Cơ chế quy chụp là gì

X

This site uses cookies. By continuing, you agree to their use. Learn more, including how to control cookies.

Trong tâm lý học xã hội, qui kết là một quá trình suy luận tìm ra nguyên nhân của sự kiện hoặc hành vi. Trong đời thực, qui kết là điều chúng ta vẫn làm hằng ngày, thường là bản thân chúng ta cũng không nhận ra quá trình thực sự diễn ra đằng sau nó và những thiên kiến góp phần hình thành những suy luận này.

In social psychology, attribution is the process of inferring the causes of events or behaviors. In real life, attribution is something we all do every day, usually without any awareness of the underlying processes and biases that lead to our inferences.

Cơ chế quy chụp là gì
Nguồn: Pinterest

Ví dụ, trong một ngày bạn có thể thực hiện rất nhiều suy luận mang tính qui kết về hành vi của bản thân cũng như những người xung quanh.

For example, over the course of a typical day you probably make numerous attributions about your own behavior as well as that of the people around you.

Khi bị điểm thấp trong một bài kiểm tra, bạn có thể đổ lỗi cho giáo viên vì đã không giải thích đầy đủ về tài liệu học mà hoàn toàn gạt bỏ sự thật là bạn đã không học hành tử tế. Khi một bạn cùng lớp có điểm cao, bạn có thể sẽ qui kết quả tốt này là do ăn may, không bận tâm đến sự thật là anh ta đã học hành chăm chỉ.

When you get a poor grade on a quiz, you might blame the teacher for not adequately explaining the material, completely dismissing the fact that you didn’t study. When a classmate gets a great grade on the same quiz, you might attribute his good performance to luck, neglecting the fact that he has excellent study habits.

Tại sao có lúc việc quy kết chỉ tồn tại trong đầu chúng ta, có lúc lại thể hiện rõ ra bên ngoài? Một phần điều này có liên quan đến loại qui kết ta có thể sử dụng trong một tình huống nhất định. Các thiên kiến về mặt nhận thức cũng đóng một vai trò quan trọng.

Why do we make internal attributions for some things while making external attributions for others? Part of this has to do with the type of attribution we are likely to use in a particular situation. Cognitive biases often play major roles as well.

Qui kết hành vi thực sự tác động như thế nào lên cuộc sống của bạn? Các qui kết ta tạo ra mỗi ngày có một tầm hảnh hưởng quan trọng lên cảm xúc, cũng như cách ta suy nghĩ và liên kết với người khác.

What impact do attributions for behavior really have on your life? The attributions you make each and every day have an important influence on your feelings as well as how you think and relate to other people.

Các loại qui kết. Types of Attribution

Qui kết liên nhân: Khi kể lại một câu chuyện cho một nhóm bạn hay người quen, bạn có thể sẽ kể câu chuyện theo hướng có lợi nhất cho bản thân, giúp bản thân tỏa sáng nhất.

Interpersonal Attribution: When telling a story to a group of friends or acquaintances, you are likely to tell the story in a way that places you in the best possible light.

­– Qui kết dự đoán: Chúng ta cũng có xu hướng qui kết mọi thứ theo chiều hướng khiến chúng ta có thể dự đoán được tương lai. Nếu xe của bạn bị phá hoại, bạn có thể qui việc đó là do bạn đậu xe trong bãi gara xe nhất định nào đó. Kết quả là, bạn sẽ tránh bãi gara đó trong tương lai để xe mình không bị phá hoại nữa.

Predictive Attribution: We also tend to attribute things in ways that allow us to make future predictions. If your car was vandalized, you might attribute the crime to the fact that you parked in a particular parking garage. As a result, you will avoid that parking garage in the future in order to avoid further vandalism.

Qui kết giải thích: Chúng ta sử dụng loại quy kết này để giúp bản thân hiểu được những gì đang xảy ra trong thế giới quanh ta. Một số người có kiểu giải thích lạc quan, trong khi một số khác lại tỏ ra bi quan. Những người theo phong cách lạc quan thường qui kết các sự kiện tích cực là do các nguyên do ổn định, nội tâm, mang tính khái quát; và các sự kiện tiêu cực xuất hiện từ các nguyên nhân bất ổn, khởi nguồn từ bên ngoài và mang tính cụ thể. Những người bi quan lại qui những sự kiện tiêu cực là do các nguyên nhân tổng quan, ổn định từ bên trong còn các sự kiện tích cực là do những nguyên nhân cụ thể, bất ổn từ bên ngoài.

Explanatory Attribution: We use explanatory attributions to help us make sense of the world around us. Some people have an optimistic explanatory style, while others tend to be more pessimistic. People with an optimistic style attribute positive events to stable, internal and global causes and negative events to unstable, external and specific causes. Those with a pessimistic style attribute negative events to internal, stable and global causes and positive events to external, unstable and specific causes.

