Danh sách danh mục hệ thống hóa bọ công an năm 2024
Đây là nội dung nổi bật tại Thông tư 08/2019/TT-BCA về Danh mục sản phẩm, hàng hóa có khả năng gây mất an toàn thuộc trách nhiệm quản lý của Bộ Công an. Show
Theo đó, Danh mục bao gồm 31 sản phẩm, hàng hóa có khả năng gây mất an toàn; đơn cử như sau: - Súng bắn lưới; súng điện đa năng (điện tử, đạn điện...); - Đạn cao su 9,5 mm; - Lựu đạn khói; lưu đạn khói cay; - Quả khói; quả rít khói màu; quả cay khói nổ; quả nổ nghiệp vụ; - Dùi cui điện; gậy chỉ huy giao thông; - Lá chắn điện; áo giáp chống đạn cấp III; áo phao chống đạn cấp I, cấp II, cấp III; áo giáp chống đâm; - Bình chữa cháy xách tay; bình chữa cháy có bánh xe; - Lựu đạn khói cay đa năng; lựu đạn khói màu đa năng… Thông tư 08/2019/TT-BCA có hiệu lực từ ngày 10/5/2019. MINISTRY OF PUBLIC SECURITY --- SOCIALIST REPUBLIC OF VIETNAM Independence - Freedom - Happiness --- No. 08/2019/TT-BCA Hanoi, March 26, 2019 CIRCULAR ON THE LIST OF POTENTIALLY UNSAFE COMMODITIES UNDER MANAGEMENT OF THE MINISTRY OF PUBLIC SECURITY Pursuant to the Law on People’s Public Security 2018; Pursuant to the Law on Product and Goods Quality 2007; Pursuant to Decree No.01/2018/ND-CP dated August 06, 2018 on functions, duties, rights and organizational structure of the Ministry of Public Security; Pursuant to Decree No.132/2008/ND-CP dated December 31, 2008 on elaboration of implementation of a number of Articles of the Law on Product and Goods Quality; Pursuant to Decree No.74/2018/ND-CP dated May 15, 2018 of the Government on amendments to a number of Articles of Decree No.132/2008/ND-CP; At the request of the Director of Department of Science, Strategy and History of Public Security; ... ... ... Bạn phải đăng nhập hoặc đăng ký Thành Viên TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN. Mọi chi tiết xin liên hệ: ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66 Article 1. Scope This Circular provides for the List of potentially unsafe commodities (hereinafter referred to as “group 2 commodities”) under management of the Ministry of Public Security. Article 2. List of group 2 commodities 1. The list of group 2 commodities under management of the Ministry of Public Security shall be issued together with this Circular. 2. According to state management requirement in each period, the Department of Science, Strategy and History of Public Security shall cooperate with relevant entities in conducting a study and review of the list of group 2 commodities and reporting to the Ministry of Public Security for considering whether to amend such list. Article 3. Entry into force 1. This Circular comes into force from May 10, 2019. 2. This Circular will replace Circular No.14/2012/TT-BCA dated March 20, 2012 of the Minister of Public Security on the list of potentially unsafe commodities under management of the Ministry of Public Security. Article 4. Implementation responsibility ... ... ... Bạn phải đăng nhập hoặc đăng ký Thành Viên TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN. Mọi chi tiết xin liên hệ: ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66 2. Directors of entities affiliated to the Ministry of Public Security and Public Security of province and centrally-affiliated cities shall take responsibility to implement this