Chuyển hóa cơ bắp thành dạng cơ bền năm 2024

Cấu trúc cơ rất đa dạng và mỗi loại cơ đều có sự khác biệt nhất định về chức năng và khả năng phát triển. Sự phân bố của các sợi cơ cũng có sự khác nhau giữa mỗi người và hoạt động thể chất sẽ kích hoạt chức năng của từng sợi cơ tùy theo cơ địa của từng người.

Thực tế, có những người tập rất nhanh to, nhưng cũng có người tập luyện chăm chỉ nhưng cơ bắp chỉ chắc lại chứ không tăng nhiều về kích thước. Đó có thể là do bạn đã vô tình “bỏ quên” chế độ kích hoạt thích hợp của từng sợi cơ. Hiểu rõ về cấu tạo của sợi cơ sẽ cho phép bạn tự lên chương trình tập luyện phù hợp với bản thân, kích thích phát triển đồng đều các sợi cơ bắp.

Phân biệt các sợi cơ chính

Các sợi cơ được chia thành 2 loại bao gồm:

- Loại I: SỢI CƠ CHẬM – BỀN có màu đỏ

- Loại II: Sợi cơ NHANH – KHỎE có màu trắng. Trong đó, sợi cơ loại II được chia tiếp thành 2 loại nhỏ hơn là IIA và IIB.

Những sợi cơ này quyết định đến các đặc điểm cấu tạo cũng như loại hình hoạt động của cơ thể (VD: Những người có cấu tạo nhiều cơ loại I sẽ chạy bền tốt hơn những người có ít cơ này). Thông thường, 2 loại cơ I và II sẽ chiếm tỉ lệ 50/50 trong phần lớn cơ bắp của chúng ta theo cơ sở di truyền.

Sợi cơ loại I thường được kích hoạt trong tất cả các chuyển động, trong khi sợi cơ loại II chỉ được kích hoạt khi tập luyện cường độ cao vượt qua 1 giới hạn nhất định.

Chuyển hóa cơ bắp thành dạng cơ bền năm 2024

Loại I: Sợi cơ chậm bền (Slow Twitch)

Các cơ bền có màu đỏ (sợi cơ đỏ) mang lại hiệu quả hơn trong việc sử dụng oxy để làm nguyên liệu hoạt động (ATP) liên tục. Sợi cơ này có khả năng co và duỗi cơ trong 1 thời gian kéo dài, hoạt động bền bỉ hơn, lâu mệt hơn sợi cơ loại II trong 1 khoảng thời gian tương đối dài.

Vì thế, sợi cơ đỏ sẽ giúp các vận động viên chạy marathon và VĐV đua xe đạp cần vận động trong nhiều giờ liên tục. Sợi cơ này có cấu tạo dài và độ trương lực nhỏ.

Loại II: Sợi cơ nhanh khỏe (Fast Twitch)

Sợi cơ nhanh khỏe (sợi màu trắng) không sử dụng oxy làm nhiên liệu để hoạt động. Sợi cơ trắng hoạt động trong điều kiện yếm khí (không có oxy) và hoạt động hiệu quả trong thời gian ngắn với lực nhanh và mạnh và cũng nhanh mỏi hơn.

Những VĐV chạy nước rút hoặc VĐV cử tạ là điển hình tiêu biểu cho sự hoạt động của sợi cơ trắng. Sợi cơ này có cấu tạo ngắn và độ trương lực lớn.

Sợi cơ IIA

Đây là sợi cơ trung gian giữa loại I và loại II, sợi cơ này sử dụng đồng thời 2 quá trình ưa khí và yếm khí để tạo năng lượng hoạt động. Đặc điểm sơi cơ này có màu xám và đại diện cho cả sức chịu đựng lẫn sức mạnh.

Sợi cơ IIB

Đây là sơi cơ điển hình cho sức mạnh và tốc độ, sử dụng quá trình yếm khí để tạo ra năng lượng hoạt động. Sợi cơ này đặc điểm có màu trắng và đại diện cho sức mạnh.

