bình đẳng giới. Tạo điều kiện để phụ nữ thực hiện tốt vai trò của người công dân, người lao động, người mẹ, người thầy đầu tiên của con người. Bồi dưỡng, đào tạo để phụ nữ tham gia ngày càng nhiều vào các hoạt động xã hội, các cơ quan lãnh đạo và quản lý ở các cấp. Chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ bà mẹ, trẻ em. Bổ sung và hoàn chỉnh các chính sách về bảo hộ lao động, bảo hiểm xã hội, thai sản, chế độ đối với lao động nữ. Kiên quyết đấu tranh chống các tệ nạn xã hội và các hành vi bạo lực, xâm hại và xúc phạm nhân phẩm phụ nữ”. Ngày 27/4/2007, Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 11-NQ/TW về “Công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đây là Nghị quyết được ban hành sau hơn 10 năm thực hiện Chỉ thị số 37-CT/TW về công tác cán bộ nữ và trong bối cảnh Việt Nam đang đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập kinh tế thế giới. Nghị quyết đề ra mục tiêu: "Phấn đấu đến năm 2020, phụ nữ được nâng cao trình độ về mọi mặt, có trình độ học vấn chuyên môn, nghiệp vụ đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế; có việc làm, được cải thiện rõ rệt về đời sống vật chất, văn hóa, tinh thần; tham gia ngày càng nhiều hơn công việc xã hội, bình đẳng trên mọi lĩnh vực; đóng góp ngày càng lớn hơn cho xã hội và gia đình, phấn đấu để nước ta là một trong các quốc gia có thành tựu bình đẳng giới tiến bộ nhất của khu vực".

Ngày 16/3/2015, Ban Bí thư ra Thông báo kết luận số 196-TB/TW về Đề án “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác bình đẳng giới và vì sự tiến bộ của phụ nữ trong tình hình mới” tiếp tục thể hiện sự quan tâm của Đảng, Nhà nước Việt Nam về công tác phụ nữ, về vấn đề bình đẳng giới và phát triển. Đề án thông qua việc triển khai một số giải pháp bảo đảm thực hiện bình đẳng giới, góp phần nâng cao vị thế của phụ nữ và giảm khoảng cách giới trong một số lĩnh vực, ngành, vùng, địa phương có bất bình đẳng giới hoặc có nguy cơ bất bình đẳng giới cao.

Tại Đại hội Đại biểu lần thứ XIII, trong định hướng và chiến lược phát triển đất nước giai đoạn 2021-2030 Đảng ta đã khẳng định về sự cần thiết phải tiếp tục nắm vững và giải quyết tốt các mối quan hệ lớn, trong đó có mối quan hệ giữa phát triển kinh tế và thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội (trong đó bao gồm cả công bằng giới). Đảng ta khẳng định: “thực hiện đồng bộ và toàn diện các giải pháp phát triển thanh niên, bình đẳng giới và vì sự tiến bộ của phụ nữ. Giảm dần khoảng cách giới trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và gia đình”1.

Những vấn đề cụ thể nhằm thực hiện bình đẳng giới cũng được đề cập trong Báo cáo chính trị trình Đại hội XIII của Đảng như: “Nâng cao chất lượng dịch vụ chăm sóc sức khoẻ, bảo vệ và chăm sóc sức khoẻ bà mẹ, trẻ em”2. Đảng ta cũng đưa ra các biện pháp thực hiện bình đẳng giới trong những năm tiếp theo, đó là: “Phát huy truyền thống, tiềm năng, thế mạnh và tinh thần làm chủ, khát vọng vươn lên của các tầng lớp phụ nữ. Xây dựng người phụ nữ Việt Nam thời đại mới. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nữ, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững và hội nhập quốc tế. Tăng cường các chương trình phát triển, hỗ trợ cập nhật tri thức, kỹ năng cho phụ nữ có hoàn cảnh khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi. Hoàn thiện và thực hiện tốt luật pháp, chính sách liên quan đến phụ nữ, trẻ em và bình đẳng giới. Kiên quyết xử lý nghiêm theo pháp luật các tệ nạn xã hội, các hành vi bạo lực, mua bán, xâm hại phụ nữ, trẻ em”.

Trong Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2021 - 2030 đã đề ra Mục tiêu tổng quát “Tiếp tục thu hẹp khoảng cách giới, tạo điều kiện, cơ hội để phụ nữ và nam giới tham gia, thụ hưởng bình đẳng trong các lĩnh vực của đời sống xã hội, góp phần vào sự phát triển bền vững của đất nước”.

Với những nỗ lực không ngừng nghỉ trong suốt nhiều năm qua, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu trong công tác bình đẳng giới, được thế giới công nhận là một trong 10 quốc gia thực hiện tốt nhất mục tiêu số 5 về thúc đẩy bình đẳng giới và trao quyền cho tất cả phụ nữ và trẻ em gái trong các mục tiêu phát triển bền vững của Liên hợp quốc. Những thành tựu đạt được cũng trở thành tiền đề, thành động lực mạnh mẽ để Việt Nam tiếp tục thực hiện các mục tiêu về bình đẳng giới, góp phần đạt được các Mục tiêu phát triển bền vững đến năm 2030. Những thành tựu của hơn 35 đổi mới của đất nước hôm nay có sự đóng góp to lớn của phụ nữ Việt Nam. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu tốt đẹp mà nỗ lực đạt các mục tiêu bình đẳng giới đem lại, phụ nữ và trẻ em gái vẫn là những đối tượng yếu thế, dễ bị tổn thương trước các nguy cơ cũng như cần có thêm nhiều hơn nữa các cơ hội bình đẳng. Vẫn còn tồn tại vấn nạn ngược đãi phụ nữ, nhất là ở những vùng dân trí chưa cao, định kiến về giới vẫn còn tồn tại và gây nhiều thiệt hại không chỉ cho đối tượng yếu thế mà còn ảnh hưởng đến sự phát triển của xã hội. Chính vì thế mối quan hệ giữa bình đẳng giới với phát triển là vấn đề rất quan trọng. Bình đẳng giới được thực hiện tốt sẽ góp phần thúc đẩy sự phát triển trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, để phụ nữ có nhiều cơ hội hơn đóng góp vào sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, của địa phương, tham gia nhiều hơn vào lĩnh vực chính trị. Để đạt được bình đẳng giới thực chất đòi hỏi phải có sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, sự quan tâm của tất cả các cấp, các ngành và sự tham gia của tất cả mọi người trong xã hội./.


Tuyên bố về quyền phát triển, 1986 (Được Đại Hội đồng Liên Hợp Quốc thông qua theo Nghị quyết 41/128 ngày 4/12/1986).

Xem Tổng quan về Bình đẳng giới ở Việt Nam năm 2021, tr.25-26.

Báo cáo rà soát tình hình thực hiện Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011-2020, tr.23.

Tổng quan về Bình đẳng giới ở Việt Nam năm 2021, tr.22.

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H.2007, tập 53, tr.364.

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, H.2018, tập 66, tr.236

,2,3 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb.Chính trị quốc gia Sự thật, H.2021, t.I, tr.127, tr.151, tr.169.

Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2021 - 2030 (Ban hành kèm theo Nghị quyết số 28/NQ-CP ngày 03 tháng 3 năm 2021 của Chính phủ)