Circular. Should any question or difficulty arise during implementation, entities concerned shall promptly inform the Ministry of Public Security (through Department of Science, Strategy and History) for further instructions./. Bộ Công an (tiền thân là Bộ Nội vụ) là cơ quan công quyền trực thuộc Chính phủ Việt Nam, thực hiện chức năng quản lý nhà nước về an ninh trật tự, an toàn xã hội; phản gián; điều tra phòng chống tội phạm; phòng cháy chữa cháy và cứu hộ; thi hành án hình sự, thi hành án không phải phạt tù, tạm giữ, tạm giam; bảo vệ, hỗ trợ tư pháp; quản lý nhà nước các dịch vụ công trong ngành, lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ. Bộ Công an là cơ quan quản lý Lực lượng Công an nhân dân Việt Nam. Bộ Công an nhận được nhiều danh hiệu như Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân 13 lần, Huân chương Sao vàng và 88 Huân chương Hồ Chí Minh. Theo Luật Công an nhân dân 2018, lực lượng Công an có tối đa 199 tướng lĩnh. Quá trình phát triển[sửa | sửa mã nguồn]Từ tháng 8 năm 1945, lực lượng Công an đã được thành lập chưa có tên gọi chung: ở Bắc Bộ có tên là Sở Liêm phóng, ở Trung Bộ là Sở Trinh sát và ở Nam Bộ là Quốc gia tự vệ cuộc. Ngày 19 tháng 8 năm 1945 được coi là ngày truyền thống của lực lượng Công an nhân dân Việt Nam. Ngày 21-2-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 23/SL hợp nhất Sở Cảnh sát và Sở Liêm phóng toàn quốc thành một cơ quan đặt tên là Việt Nam Công an vụ, đặt dưới quyền quản lý của Bộ Nội vụ. Giám đốc đầu tiên của Việt Nam Công an vụ là Nguyễn Dương (từ ngày 22 tháng 3 đến ngày 7 tháng 6 năm 1946). Sau đó Phó Giám đốc Việt Nam Công an vụ Lê Giản lên thay. Ngày 18 tháng 4 năm 1946, Bộ Nội vụ ra Nghị định số 121-NV/NĐ về tổ chức Việt Nam Công an vụ có 3 cấp:
Thực hiện Sắc lệnh số 23/SL, ở Bắc Bộ, Sở Liêm phóng đổi thành Sở Công an Bắc Bộ; ở Trung Bộ, Sở Trinh sát đổi thành Sở Công an Trung Bộ; Quốc gia Tự vệ Cuộc Nam Bộ đổi thành Sở Công an Nam Bộ. Ở các tỉnh và thành phố đều đổi thành Ty Công an. Từ sau khi có Sắc lệnh 23-SL đến ngày Toàn quốc Kháng chiến, Nha Công an Việt Nam có ba bộ phận chủ yếu (Văn phòng, Ty Tập trung tài liệu, Ty Thanh tra). Trong kháng chiến chống Pháp, Nha Công an Trung ương đóng tại thung lũng Lũng Cò, thôn Đồng Đon, xã Minh Thanh, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang. Tại đây có các cơ quan trực thuộc như Ty Tình báo, Ty Trật tự tư pháp, Ty Chính trị. Giám đốc Nha Công an đầu tiên là Lê Giản. Đến tháng 8 năm 1952, Trần Quốc Hoàn thay Lê Giản làm Giám đốc Nha Công an. Ngày 16 tháng 2 năm 1953, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 141-SL đổi Nha Công an Trung ương thành Thứ Bộ Công an trực thuộc Hội đồng Chính phủ. Trần Quốc Hoàn được cử giữ chức Thứ trưởng Thứ Bộ Công an. Thứ Bộ Công an có nhiệm vụ chống gián điệp, phản động ở trong nước để bảo vệ chính quyền dân chủ nhân dân, bảo vệ quân đội nhân dân, bảo vệ kinh tế quốc dân; bảo vệ biên giới, chống đặc vụ và gián điệp quốc tế; Bài trừ lưu manh trộm cướp, bài trừ các tệ nạn xã hội và giữ trật tự an ninh trong nhân dân; Quản trị các trại giam, giáo dục cải tạo phạm nhân. Thứ Bộ Công an gồm có: Văn phòng Thứ Bộ, Vụ Chấp pháp, Phòng Nhân sự, Cục Cảnh vệ, Vụ Bảo vệ chính trị, Trường Công an, Vụ Trị an hành chính. Cuộc họp Hội đồng Chính phủ từ ngày 27-29 tháng 8 năm 1953, dưới