Giá thịt lợn móc ngày hôm nay tại hà nội

Giá lợn hơi tại miền Bắc

Cụ thể, tại tỉnh Hưng Yên giá lợn hơi báo tăng mạnh 5.000 đồng/kg lên mức 53.000 đồng/kg, đây là địa phương cao nhất cả nước.

Tại tỉnh Nam Định, Hà Nội giá lợn hơi đồng loạt tăng 2.000 đồng/kg lên mức 49.000 đồng/kg và 51.000 đồng/kg.

Còn tỉnh Yên Bái, Vĩnh Phúc giá lợn hơi tăng nhẹ 1.000 đồng/kg, hiện được thu mua với mức 49.000 đồng/kg và 51.000 đồng/kg.

Tại tỉnh Phú Thọ, Bắc Giang, Hà Nam giá lợn hơi đi ngang, hiện ở mức 50.000 đồng/kg.

Các địa phương còn lại như Lào Cai, Ninh Bình, Tuyên Quang, Thái Nguyên, Thái Bình giá lợn hơi ở mức 48.000 - 49.000 đồng/kg.

Như vậy, giá lợn hơi hôm nay tại miền Bắc đang dao động trong khoảng từ 48.000 - 53.000 đồng/kg.

Giá thịt lợn móc ngày hôm nay tại hà nội

Giá lợn hơi ngày 2/12/2021: Tiếp tục tăng mạnh, nhiều hộ chăn nuôi tái đàn. Ảnh: Đỗ Khải.

Giá lợn hơi tại miền Trung - Tây Nguyên

Cụ thể, tại tỉnh Quảng Bình giá lợn hơi tăng 3.000 đồng/kg, hiện được thu mua với mức 50.000 đồng/kg.

Tại tỉnh Thanh Hóa, Quảng Ngãi giá lợn hơi báo tăng 2.000 đồng/kg lên mức 50.000 đồng/kg. Tương tự, tại tỉnh Quảng Nam, Ninh Thuận giá lợn hơi cũng tăng 2.000 đồng/kg lên 48.000 đồng/kg và 49.000 đồng/kg.

Các địa phương như Nghệ An, Đắk Lắk. Hà Tĩnh, Quảng Trị, Huế, Bình Định, Khánh Hòa, Lâm Đồng, Ninh Thuận giá lợn hơi đi ngang, hiện đang ở mức 47.000 - 49.000 đồng/kg.

Như vậy, giá lợn hơi hôm nay tại miền Trung - Tây Nguyên dao động trong khoảng từ 47.000 - 50.000 đồng/kg.

Giá lợn hơi tại miền Nam

Cụ thể, tại tỉnh Bình Phước, Đồng Tháp, Cần Thơ, Hậu Giang giá lợn hơi đồng loạt tăng 2.000 đồng/kg lên mức 49.000 đồng/kg.

Các địa phương còn lại không thay đổi. Tại tỉnh Đồng Nai, TP Hồ Chí Minh, Bình Dương, Tây Ninh, Long An, An Giang, Kiên Giang, Cà Mau, Vũng Tàu, Tiền Giang, Bến Tre, Trà Vinh, Sóc Trăng, Bạc Liêu giá lợn hơi ở mức 47.000 - 49.000 đồng/kg.

Còn tại tỉnh Vĩnh Long giá lợn hơi được thu mua với mức thấp nhất cả nước 46.000 đồng/kg.

Như vậy, giá lợn hơi hôm nay tại miền Nam dao động trong khoảng từ 46.000 - 49.000 đồng/kg.

Ông Tạ Duy Thăng - Tổ trưởng Tổ chăn nuôi lợn VietGAP 1 (xã Xuân Thọ, huyện Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai) cho biết, giá lợn hơi mấy ngày nay tăng dần và dự báo sẽ tiếp tục tăng trong thời gian tới. Nhờ có nguồn cung ứng thức ăn ổn định nên các hộ trong Tổ chăn nuôi lợn VietGAP 1 đang tranh thủ tái đàn để phục vụ cho thị trường Tết. Tổ chăn nuôi lợn VietGAP 1 của ông Thăng có 10 hội viên với tổng đàn hơn 1.000 con lợn nên sẽ cung cấp một lượng thịt đáng kể trong dịp tết sắp tới cho thị trường. Tương tự, ông Lê Văn Bổn, chủ một trang trại lợn tại huyện Định Quán (Đồng Nai) cho biết, hiện đàn lợn trên địa bàn đang phát triển tốt và ổn định về số lượng, giá lợn hơi tăng nên người chăn nuôi cũng đang tranh thủ tái đàn cho kịp phục vụ dịp Tết Nguyên đán.

Theo Phó Chủ tịch Hiệp hội Chăn nuôi Đồng Nai Nguyễn Kim Đoán, sau khi các địa phương nới lỏng giãn cách xã hội, nhu cầu tiêu thụ thịt lợn bắt đầu tăng, các nhà máy chế biến hoạt động bình thường nên giá lợn từ 46.000 - 51.000 đồng/kg. Thậm chí, nhiều nơi thương lái thu mua với giá cao hơn, có thể thời gian tới sẽ tiếp tục tăng.