Làm thế nào để kích hoạt từng sợi cơ?

Đến đây bạn đã hiểu được phần nào đặc điểm sinh học của sợi cơ bắp. Vấn đề quan trọng nhất là bạn cần xác định tỉ lệ các loại sợi cơ của mình và nhận định loại nào trội hơn, từ đó điều chỉnh chế độ tập luyện cho hợp lý.

Bạn có thể dùng 1RM để xác định tỷ lệ sợi cơ của mình. Có 3 trường hợp xảy ra khi bạn đã xác định được tỷ lệ sợi cơ của mình:

1) Sợi cơ trắng (Loại II) chiếm ưu thế:

Bạn có nền tảng rất tốt để tập thể hình. Nếu tập đúng cách và thực hiện dinh dưỡng đầy đủ thì tốc độ phát triển cơ bắp của bạn sẽ rất nhanh và kích thước cơ rất lớn. Để rèn luyện loại cơ này, bạn cần tập với số lần lặp lại vừa phải (4-8 lần/hiệp) và số hiệp cũng vừa phải (số hiệp nhiều quá sẽ ngăn cản quá trình phục hồi của bạn). Thời gian nghỉ giữa hiệp tương đối lâu (1-3 phút) để cơ thể kịp phục hồi và mức tạ đề xuất từ 80%-85% 1RM

2) Sợi cơ đỏ (Loại I) chiếm ưu thế:

Bạn đừng buồn vì dù tập chăm chỉ và tập lâu nhưng vẫn không to bằng những người khác, bởi cơ thể bạn nó đã quy định như vậy rồi. Nhưng bù lại bạn có 1 sức bền đáng ngưỡng mộ. Để cải thiện cơ bắp, bạn cần đẩy nhiều hiệp hơn và tăng số lần lặp lại (12-15 lần/hiệp, tập khoảng 4-5 hiệp), rút ngắn thời gian nghỉ giữa hiệp (30s-1 phút) để có thể tác động tối đa đến nhóm cơ này. Mức tạ đề xuất từ 70%-75% 1RM

3) Tỉ lệ 2 loại sợi cơ cân bằng (50/50):

Bạn nên tập luyện kết hợp cả 2 cách trên. VD: Đối với các bài tập nặng, bạn nên tập theo phương pháp 1 (squats, bench press) và những bài không thể tập nặng (bench flys), bạn nên tập theo phương pháp 2. Cách này sẽ tác động đến cả 2 loại sợi cơ mà bạn cần rèn luyện.

Tùy theo thể trạng của mỗi người mà cấu tạo và tỷ lệ các loại sợi cơ sẽ có đặc điểm khác nhau. Vì thế, chỉ cần bạn hiểu rõ cơ thể mình, bạn sẽ tự biết cách kích thích phát triển tốt nhất các khối cơ bắp của bản thân.

Cơ bắp được cấu tạo từ những mô cơ – là mô được cấu tạo từ những tế bào cơ biệt hóa cao, có khả năng co duỗi, được gọi là tế bào cơ hay sợi cơ. Nhờ có khả năng co duỗi mà mô cơ giúp cho một số cơ quan, bộ phận cơ thể và cả cơ thể vận động được.

Xem thêm:

  • kiến thức thể hình cơ bản
  • Các thuật ngữ trong thể hình

Có những loại cơ bắp nào?

Cơ vân

Cơ vân (còn gọi là cơ xương) là một trong ba loại cơ có trong cơ thể con người và nhiều động vật. Hầu hết các cơ xương, như tên gọi của nó chỉ ra, được gắn với cấu trúc xương và khi nó co giãn thì nó sẽ tạo ra các đáp ứng tương ứng cho việc chuyển động của xương. Quá trình co giãn của cơ xương được kích hoạt bởi các xung trong các nơron vận động gửi tới cơ, dưới quá trình tự điều khiển.