Các học thuyết về qui kết. Theories of Attribution

Các nhà tâm lý học cũng giới thiệu khá nhiều học thuyết khác nhau để giúp hiểu rõ hơn quá trình hoạt động của hành vi qui kết.

Psychologists have also introduced a number of different theories to help further understand how the attribution process works.

Thuyết “lý lẽ thường thức” của Heider.  Heider’s “Common Sense” Theory:

Trong cuốn sách The Psychology of Interpersonal Relations năm 1958, Fritz Heider phát biểu rằng con người quan sát người khác, phân tích hành vi của họ và dùng lý lẽ thông thường để lý giải những hành vi đó. Heider phân các lý giải này vào 1 trong hai loại: Qui kết bên ngoài hoặc qui kết bên trong. Qui kết bên ngoài là những qui kết đổ lỗi cho hoàn cảnh, qui kết bên trong là đổ lỗi cho bản tính hay đặc tính cá nhân bên trong mỗi người.

In his 1958 book The Psychology of Interpersonal Relations, Fritz Heider suggested that people observe others, analyze their behavior, and come up with their own commons sense explanations for such actions. Heider group these explanations into either external attributions or internal attributions. External attributions are those that are blamed on situational forces, while internal attributions are blamed on individual characteristics and traits.

Thuyết Suy luận tương ứng. Correspondent Inference Theory:

Năm 1965, Edward Jones và Keith Davis phát biểu rằng con người thường suy luận về người khác trong lúc họ thực hiện những hành động mang tính chủ đích hơn là do ngẫu nhiên. Khi ta nhìn thấy người khác hành động, ta sẽ nhìn vào sự tương quan giữa động lực và hành vi của đối tượng. Những suy luận này dựa trên mức độ chọn lựa, sự mong chờ hành vi diễn ra và hiệu quả của hành vi đó.

In 1965, Edward Jones and Keith Davis suggested that people make inferences about others in cases where actions are intentional rather than accidental. When people see others acting in certain ways, they look for a correspondence between the person’s motives and his or her behaviors. The inferences people then make are based on the degree of choice, the expectedness of the behavior, and the effects of that behavior.

Các lỗi và thành kiến qui kết. Attributional Biases and Errors

Thành kiến tự kỷ (tự đề cao bản thân) Self-Serving Bias

Hãy nghĩ về lần cuối cùng bạn nhận được điểm cao trong một kỳ thi. Bạn có thể sẽ qui kết thành công của mình là do các yếu tố bên trong bản thân. “Mình làm tốt vì mình thông minh” hay “Mình làm tốt vì mình đã học hành chăm chỉ và có sự chuẩn bị kỹ lưỡng” là những kiểu giải thích bạn có thể sử dụng để bào chữa cho kết quả bài kiểm tra.

Think about the last time you received a good grade on a psychology exam. Chances are that you attributed your success to internal factors. “I did well because I am smart” or “I did well because I studied and was well-prepared” are two common explanations you might use to justify your test performance.

Chuyện gì xảy ra nếu bạn bị điểm kém? Các nhà tâm lý học xã hội đã phát hiện ra rằng trong tình huống này, khả năng cao là bạn sẽ qui thất bại của mình cho các yếu tố bên ngoài. “Mình rớt vì thầy cô cho mấy câu “bẫy” hoặc “Phòng học nòng quá nên mình không thể nào tập trung được” là những ví dụ về những cái cớ học sinh thường viện tới để bão chữa cho kết quả tệ hại của mình.

What happens when you receive a poor grade, though? Social psychologists have found that in this situation, you are more likely to attribute your failure to external forces. “I failed because the teacher included trick questions” or “The classroom was so hot that I couldn’t concentrate” are examples of excuses a student might come up with to explain their poor performance.

Lưu ý rằng cả hai kiểu giải thích này đều đổ lỗi cho những yếu tố bên ngoài thay vì tự đứng ra chịu trách nhiệm cá nhân.

Notice that both of these explanations lay the blame on outside forces rather than accepting personal responsibility.

Các nhà tâm lý học gọi hiện tượng này là Thành kiến tự kỷ. Vậy tại sao chúng ta lại nghĩ thành công là do các đặc tính cá nhân và đổ lỗi cho các yếu tố tác động bên ngoài cho những thất bại? Các nhà nghiên cứu tin rằng việc qui kết các yếu tố bên ngoài là lý do cho thất bại hay nỗi thất vọng giúp cá nhân đối tượng bảo vệ được lòng tự trọng của mình.

Psychologists refer to this phenomenon as the self-serving bias. So why are we more likely to attribute our success to our personal characteristics and blame outside variables for our failures? Researchers believe that blaming external factors for failures and disappointments helps protect self-esteem.

Lỗi qui kết cho bản chất. The Fundamental Attribution Error

Khi nói về người khác, ta thường qui kết lý do từ các yếu tố bên trong như đặc trưng tính cách và không màng đến hoặc hạn chế các yếu tố bên ngoài. Hiện tượng này có xu hướng phổ biến, đặc biệt là trong những nền văn hóa đề cao tính cá nhân.