sự chủ tọa của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đã quyết định đổi tên Thứ Bộ Công an thành Bộ Công an. Trần Quốc Hoàn được cử giữ chức Bộ trưởng Bộ Công an. Ngày 3 tháng 3 năm 1959, Thủ tướng Phạm Văn Đồng ra Quyết định số 100 - TTg về việc thành lập một lực lượng vũ trang chuyên trách công tác biên phòng và bảo vệ nội địa, lấy tên là Công an nhân dân Vũ trang, trực thuộc Bộ Công an. Ngày 28 tháng 7 năm 1956, Thủ tướng Chính phủ ra Nghị định số 982/TTg về việc thành lập Cục Cảnh sát nhân dân thuộc Bộ Công an để thống nhất việc xây dựng, quản lý, huấn luyện, giáo dục các loại cảnh sát nhân dân trong toàn quốc về nghiệp vụ, chính trị, quân sự, văn hoá. Cục trưởng đầu tiên là Thượng tá Lê Hữu Qua. Ngày 10 tháng 8 năm 1956, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Thông tư số 1001/TTg xác định tổ chức của ngành Cảnh sát nhân dân thuộc Bộ Công an, trong đó quy định: “Cảnh sát kinh tế phụ trách công tác bảo vệ công khai các nhà máy, hầm mỏ”. Đến năm 1958, Cục Bảo vệ kinh tế được thành lập, có nhiệm vụ chuyên sâu bảo vệ kinh tế. Ngày 20 tháng 7 năm 1962, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký lệnh 34-LCT công bố pháp lệnh quy định nhiệm vụ, quyền hạn và pháp lệnh quy định chế độ cấp bậc của sĩ quan và hạ sĩ quan Cảnh sát nhân dân. Để tăng cường kiện toàn bộ máy lực lượng Công an, đồng thời để đáp ứng tình hình và nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới. Ngày 1 tháng 8 năm 1975, kỳ họp thứ 3 Quốc hội khóa X đã quyết định hợp nhất Bộ Công an và Bộ Nội vụ thành một bộ mới lấy tên là Bộ Nội vụ. Cuối năm 1979, lực lượng Công an nhân dân vũ trang đổi tên là Bộ đội Biên phòng và được chuyển về trực thuộc Bộ Quốc phòng. Đến năm 1988, Bộ đội Biên phòng lại chuyển sang trực thuộc Bộ Nội vụ, đến cuối năm 1995 thì lại chuyển về Bộ Quốc phòng. Ngày 13 tháng 1 năm 1989, thành lập Bộ Tư lệnh Cảnh vệ theo Nghị định số 11 của Hội đồng Bộ trưởng. Ngày 7 tháng 5 năm 1998, Quốc hội ra Nghị quyết số 13/1998/NQ-QH10, theo đó Bộ Nội vụ đổi lại tên thành Bộ Công an. Ngày 9 tháng 6 năm 1998, Thủ tướng Chính phủ ký Nghị định số 37/1998/NĐ-CP, Quy định chức năng nhiệm vụ quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Công an. Ngày 5 tháng 8 năm 2002, Quốc hội ra Nghị quyết số 02/2002/QH11 về việc quy định danh sách các bộ và cơ quan ngang bộ của Chính phủ. Theo đó, Bộ Nội vụ mới được thành lập trên cơ sở đổi tên từ Ban Tổ chức - Cán bộ Chính phủ và tồn tại song song với Bộ Công an. Ngày 14 tháng 11 năm 2003, Thủ tướng Chính phủ ký Nghị định số 136/2003/NĐ-CP, Quy định chức năng nhiệm vụ quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Công an Ngày 15 tháng 9 năm 2009, Thủ tướng Chính phủ ký Nghị định số 77/2009/NĐ-CP, Quy định chức năng nhiệm vụ quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Công an. Theo đó, 6 Tổng cục hiện tại của Bộ Công an (An ninh nhân dân, Cảnh sát nhân dân, Xây dựng Lực lượng, Hậu cần, Tình báo, Kỹ thuật) được tách, sáp nhập và đổi tên thành 8 Tổng cục là: An ninh I, An ninh II, Xây dựng Lực lượng, Hậu cần - Kỹ thuật, Tình báo, Cảnh sát Phòng chống tội phạm, Cảnh sát Quản lý hành chính về trật tự an toàn xã hội, Cảnh sát Thi hành án hình sự và Hỗ trợ tư pháp. Ngày 11 tháng 12 năm 2009, Bộ trưởng Bộ Công an ký quyết định số 4058/QĐ-BCA thành lập Bộ Tư lệnh