Chuyển hóa cơ bắp thành dạng cơ bền năm 2024

Cơ xương gồm nhiều bó sợi cơ xếp song song dọc theo chiều dài của cơ. Mỗi tơ cơ (myofibril) có một tế bào rất dài từ 10 đến 40 mm, đường kính từ 10 đến 80 micromet, có nhiều nhân, được bao bọc bởi màng sợi cơ (sarcolemma). Tế bào này gọi là sarcomere.

Cơ tim

Chuyển hóa cơ bắp thành dạng cơ bền năm 2024

Cơ tim là một cơ vân không tự chủ tạo thành mô chính của thành tim. Cơ tim tạo thành một lớp trung dày giữa lớp ngoài của thành tim (màng ngoài tim) và lớp bên trong (màng trong tim), với máu được cung cấp qua lưu thông mạch vành. Nó bao gồm các tế bào cơ tim cá nhân (cardiomyocytes) kết hợp với nhau bằng đĩa xen kẽ, được bọc bởi các sợi collagen và các chất khác tạo thành ma trận ngoại bào.

Cơ trơn

Chuyển hóa cơ bắp thành dạng cơ bền năm 2024

Cơ trơn (còn gọi là cơ tạng) là một trong ba loại cơ trong cơ thể con người và một số động vật (hai loại kia là cơ xương và cơ tim). Tập hợp các cơ trơn thường bao xung quanh các cơ quan rỗng hay các ống dẫn trong cơ thể bao gồm dạ dày, ruột, bàng quang, dạ con hay tử cung, mạch máu và các đường dẫn khí trong phổi.

Nguồn: https://vi.wikipedia.org/wiki/C%C6%A1_(sinh_h%E1%BB%8Dc)

Sacomere – đơn vị cơ bản của cơ bắp

Bên trong sarcomere bao gồm tập hợp hàng trăm protein dạng sợi, gọi là myofilament. Có 2 loại myofilament: Sợi myofilament dày gồm vài trăm phân tử protein gọi là myosin. Sợi myofilaments mỏng gồm hai chuỗi polymer dài cuộn lại với nhau hình xoắn ốc của một protein hình cầu gọi là actin. Các sarcomere được gắn với nhau theo chiều dọc để tạo thành một tơ cơ (myofibril).

Cơ bắp co duỗi như thế nào?

Có nhiều thuyết về co cơ, nhưng thuyết được thừa nhận hiện nay là thuyết trượt và lồng vào nhau giữa các sợi actin và myosin làm cho đơn vị co cơ ngắn lại do Szent – Gyorgyi đề xuất. Căn cứ của thuyết trượt là sự thay đổi cấu trúc – hình dạng của myosin và sự tương tác giữa myosin và actin trong quá trình co cơ. Phân tử myosin tồn tại dưới hai dạng, đó là dạng bền vững và dạng không bền vững. Có hai dạng như vậy là vì trong phân tử myosin có chứa ATP và ATPase. ATP và ATPse đều mang điện tích âm, giữa chúng có một lực tĩnh điện đẩy nhau, làm cho chuỗi polypeptid ở một đầu của phân tử myosin có dạng duỗi thẳng, đó là dạng không bền. Khi có mặt của ion Ca++, ATP ở đầu tự do của chuỗi polypeptit gắn với ADP có trên phân tử actin làm mất điện tích âm và lực tĩnh điện giữa ATPase và ATP, nên chuỗi polypeptit sẽ có dạng xoắn là dạng bền vững. Vùng chồng lên nhau giữa sợi dày và sợi mỏng sẽ tăng lên cho đến khi các sợi mỏng từ đĩa I ở hai phía của một đĩa A gặp nhau. Sự trượt này làm giảm chiều rộng của vùng H, thậm chí làm mất hoàn toàn vùng nầy (khi các sợi mỏng gặp nhau). Chuyển động của các sợi cũng kéo các vạch Z lại gần nhau và làm giảm nhanh chiều rộng của đĩa I. Chiều rộng của đĩa A chỉ thay đổi một ít vì vùng này tương ứng với các sợi dày còn chiều dài hầu như không đổi.