When it comes to other people, we tend to attribute causes to internal factors such as personality characteristics and ignore or minimize external variables. This phenomenon tends to be very widespread, particularly among individualistic cultures.

Các nhà tâm lý học gọi hiện tượng này là Lỗi qui kết cho bản chất; mặc dù các yếu tố thuộc về hoàn cảnh cũng có mặt nhưng ta thường tự động qui kết nguyên nhân xuất phát từ những đặc tính bên trong.

Psychologists refer to this tendency as the fundamental attribution error; even though situational variables are very likely present, we automatically attribute the cause to internal characteristics.

Lỗi qui kết cho bản chất lý giải tại sao con người ta lại thường đổ lỗi cho người khác vì những thứ ta không thể kiểm soát. Thuật ngữ Đổ lỗi cho nạn nhân thường được các nhà tâm lý học xã hội sử dụng để mô tả hiện tượng nơi con người đổ lỗi cho những nạn nhân vô tội trong các vụ tội phạm, cho là họ không may.

The fundamental attribution error explains why people often blame other people for things over which they usually have no control. The term blaming the victim is often used by social psychologists to describe a phenomenon in which people blame innocent victims of crimes for their misfortune.

Trong những trường hợp như vậy, người ta có thể buộc tội nạn nhân là không biết cách tự bảo vệ bản thân khỏi vụ việc bằng cách cư xử theo một cách thức nhất định nào đó hoặc không lưu tâm để tránh hay ngăn chặn sự việc.

In such cases, people may accuse the victim of failing to protect themselves from the event by behaving in a certain manner or not taking specific precautionary steps to avoid or prevent the event.

Ví dụ thường thấy cho hiện tượng này là các vụ hiếp dâm, bạo lực gia đình và những vụ bắt cóc. Tại đây, người ta đổ lỗi cho các nạn nhân, cho rằng họ có những hành vi khiêu khích kẻ tấn công. Các nhà nghiên cứu cho rằng Thành kiến Dự đoán theo sự việc đã xảy ra (Hiệu ứng ‘Biết tuốt’) khiến con người có niềm tin sai lệch rằng nạn nhân đáng lẽ phải dự đoán được sự việc sẽ xảy ra này và chuẩn bị những cách để phóng tránh.

Examples of this include accusing rape victims, domestic violence survivors and kidnap victims of behaving in a manner that somehow provoked their attackers. Researchers suggest that hindsight bias (also called “knew-it-all-along effect) causes people to mistakenly believe that victims should have been able to predict future events and therefor take steps to avoid them.

Thành kiến người thực hiện – Người quan sát. The Actor-Observer Bias

Điểm thú vị ở đây là khi lý giải hành vi của bản thân, ta thường có xu hướng có thành kiến đối nghịch với Lỗi qui kết cho bản chất ở trên. Khi một cái gì đó diễn ra, khả năng cao là ta sẽ đổ lỗi cho hoàn cảnh thay vì những đặc tính cá nhân. Trong tâm lý học, xu hướng này gọi là thành kiến người thực hiện – người quan sát.

Interestingly, when it comes to explaining our own behavior, we tend to have the opposite bias of the fundamental attribution error. When something happens, we are more likely to blame external forces than our personal characteristics. In psychology, this tendency is known as the actor-observer bias.

Làm thế nào để giải thích xu hướng này? Một lý do có thể đưa ra là chúng ta đơn giản có nhiều thông tin về hoàn cảnh hơn là thông tin về những người khác. Khi phải lý giải những hành vi của bản thân, chúng ta có thông tin về bản thân nhiều hơn là thông tin về hoàn cảnh. Khi bạn cố gắng giải thích hành vi của người khác, bạn đang ở trong thế bị động; bạn chỉ có thông tin có thể quan sát được mà thôi.

How can we explain this tendency? One possible reason is that we simply have more information about our own situation than we do about other peoples. When it comes to explaining your own actions, you have more information about yourself and the situational variables at play. When you’re trying to explain another person’s behavior, you are at a bit of a disadvantage; you only have the information that is readily observable.

Cũng không có gì đáng ngạc nhiên khi ít có ai là nạn nhân thành kiến này với những người họ hiểu rõ. Vì bạn biết rõ tính cách cũng như hành vi của nhứng người bạn thân thiết, nên bạn có thể nhìn từ góc độ của họ và có thể nhận thức rõ hơn các yếu tố hoàn cảnh gây ra các hành vi của họ.

Not surprisingly, people are less likely to fall victim to the actor-observer discrepancy with people that they now very well. Because you know more about the personality and behavior of people you’re close too, you are better able to take their point of view and more likely to be aware of possible situational causes for their behaviors.

Nguồn: https://www.verywell.com/attribution-social-psychology-2795898

Như Trang.