Cảnh sát Cơ động trực thuộc Bộ Công an. Ngày 9 tháng 12 năm 2013, Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa XI) đã ban hành Quy định số 216-QĐ/TW về thực hiện chế độ chính ủy, chính trị viên ở Bộ Tư lệnh Cảnh sát cơ động, Bộ Công an Ngày 17 tháng 11 năm 2014, Thủ tướng Chính phủ ký Nghị định số 106/2014/NĐ-CP, Quy định chức năng nhiệm vụ quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Công an và có hiệu lực từ 01/01/2015. Theo đó, 8 Tổng cục (An ninh 1, An ninh 2, Xây dựng Lực lượng, Hậu cần Kỹ thuật, Tình báo, Cảnh sát Phòng chống tội phạm, Cảnh sát Quản lý hành chính về trật tự an toàn xã hội, Cảnh sát Thi hành án và Hỗ trợ tư pháp) được sáp nhập lại thành 6 Tổng cục (An ninh, Chính trị, Hậu cần - Kỹ thuật, Tình báo, Cảnh sát và Cảnh sát thi hành án hình sự và Hỗ trợ tư pháp). Cũng theo đó, Tổng cục Xây dựng Lực lượng được đổi tên thành Tổng cục Chính trị Công an nhân dân. Tháng 8 năm 2018, thực hiện Nghị quyết 22 của Bộ Chính trị, Nghị quyết 01 và Đề án 106 của Đảng ủy Công an Trung ương về sắp xếp tinh gọn bộ máy theo mô hình tổ chức mới. Ngày 6 tháng 8 năm 2018, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc đã ký ban hành Nghị định 01 có hiệu lực cùng ngày quy định chức năng nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Công an, theo đó Bộ Công an không còn cấp Tổng cục. Bộ máy Bộ Công an giảm 6 tổng cục và gần 60 đơn vị cấp Cục, 300 đơn vị cấp Phòng. Bộ máy công an địa phương giảm hơn 500 đơn vị cấp phòng và 1000 đơn vị cấp Đội. Sở Cảnh sát phòng cháy và chữa cháy của 20 tỉnh thành gồm Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Đà Nẵng, Cần Thơ, Thái Nguyên, Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, Quảng Ninh, Thanh Hóa, Nghệ An, Thừa Thiên Huế, Quảng Ngãi, Bình Định, Khánh Hòa, Đắk Lắk, Lâm Đồng, Bình Dương, Đồng Nai, Bà Rịa - Vũng Tàu được sáp nhập vào Công an tỉnh, thành phố tương ứng. Cục Cảnh sát điều tra về tội phạm kinh tế, tham nhũng sáp nhập với Cục Cảnh sát chống buôn lậu thành Cục Cảnh sát điều tra tội phạm về tham nhũng, kinh tế, buôn lậu; Cục An ninh mạng (trực thuộc Bộ Công an) và Cục Cảnh sát phòng chống tội phạm sử dụng công nghệ cao (thuộc Tổng cục Cảnh sát) sáp nhập thành Cục An ninh mạng và phòng, chống tội phạm sử dụng công nghệ cao trực thuộc Bộ Công an Việt Nam; Cục An ninh Thông tin truyền thông sáp nhập vào Cục An ninh chính trị nội bộ; Cục Hồ sơ nghiệp vụ An ninh hợp nhất với Cục Hồ sơ nghiệp vụ Cảnh sát thành Cục Hồ sơ nghiệp vụ ; thành lập Cục An ninh đối ngoại trên cơ sở sáp nhập 4 cục nghiệp vụ và tiếp thu một số chức năng, nhiệm vụ của Tổng cục An ninh trước đây; thành lập Cục Truyền thông Công an nhân dân trên cơ sở sáp nhập 3 đơn vị: Trung tâm Phát thanh - Truyền hình - Điện ảnh Công an nhân dân, Báo Công an nhân dân và Nhà xuất bản Công an nhân dân. Sáng ngày 17 tháng 08 năm 2023, Bộ Công an thành lập Hội Cựu Công an nhân dân Việt Nam theo quyết định về việc cho phép thành lập Hội Cựu Công an nhân dân Việt Nam của Bộ trưởng Bộ Nội vụ ngày 01/8/2023 . Hội Cựu Công an nhân dân Việt Nam đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng ủy Công an Trung ương, lãnh đạo Bộ Công an, cấp ủy Công an các cấp. Chủ tịch hội là nguyên Thứ trưởng thường trực Bộ Công an. Lãnh đạo hiện nay[sửa | sửa mã nguồn]Họ và tên Cấp bậc - Quân hàm Chức vụ Năm sinh Quê quán Đảm nhiệm từ Chức vụ trong Đảng Lương Tam Quang Cơ cấu tổ chức[sửa | sửa mã nguồn]Cơ quan An ninh điều tra Bộ Công an[sửa | sửa mã nguồn]
Cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ Công an[sửa | sửa mã nguồn]
Cơ quan quản lý thi hành án hình sự Bộ Công an[sửa | sửa mã nguồn]
Cơ quan quản lý tạm giữ, tạm giam Bộ Công an[sửa | sửa mã nguồn]
(44 năm, 154 ngày) Trần Quốc Tỏ (22 năm, 153 ngày) Lê Minh Hà (57 năm, 15 ngày) Trần Đức Tuấn (78 năm, 55 ngày) Đặng Hồng Đức (9 năm, 269 ngày) Đặng Xuân Hồng (10 năm, 79 ngày) Phạm Công Nguyên (5 năm, 311 ngày) Trần Vi Dân (56 năm, 362 ngày) Tráng A Tủa (67 năm, 77 ngày) Ngô Thị Hoàng Yến (47 năm, 143 ngày) Đào Xuân Lân (47 năm, 143 ngày) Phạm Ngọc Việt (66 năm, 33 ngày) Phạm Thế Tùng (71 năm, 30 ngày) Nguyễn Đình Thuận (5 năm, 311 ngày) Nguyễn Minh Chính (69 năm, 347 ngày) Trần Việt Kiều (15 năm, 156 ngày) Lưu Hồng Quảng (71 năm, 30 ngày) Phạm Đăng Khoa (72 năm, 164 ngày) Hoàng Văn Hà Phạm Bình (66 năm, 233 ngày) Hoàng Đức Lừng (50 năm, 158 ngày) Đỗ Anh Tuấn (5 năm, 311 ngày) Nguyễn Ngọc Toàn (5 năm, 311 ngày) Đỗ Triệu Phong (72 năm, 164 ngày) Trần Minh Tiến (78 năm, 55 ngày) Trần Ngọc Hà (9 năm, 49 ngày) Nguyễn Ngọc Lâm (27 năm, 92 ngày) Nguyễn Văn Viện (17 năm, 196 ngày) Trần Minh Lệ (78 năm, 298 ngày) Nguyễn Ngọc Cương (62 năm, 252 ngày) Nguyễn Tuấn Anh (78 năm, 112 ngày) Nguyễn Văn Trung (61 năm, 328 ngày) Lê Minh Hùng (9 năm, 2 ngày) Nguyễn Văn Phục (5 năm, 311 ngày) Phạm Trường Giang (47 năm, 143 ngày) Nguyễn Khắc Cường (71 năm, 30 ngày) Bùi Thiện Dũng (78 năm, 262 ngày) Lê Khắc Thuyết (78 năm, 55 ngày) Dương Văn Tính (47 năm, 143 ngày) Phạm Thị Lan Anh (47 năm, 143 ngày) Phạm Văn Sơn (9 năm, 63 ngày) Nguyễn Thanh Trang (71 năm, 117 ngày) Trần Hải Quân (79 năm, 58 ngày) Lê Ngọc Châu (77 năm, 353 ngày) Trịnh Ngọc Quyên (56 năm, 32 ngày) Trần Minh Hưởng (49 năm) Phan Xuân Tuy (60 năm, 247 ngày) Đoàn Minh Lý (48 năm, 49 ngày) Trần Thành Hưng (60 năm, 284 ngày) Lê Quang Bốn Trường Đại học Kỹ thuật - Hậu cần Công an nhân dân (T07) 21/10/2010 (13 năm, 235 ngày) Đinh Ngọc Khoa (56 năm, 28 ngày) Đinh Ngọc Hoa (35 năm, 113 ngày) Lê Hoài Nam (47 năm, 93 ngày) Nguyễn Văn Quốc (66 năm, 294 ngày) Nguyễn Tiến Nam (5 năm, 311 ngày) Lê Minh Quý (66 năm, 294 ngày) Hoàng Thanh Tuyền (61 năm, 311 ngày) Dương Thị Thu Hằng (25 năm, 1 ngày) Quách Hữu Trung (27 năm, 171 ngày) Phạm Bá Tuyến Công an tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương[sửa | sửa mã nguồn]Công an tỉnh, thành phố Giám đốc Họ và tên Cấp bậc - Quân hàm Quê quán Nhậm chức Chức vụ khi được bổ nhiệm An Giang Lâm Phước Nguyên (1971) (1 năm, 285 ngày) Phó Giám đốc Công an tỉnh Hậu Giang Bà Rịa – Vũng Tàu Bùi Văn Thảo (1963) (6 năm, 12 ngày) Phó Giám đốc Công an tỉnh Bà Rịa - Vùng Tàu Bạc Liêu Hồ Việt Triều (1973) (1 năm, 132 ngày) Phó Giám đốc Công an tỉnh Cà Mau Bắc Giang Nguyễn Quốc Toản (1978) (4 năm, 211 ngày) Phó Cục trưởng, Thư ký lãnh đạo Bộ Công an Bắc Kạn Hà Văn Tuyên (1969) (3 năm, 350 ngày) Giám đốc Công an tỉnh Lai Châu Bắc Ninh Bùi Duy Hưng (1978) (3 năm, 53 ngày) Phó Cục trưởng, Thư ký lãnh đạo Bộ Công an Bến Tre Trương Sơn Lâm (1972) (1 năm, 246 ngày) Phó Cục trưởng Cục An ninh mạng và Phòng chống tội phạm sử dụng công nghệ cao Bình Dương Tạ Văn Đẹp (1975) (1 năm, 49 ngày) Phó Giám đốc Công an tỉnh Tây