Chuyển hóa cơ bắp thành dạng cơ bền năm 2024

Như vậy, học thuyết về sự trượt của các sợi (sliding-filament theory) giải thích được những thay đổi có thể thấy trong sarcomer. Các ảnh hiển vi điện tử cho thấy có những cầu nối (cross-bridge) nhỏ giữa các sợi dầy và mỏng. Mỗi sợi dầy là một bó của các phân tử myosin, mỗi phân tử có một đuôi dài và hai đầu hình cầu. Các nghiên cứu khác cũng cho thấy vùng đầu có hoạt tính gắn với actin và thủy phân ATP, chứng tỏ rằng chúng là các cầu nối

Chuyển hóa cơ bắp thành dạng cơ bền năm 2024

Theo học thuyết trượt thì cầu nối hoạt động như một cái móc cho phép các sợi myosin kéo các sợi actin. Ðầu của myosin uốn cong về phía actin móc lên nó tại một điểm tiếp nhận đặc biệt, thành lập cầu nối rồi lại cong theo hướng khác, kéo sợi actin theo. Sau đó đầu myosin lại di chuyển cong ngược về hướng ban đầu, móc vào sợi actin tại một điểm tiếp nhận mới, rồi lại kéo… Năng lượng cần thiết cho chuyển động của cầu nối là do sự thủy phân ATP.

Chuyển hóa cơ bắp thành dạng cơ bền năm 2024

Sợi cơ bắp có mấy loại

Chuyển hóa cơ bắp thành dạng cơ bền năm 2024
Cơ bắp nhuộm trong phòng thí nghiệm để phân loại bao nhiêu phần trăm loại I và các sợi cơ Type II tồn tại trong cơ bắp. Trong bức tranh này, các Trong bức tranh này, các sợi cơ loại I là màu đen và sợi cơ Type II là màu xám ánh sáng (Type IIA) và màu xám đậm (Type IIX).

Sợi cơ có hai loại cơ bản: loại I (còn gọi là sợi chậm) và Loại II (còn gọi là sợi nhanh). Bên cạnh đó, mỗi người trong số các loại có phân nhóm khác nhau. Tỷ lệ loại I và các sợi loại II khác nhau trong cơ thể mỗi người và trong mỗi loại cơ bắp. Một cá nhân không thể làm thay đổi tỷ lệ loại I hoặc sợi cơ Type II người đó sở hữu. Cũng không thể làm tăng đáng kể số lượng sợi cơ mà người đó có mặc dù các cuộc tranh luận dài về hypertrophy (tăng kích thước sợi cơ bắp) so với hyperplasia (tăng về số lượng sợi cơ bắp) nổ ra vào những năm 1970 và 1980. Sự khác biệt trong thành phần sợi cơ này là do thiên hướng di truyền mặc dù việc tập luyện có thể gây ra một sự thay đổi nhỏ trong thành phần loại chất xơ.

Sợi cơ ôxy hóa co chậm

Type I:

Khả năng kháng lại chấn thương và nhức mỏi rất tốt, nhưng khả năng sinh lực rất kém. Loại sợi này có màu đỏ. Khi vận động theo quá trình háo khí (aerobic path way), cơ thể sẽ sử dụng phần lớn loại cơ này.

Sợi cơ ôxy hóa co chậm (SO), hoặc sợi cơ loại I co chậm hơn, có đường kính nhỏ hơn, có nguồn cung cấp máu phát triển tốt hơn, có nhiều ty thể (mitochondria) hơn và đề kháng với sự mệt mỏi tốt hơn các sợi cơ co nhanh. Sợi cơ co chậm phản ứng khá chậm đối với sự kích thích thần kinh. Các enzym trên các đầu myosin chịu trách nhiệm bẻ gãy ATP gọi là myosin ATPase. Các sợi co chậm bẻ gãy ATP một cách chậm chạp vì đầu myosin có một dạng myosin ATPase chậm. Sự bẻ gãy ATP khá chậm có nghĩa là hoạt động cầu chữ thập diễn ra chậm chạp, cũng chính là điều làm cho cơ bắp co chậm. Hô hấp ưa khí là nguồn tổng hợp ATP chính trong cơ co chậm, và năng lực thực hiện hô hấp ưa khí được nâng cao do nguồn cung cấp máu dồi dào và sự có mặt của vô số ty thể. Chúng được gọi là các sợi cơ ôxy hóa vì năng lực tăng cường thực hiện sự hô hấp ưa khí của nó. Các sợi cơ co chậm cũng chứa một lượng lớn myoglobin, một sắc tố đậm giống như hemoglobin trong tế bào máu đỏ, là tế bào gắn ôxy và hoạt động như một nguồn dự trữ cơ dành cho ôxy khi máu không cung cấp một lượng đủ dùng. Myoglobin do đó tăng cường năng lực của các sợi cơ bắp trong việc thực hiện hô hấp ưa khí.

Các sợi cơ co nhanh

Type IIa:

Loại IIA sợi là những sợi cơ bắp thịt trắng nhanh. Những sợi này có lượng máu chảy ít hơn, có độ chịu mệt mỏi vừa phải để mệt mỏi và có thể xử lý một lượng công việc vừa phải. Chúng cần glycogen làm nhiên liệu và tham gia vào hầu hết các loại hoạt động thể chất như bóng rổ, bóng chày và bóng đá.

Type IIB hoặc IIx

Chúng thậm chí còn nhanh hơn và mạnh hơn loại IIa. Nhưng hoạt động kém hiệu quả hơn, mệt mỏi rất nhanh. Sợi IIx(fast-twitch glycolytic) thông qua tập luyện kháng lực hoặc tập sức bền khiến chúng bị oxy hoá trở thành sợi IIa(fast-twitch oxidative glycolytic). Sợi loại IIx được sử dụng cho các hoạt động trong thời gian rất ngắn đòi hỏi sức mạnh và sức mạnh đáng kể. Chúng còn được biết đến dưới tên gọi “cơ lười” bởi nó khá phổ biến ở những người lười vận động. Những người này khi cần cũng có thể chạy nhanh hoặc nâng vật gì đó trong trường hợp khẩn cấp. Đây là lúc những sợi “cơ lười” có ích. Chúng hoạt động hiệu quả về mặt trao đổi chất khi nghỉ ngơi nhưng vẫn cho phép bạn phản ứng với kích thích nếu cần thiết. Nếu bạn tập luyện thể dục, dù chỉ một chút, những sợi IIx đó sẽ nhanh chóng chuyển thành sợi IIa hữu ích hơn, bền hơn. Trong khoảng thời gian không hoạt động, chúng hoàn nguyên trở lại IIx.

Các nghiên cứu cho thấy 16% lượng cơ bắp của những người lười vận động là Type IIx. Một số giả thiết cho rằng do quá trình tiến hoá, người lười sẽ có nhiều cơ Type IIx (Cơ cực mạnh) để có thể ứng phó với những tình huống khẩn cấp.