Ninh Bình Định Võ Đức Nguyện (1966) (4 năm, 14 ngày) Phó Giám đốc Công an tỉnh Quảng Ngãi Bình Phước Bùi Xuân Thắng (1965) (5 năm, 15 ngày) Phó Giám đốc Công an tỉnh Bình Phước Bình Thuận Lê Quang Nhân (1969) (1 năm, 84 ngày) Phó Giám đốc Công an tỉnh Đồng Nai Cà Mau Phạm Thành Sỹ (1964) (8 năm, 216 ngày) Phó Giám đốc Công an tỉnh Cà Mau Cao Bằng Vũ Hồng Quang (1968) (3 năm, 348 ngày) Phó Giám đốc Công an tỉnh Lạng Sơn Cần Thơ Nguyễn Văn Thuận (1965) (5 năm, 230 ngày) Phó Giám đốc Công an thành phố Cần Thơ Đà Nẵng Vũ Xuân Viên (1964) (5 năm, 286 ngày) Cục trưởng Cục Tham mưu, Tổng cục Cảnh sát Đắk Lắk Lê Vinh Quy (1967) (3 năm, 103 ngày) Giám đốc Công an tỉnh Lâm Đồng Đắk Nông Nguyễn Thanh Liêm (1975) (173 ngày) Phó Giám đốc Công an tỉnh Hà Tĩnh Điện Biên Ngô Thanh Bình (1978) (2 năm, 210 ngày) Phó Cục trưởng Cục Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Đồng Nai Nguyễn Sỹ Quang (1970) (1 năm, 347 ngày) Phó Giám đốc Công an thành phố Hồ Chí Minh Đồng Tháp Nguyễn Văn Hiểu (1964) (4 năm, 331 ngày) Giám đốc Công an tỉnh Vĩnh Long Gia Lai Rah Lan Lâm (1966) (3 năm, 349 ngày) Phó Giám đốc Công an tỉnh Gia Lai Hà Giang Phan Huy Ngọc (1972) (4 năm, 56 ngày) Phó Giám đốc Công an tỉnh Phú Thọ Hà Nam Tô Anh Dũng (1977) (1 năm, 281 ngày) Phó Cục trưởng Cục Cảnh sát quản lý hành chính về trật tự xã hội Hà Nội Nguyễn Hải Trung (1968) (3 năm, 316 ngày) Phó Chủ nhiệm Thường trực Ủy ban Kiểm tra Đảng ủy Công an Trung ương Hà Tĩnh Nguyễn Hồng Phong (1979) (1 năm, 347 ngày) Phó Cục trưởng Cục An ninh nội địa Hải Dương Bùi Quang Bình(1979) (2 năm, 103 ngày) Phó Giám đốc Công an tỉnh Quảng Ninh Hải Phòng Vũ Thanh Chương (1968) (4 năm, 255 ngày) Giám đốc Công an tỉnh Hải Dương Hậu Giang Huỳnh Việt Hòa (1976) (4 năm, 42 ngày) Phó Giám đốc Công an tỉnh Hậu Giang Hòa Bình Đỗ Thanh Bình (1976) (1 năm, 302 ngày) Phó Cục trưởng Cục Cảnh sát giao thông Thành phố Hồ Chí Minh Lê Hồng Nam (1966) (3 năm, 352 ngày) Giám đốc Công an tỉnh Long An Hưng Yên Nguyễn Thanh Trường (1974) (2 năm, 258 ngày) Giám đốc Công an tỉnh Thái Bình Khánh Hòa Nguyễn Thế Hùng (1969) (2 năm, 43 ngày) Giám đốc Công an tỉnh Ninh Thuận Kiên Giang Nguyễn Văn Hận (1971) (2 năm, 61 ngày) Phó Giám đốc Công an tỉnh Bạc Liêu Kon Tum Nguyễn Hồng Nhật (1968) (4 năm, 133 ngày) Phó Giám đốc Công an tỉnh Kon Tum Lai Châu Nguyễn Viết Giang (1964) (3 năm, 350 ngày) Phó Giám đốc Công an tỉnh Hà Giang Lạng Sơn Vũ Như Hà (1970) (30 ngày) Phó Cục trưởng Cục Cảnh sát điều tra tội phạm về tham nhũng, kinh tế, buôn lậu Lào Cai Cao Minh Huyền (1974) (1 năm, 45 ngày) Phó Giám đốc Công an tỉnh Nghệ An Lâm Đồng Trương Minh Đương (1976) (2 năm, 13 ngày) Phó Giám đốc Công an tỉnh Lâm Đồng Long An Lâm Minh Hồng (1969) (3 năm, 352 ngày) Phó Giám đốc Công an tỉnh An Giang Nam Định Nguyễn Hữu Mạnh (1977) (72 ngày) Phó Giám đốc Công an tỉnh Thanh Hóa Nghệ An Bùi Quang Thanh (1977) (181 ngày) Giám đốc Công an tỉnh Đắk Nông Ninh Bình Đặng Trọng Cường (1976) (1 năm, 288 ngày) Phó Chánh Văn phòng Cơ quan Cảnh sát điều tra Ninh Thuận Huỳnh Tấn Hạnh (1976) (2 năm, 43 ngày) Phó Cục trưởng Cục An ninh đối ngoại Phú Thọ Nguyễn Minh Tuấn (1975) (1 năm, 42 ngày) Phó Cục trưởng Cục Kế hoạch và Tài chính Phú Yên Phan Thanh Tám (1967) (3 năm, 349 ngày) Phó Giám đốc Công an tỉnh Gia Lai Quảng Bình Nguyễn Hữu Hợp (1968) (2 năm, 