Các sợi cơ co nhanh, cơ loại II, phản ứng nhanh đối với sự kích thích thần kinh và các đầu myosin của chúng có một dạng ATPase myosin nhanh, vốn cho phép chúng bẻ gãy ATP nhanh hơn các sợi cơ chậm. Điều này cho phép hoạt động cầu chữ thập (cross-bridge) của chúng giải phóng và hình thành nhanh hơn so với ở sợi cơ chậm. Các cơ chứa nhiều phần trăm các sợi cơ dạng này có nguồn cung cấp máu kém phát triển hơn các cơ bắp có chứa nhiều phần trăm sợi cơ chậm. Thêm vào đó, các sợi cơ co nhanh có rất ít myoglobin và có ty thể ít hơn và nhỏ hơn. Các sợi cơ co nhanh tích tụ nhiều glycogen và thích nghi tốt với sự thực hiện hô hấp ưa khí. Hô hấp ưa khí của các sợi cơ co nhanh, tuy nhiên, không thích nghi được với sự cung cấp lượng lớn ATP trong một khoảng thời gian dài. Các sợi cơ này có khuynh hướng co nhanh trong thời gian ngắn và mệt khá nhanh. Các sợi cơ co nhanh xuất phát từ hai nguồn, hai nguồn này được phân biệt chủ yếu do năng lực chuyển hóa của chúng. Hai loại là loại IIa, hay các sợi ôxy hóa glycolytic (FOG), và loại IIb, hay các sợi co nhanh glycolytic (FG) (xem bảng 9.5). Loại sợi IIa phụ thuộc vào cả sản phẩm ATP yếm khí và ưa khí, trong khi loại sợi IIb phụ thuộc đặc biệt chủ yếu vào sự thủy phân gluco yếm khí để cho ra sản phẩm ATP.

Sự phân bố các sợi cơ co chậm và nhanh

Các cơ bắp của nhiều động vật được cấu tạo chủ yếu từ các sợi chậm hoặc nhanh. Trong khi thịt trắng của gà hoặc ức chim/gà, vốn cấu tạo chủ yếu từ các sợi nhanh trông có vẻ rất trắng vì nguồn cung cấp máu của nó khá nghèo nàn và thiếu myoglobin. Các cơ bắp được thích nghi để co nhanh trong thời gian ngắn nhưng lại mau mệt. Thịt đùi gà hay ức vịt đỏ, hay sậm màu được cấu tạo từ các sợi co chậm và nhìn sậm màu hơn vì nguồn cung cấp máu phát triển tương đối tốt và có một lượng lớn myoglobin. Những cơ bắp này được thích nghi để co chậm trong trong thời gian dài hơn và lâu mệt hơn. Sự phân bố các sợi cơ co chậm và nhanh tương đồng với hành vi của những động vật này. Ví dụ, gà lôi có thể bay khá nhanh một quãng ngắn, và vịt bay chậm hơn qua một quãng đường dài hơn.

Ở người không có sự phân chia các sợi cơ nhanh và chậm rõ ràng ở từng cơ. Hầu hết các cơ có cả hai loại sợi, mặc dù số lượng của mỗi loại thay đổi tùy từng cơ. Cơ bắp lớn giữ tư thế chứa nhiều sợi chậm hơn, trong khi cơ bắp chi trên chứa nhiều sợi nhanh hơn.

Sự phân bố các sợi chậm và nhanh trong một cơ cho trước là khá cố định đối với từng cá nhân và rõ ràng là được thiết lập do quá trình phát triển. Những người là vận động viên chạy nước rút giỏi có các sợi cơ co nhanh nhiều hơn, trong khi những vận động viên chạy đường trường giỏi có phần trăm các sợi co chậm nhiều hơn ở chi dưới. Các vận động viên có khả năng thực hiện các bài tập yếm khí và ưa khí có khuynh hướng có hỗn hợp cân bằng hơn các sợi cơ co nhanh và chậm.

Tác động và bài tập

Chuyển hóa cơ bắp thành dạng cơ bền năm 2024

Các sợi chậm hay nhanh không thể dễ chuyển đổi sang loại khác mà không có sự tập luyện chuyên biệt. Tập luyện có thể tăng gia kích cỡ và năng lực của cả hai loại sợi cơ nhằm thực hiện động tác hiệu quả hơn. Các bài tập cường độ cao tạo ra sự hô hấp yếm khí, như nâng tạ, gia tăng sức mạnh và khối lượng cơ bắp và tạo ra sự làm cho lớn ra của các sợi cơ nhanh hơn là sợi cơ chậm. Bài tập ưa khí gia tăng hệ mạch của cơ và tạo ra sự làm lớn các sợi cơ chậm. Luyện tập các bài tập ưa khí có thể chuyển đổi các sợi cơ nhanh mệt nhanh (loại IIb) thành các sợi cơ nhanh đề kháng sự mệt mỏi (loại IIa). Thêm vào các thay đổi trong myosin, thì có một sự gia tăng số lượng ty thể trong các tế bào cơ và gia tăng nguồn cung cấp máu của chúng. Tập tạ sau một thời gian nghỉ ngơi có thể chuyển đổi một số sợi cơ bắp từ loại Iia thành loại Iib. Tuy nhiên, loại sợi I không thể chuyển đổi thành loại II được, và ngược lại. Thông qua sự tập luyện chuyên biệt, một người có nhiều sợi cơ co nhanh có thể chạy đường trường, và một người có nhiều sợi cơ co chậm có thể tăng gia tốc độ chạy của mình.

Một cơ sẽ gia tăng kích thước hay phì đại (hypertrophies), và gia tăng sức mạnh và sức bền để đáp ứng với tập luyện. Ngược lại, một cơ không được sử dụng sẽ giảm kích thước, hay teo lại (atrophies). Teo cơ các chi bị nẹp bột trong nhiều tuần là một ví dụ. Bởi vì số lượng tế bào cơ không thay đổi đáng kể trong suốt đời người, nên sự teo và phì đại cơ là do thay đổi kích cỡ của sợi cơ của từng cơ. Cũng như khi các sợi gia tăng kích cỡ, thì số sợi nguyên cơ (myofibrils) và các đốt sợi cơ (sarcomeres) gia tăng trong từng sợi cơ. Số nhân trong từng tế bào cơ gia tăng để đáp ứng với tập luyện và sau đó nối với các tế bào cơ xương. Những yếu tố khác như các mạch máu, mô liên kết, và ty thể, cũng gia tăng. Teo cơ do thiếu tập luyện làm giảm tất cả các yếu tố này mà không làm giảm số tế bào cơ. Tuy nhiên teo cơ nghiêm trọng, thí dụ như xuất hiện ở người già là người không thể nhanh chóng di chuyển các chi thì có sự giảm các tế bào cơ không thể hồi phục được và dẫn đến liệt.

Sức mạnh gia tăng của cơ được tập luyện sẽ mạnh hơn nếu sức mạnh đó chỉ dựa vào sự thay đổi trong kích cỡ của cơ. Một bộ phận của sự gia tăng sức mạnh là do năng lực của hệ thần kinh có thể huy động một lượng lớn đơn vị vận động đồng thời ở người được tập để thực hiện các động tác cùng với sự phối hợp thần kinh cơ tốt hơn. Thêm vào đó, các cơ được tập luyện luôn ít bị hạn chế bởi các lớp mỡ dư thừa. Các enzyme chuyển hóa gia tăng trong các sợi cơ phì đại, tạo ra khả năng lớn hơn trong việc hấp thu chất dinh dưỡng và sản phẩm ATP. Sức bền được cải thiện trong cơ được tập luyện một phần là kết quả của sự chuyển hóa được cải thiện, tuần hoàn máu được gia tăng đối với cơ đang vận động, số lượng mao mạch gia tăng, sự hô hấp hiệu quả hơn, và năng lực bơm của tim mạnh hơn.

Loại cơ bắp bám vào xương là gì

Loại cơ bắp bám vào xương được gọi là cơ vân hay cơ xương. Cơ xương được gắn bởi các sợi giống như dây gân với xương, chẳng hạn như ở chân, tay và mặt. Cơ xương được gọi là cơ vân vì chúng được tạo thành từ các sợi có sọc ngang khi quan sát dưới kính hiển vi. Những cơ này giúp giữ khung xương lại với nhau, tạo ra hình dạng cơ thể và giúp nó thực hiện các chuyển động hàng ngày (được gọi là cơ tự nguyện vì bạn có thể kiểm soát chuyển động của chúng). Chúng có thể co lại (rút ngắn hoặc thắt chặt) một cách nhanh chóng và mạnh mẽ, nhưng chúng dễ dàng bị mệt mỏi.

Cơ vân và cơ trơn

Cơ vân hay còn gọi là cơ xương gắn liền với xương và cho phép cơ thể chuyển động tự nguyện. Cơ trơn, tạo ra chuyển động không chủ ý, là một phần của thành thực quản, dạ dày, ruột, phế quản, tử cung, niệu đạo, bàng quang và mạch máu, cùng các bộ phận khác của cơ thể.

Mô cơ là gì

Mô cơ là một mô mềm cấu tạo nên các cơ trong cơ thể động vật và làm tăng khả năng co của cơ. … Điều này trái ngược với các thành phần hoặc mô khác trong cơ như gân hoặc perimysium. Nó được hình thành trong quá trình phát triển phôi thai thông qua một quá trình được gọi là quá trình phát sinh cơ.

Cơ trắng và cơ đỏ

Cơ đỏ và cơ trắng đều là cơ xương và thực hiện các chức năng khác nhau trong cơ thể. Cơ bắp đỏ được đặt tên như vậy bởi vì chúng dày đặc các mao mạch và giàu myoglobin và ty thể khiến nó có màu đỏ đặc trưng. Mặt khác, cơ trắng có ít ti thể và myoglobin hơn, tạo cho cơ một vẻ ngoài “trắng”. Công việc chủ đạo của một số cơ là để duy trì tư thế đứng hoặc co lại từ từ trong quá trình vận động, nhai hoặc thở. Các cơ như vậy có xu hướng chứa một tỷ lệ cao của hợp đồng chậm và chống mệt mỏi sợi có nồng độ myoglobin cao. Mao mạch màu đỏ cơ dày đặc hơn ở cơ trắng.

Myofibril là gì

Myofibril là một bào quan hình trụ dài được tìm thấy trong các tế bào cơ được tạo thành bởi hai hệ thống sợi ngang: sợi dày và sợi mỏng. Sợi mảnh được cấu tạo chủ yếu bởi actin; nó được buộc ở một đầu với đĩa Z, và xen kẽ với các sợi dày.

Tác dụng của cơ bắp

Tác dụng của cơ bắp hay tác dụng của cơ xương- cơ vân có 6 tác dụng chính sau:

  • di chuyển bộ xương
  • duy trì tư thế cơ thể
  • hỗ trợ các mô mềm
  • lối vào / lối ra của cơ quan bảo vệ
  • duy trì nhiệt độ cơ thể
  • lưu trữ chất dinh dưỡng

Sarcolemma là gì

Sarcolemma còn được gọi là myolemma, là màng tế bào của tế bào sợi cơ có vân. Nó bao gồm một lớp kép lipid và một lớp áo mỏng bên ngoài bằng vật liệu polysaccharide (glycocalyx) tiếp xúc với màng đáy.

Có mấy loại cơ

Có 3 loại cơ chính: Cơ vân/cơ xương, cơ trơn và cơ tim

Loại cơ bắp bám vào xương gọi là gì

Loại cơ bắp bám vào xương còn được gọi là cơ vân hay cơ xương, được gắn bởi các sợi dây giống như dây với xương, chẳng hạn như ở chân, tay và mặt. Cơ xương được gọi là cơ vân (phát âm: STRY-ay-ted) vì chúng được tạo thành từ các sợi có sọc ngang khi quan sát dưới kính hiển vi.