11 ngày) Phó Cục trưởng Cục An ninh kinh tế Quảng Nam Nguyễn Đức Dũng (1967) (4 năm, 214 ngày) Phó Giám đốc Công an tỉnh Quảng Nam Quảng Ngãi Phan Công Bình (1966) (4 năm, 39 ngày) Phó Giám đốc Công an tỉnh Bình Định Quảng Ninh Đinh Văn Nơi (1976) (1 năm, 287 ngày) Giám đốc Công an tỉnh An Giang Quảng Trị Nguyễn Đức Hải (1977) (201 ngày) Phó Giám đốc Công an tỉnh Nghệ An Sóc Trăng Bùi Quốc Khánh (1968) (1 năm, 155 ngày) Phó Cục trưởng Cục Nghiệp vụ, Bộ Công an Sơn La Nguyễn Ngọc Vân (1972) (4 năm, 212 ngày) Phó Giám đốc Công an tỉnh Phú Thọ Tây Ninh Nguyễn Văn Trãi (1967) (5 năm, 76 ngày) Phó Giám đốc Công an tỉnh Tây Ninh Thái Bình Trần Văn Phúc (1978) (2 năm, 257 ngày) Phó Cục trưởng Cục Cảnh sát điều tra tội phạm về tham nhũng, kinh tế, buôn lậu Thái Nguyên Bùi Đức Hải (1968) (3 năm, 349 ngày) Phó Giám đốc Công an tỉnh Thái Bình Thanh Hóa Trần Phú Hà (1967) (4 năm, 4 ngày) Phó Cục trưởng Cục An ninh mạng và phòng, chống tội phạm sử dụng công nghệ cao Thừa Thiên – Huế Nguyễn Thanh Tuấn (1976) (3 năm, 317 ngày) Phó Giám đốc Công an tỉnh Thừa Thiên - Huế Tiền Giang Nguyễn Văn Nhựt (1965) (4 năm, 331 ngày) Phó Giám đốc Công an tỉnh Bến Tre Trà Vinh Trần Xuân Ánh (1975) (2 năm, 241 ngày) Phó Cục trưởng Cục Tổ chức - Cán bộ Tuyên Quang Phạm Kim Đĩnh (1975) (4 năm, 132 ngày) Phó Giám đốc Công an tỉnh Tuyên Quang Vĩnh Long Nguyễn Trọng Dũng (1966) (3 năm, 30 ngày) Phó Giám đốc Công an tỉnh Vĩnh Long Vĩnh Phúc Thân Văn Hải (1975) (132 ngày) Phó Giám đốc Công an tỉnh Bắc Giang Yên Bái Lê Việt Thắng (1972) (1 năm, 132 ngày) Giám đốc Công an tỉnh Bạc Liêu Vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam[sửa | sửa mã nguồn]Đảng ủy Công an Trung ương Việt Nam là cơ quan lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong Công an nhân dân Việt Nam và là cơ quan nghiên cứu đề xuất để Ban Chấp hành Trung ương quyết định những vấn đề về đường lối, chính sách, bảo vệ an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội; lãnh đạo mọi mặt công tác trong công an. Theo Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam, Đảng ủy Công an Trung ương do Bộ Chính trị chỉ định gồm một số Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương công tác trong Công an nhân dân và một số Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương công tác ngoài Công an nhân dân, một số đồng chí công tác thuộc Đảng bộ Công an Trung ương, đặt dưới sự lãnh đạo của Ban Chấp hành Trung ương mà trực tiếp, thường xuyên của Bộ Chính trị, Ban Bí thư. Chỉ huy lãnh đạo qua các thời kỳ[sửa | sửa mã nguồn]
Các tướng lĩnh tiêu biểu[sửa | sửa mã nguồn]
Nhận định đánh giá[sửa | sửa mã nguồn]Quan điểm[sửa | sửa mã nguồn]Phát biểu tại Hội nghị Công An Toàn quốc lần thứ 72, lãnh đạo Đảng Cộng sản, Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng vào ngày 26/12/2016 chỉ đạo công an phải "là lực lượng tuyệt đối trung thành với Đảng, Nhà nước và nhân dân, tuyệt đối kiên định mục tiêu, lý tưởng, con đường xã hội chủ nghĩa...Cán bộ, chiến sĩ Công an nhân dân phải là những người hết lòng trung thành với Đảng, chỉ biết 'còn Đảng, còn mình'." Tranh luận về con số tướng lĩnh[sửa | sửa mã nguồn]Tính tới giữa năm 2018 bộ Công an có 205 tướng lĩnh. Trong khi đó, trước năm 1975, không có một sĩ quan cảnh sát và an ninh nào được phong tướng. Thời kỳ đó chỉ có công an vũ trang có một số người được phong tướng. Tại Quốc hội trong phiên thảo luận về dự án Luật công an nhân dân sửa đổi sáng 14-6, có tranh luận về con số tướng lãnh ngành Công an. Đại biểu Nguyễn Tạo đại diện Lâm Đồng cho biết thời gian qua người dân có nhiều băn khoăn về cả thời gian lên tướng và số lượng cấp tướng: "Hiện nay việc phong hàm lên nhanh, chất lượng tướng lĩnh cũng gây tranh cãi, thậm chí có tướng lĩnh vi phạm pháp luật như đã xảy ra ở một vài vụ việc gần đây". Đại biểu Đỗ Ngọc Thịnh (Khánh Hoà) nói rằng tình hình an ninh trật tự thời bình không quá phức tạp, trong khi kinh tế đất nước đang khó khăn mà "tướng lĩnh hơi bị nhiều". Vấn đề Công an xã[sửa | sửa mã nguồn]Bộ trưởng Bộ Công an, Đại tướng Tô Lâm chiều 7-6-2018 cho biết Công an xã đang được duy trì thì từ trước đến nay về bản chất không phải là công an, họ là lực lượng không chính quy. Lực lượng này không có quân hàm, không phải là sĩ quan, có trang phục riêng để phân biệt công an xã với công an chính quy do Bộ Công an quản lý. Đang có dự đưa công an huyện từ 3-5 người về xã hoạt động. Số công an xã mà hiện không thể vào được chính quy sẽ được tổ chức lại như hình thức của lực lượng bảo vệ dân phố. Thực tế cho thấy, việc lực lượng công an xã không được đào tạo chính quy về chuyên môn, nghiệp vụ đã gặp không ít khó khăn trong công tác bảo đảm an ninh cơ sở. Trong khi đó, việc bảo đảm an ninh trật tự, an toàn xã hội ở nông thôn hiện nay chủ yếu do công an xã đảm nhiệm nhưng lực lượng này còn thiếu về số lượng, yếu về chất lượng. Công an xã là lực lượng bán chuyên trách nên chưa tương xứng với chức năng, nhiệm vụ. Cải cách tinh gọn bộ máy công an[sửa | sửa mã nguồn]Năm 2018, Thực hiện chủ trương, nghị quyết của Bộ Chính trị, Bộ Công an tiến hành, triển khai đề án 106 sắp xếp lại tổ chức bộ máy theo phương châm Bộ tinh, tỉnh mạnh, huyện toàn diện, xã bám cơ sở. Việc tinh gọn bộ máy trong lực lượng Công an là chủ trương đúng đắn, phù hợp thực tế khách quan, hợp lòng dân. Bộ không tổ chức cấp trung gian, nâng cao chất lượng các cục trực thuộc Bộ và sắp xếp, thu gọn các đơn vị sự nghiệp công lập, báo chí, y tế và sáp nhập 20 đơn vị cảnh sát phòng cháy, chữa cháy tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương với Công an tỉnh thành phố để bảo đảm gắn kết, phát huy tối đa nguồn lực trong thực thi nhiệm vụ. “ Việc đổi mới bộ máy phù hợp với các chủ trương, nghị quyết về đổi mới, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, đổi mới tổ chức bộ máy hệ thống chính trị, giảm tầng nấc trung gian trong điều hành nên không làm ảnh hưởng đến chức năng, nhiệm vụ của công an nhân dân. Việc sắp xếp bộ máy cũng tạo điều kiện thuận lợi nhất để bố trí, điều chỉnh lại lực lượng, tăng cường cho lực lượng trực tiếp chiến đấu, hướng về cơ sở và bố trí công an xã chính quy. Với cách tổ chức mới, lực lượng công an sẽ gần dân hơn, bám sát cơ sở hơn, nắm tình hình và giải quyết hiệu quả các vấn đề an ninh trật tự, khắc phục được chồng chéo, chia cắt, đồng thời tăng cường cải cách hành chính, tạo điều kiện tốt hơn để tập trung đầu tư, hiện đại hóa trang bị, phương tiện chiến đấu. ” — Đại tướng Tô Lâm - Bộ trưởng Bộ Công an Các Tổ chức Quốc tế tham gia[sửa | sửa mã nguồn]
Xem thêm[sửa | sửa mã nguồn]
Ghi chú[sửa | sửa mã nguồn]
Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]
|