Tuy nhiên, ông Nguyễn Kim Đoán băn khoăn vì dịch tả lợn châu Phi đang phức tạp, giá thức ăn cao, nếu không có những giải pháp hỗ trợ thì người chăn nuôi khó xoay trở tái đàn để phục vụ dịp tết.

Hiện Đồng Nai có khoảng 2,4 triệu con lợn, trong đó chăn nuôi trang trại chiếm hơn 90% tổng đàn (gần 1.300 trang trại), chăn nuôi đơn lẻ chiếm gần 10% tổng đàn (khoảng 7.700 nông hộ). Nếu căn cứ lượng lợn hiện nay và kế hoạch tái đàn thì dự báo sẽ đảm bảo nguồn cung cho thị trường trong dịp Tết sắp tới.

Thông tin từ Trung tâm Thông tin Công nghiệp & Thương mại ( Bộ Công Thương) cho thấy, tính đến ngày 11/7 giá lợn hơi tại miền Bắc dao động 60.000 - 66.000 đồng/kg, còn tại miền Trung - Tây Nguyên 57.000 - 66.000 đồng/kg, tương tự giá lợn hơi tại miền Nam dao động 53.000 - 62.000 đồng/kg. Đại diện Ban quản lý Chợ đầu mối gia súc gia cầm Hà Nội thông tin, thời điểm naỳ giá lợn hơi xuất chuồng khá thấp, cụ thể loại lợn ngon nhất chỉ 70.000-71.000 đồng/kg, còn lại dao động từ 60.000-64.000 đồng/kg.

“Trung bình mỗi ngày có khoảng 800-1.000 con lợn sống nhập về chợ. Nguồn cung dồi dào, giá cũng hạ nhiệt nhưng sức tiêu thụ không tăng như mong muốn”-vị đại diện chia sẻ.

Giá thịt lợn móc ngày hôm nay tại hà nội

 Người tiêu dùng mua thịt lợn tại siêu thị Co.op Mart Hà Đông

Lý giải nguyên nhân khiến giá lợn hơi giảm mạnh, theo Quyền Giám đốc Sở Công Thương Hà Nội Trần Thị Phương Lan, hiện nguồn cung dồi dào, trong khi sức mua  giảm do vào hè và ảnh hưởng dịch bệnh Covid-19.

“Đặc biệt trong 6 tháng đầu năm các DN Việt Nam nhập khẩu 70.000 tấn thịt lợn đông lạnh và phụ phẩm của động vật với giá khá rẻ, dao động ở mức 50.000 đồng/kg, góp phần đưa giá lợn hơi giảm mạnh” - bà Phương Lan phân tích.

Mặc dù giá lợn hơi giảm mạnh, giao dịch chủ yếu quanh mức 60.000-66.000 đồng/kg, nhưng giá thịt lợn tại các chợ vẫn rất đắt đỏ. Tại hệ thống chợ truyền thống các tiểu thương kinh doanh thịt lợn đang bán sườn non 160.000 đồng/kg, nạc vai 160.000 đồng/kg; thịt nạc các loại: 140.000 đồng/kg, tim 250.000 đồng/kg, xương cục 120.000 đồng/kg; xương ống 30.000 đồng/kg. Bà Lê Phương Trà ở ngõ 85 Nguyễn Lương Bằng than thở, mặc dù thịt lợn đã có dầu hiệu “hạ nhiệt” nhưng so với thời đỉnh điểm thì mức giảm không đáng kể, chỉ khoảng 10.000-20.000 đồng/kg tuỳ loại.

Lý giải nguyên nhân bán thịt lẻ giá cao trong khi giá lợn hơi đã giảm, anh Nguyễn Quân kinh doanh thịt lợn tại chợ Kim Liên thông tin, giá lợn hơi giảm nhưng thịt lợn xẻ mảnh, móc hàm tại chợ đầu mối vẫn ở mức 95.000 đồng/kg, nhưng sức mua giảm mạnh kéo theo lãi đã giảm đến 50-60%, nếu bán thịt giá rẻ chúng tôi không đủ tiền bù lúc ế, đó là lý do vì sao giá thịt lợn không thể giảm thêm.

Chủ tịch Hiệp hội Các nhà bán lẻ Việt Nam (AVR) Vũ Thị Hậu cho rằng, thịt lợn từ chăn nuôi đến tay người tiêu dùng phải qua nhiều khâu trung gian và những khâu này ăn lãi quá nhiều. Do đó, thời điểm hiện tại, dù giá thịt lợn hơi giảm mạnh nhưng người tiêu dùng vẫn phải mua thịt với giá đắt đỏ.

Bên cạnh đó người Á Đông là thích ăn thịt nóng nên hầu hết các sản phẩm thịt lợn đông lạnh nhập khẩu chủ yếu dùng để chế biến đồ hộp, không sử dụng trong bữa ăn hàng ngày nên chỉ có thể tác động tới giá thịt lợn hơi, không thể khiến thịt lợn tươi sống giảm giá”-bà Hậu nêu rõ.

Giá heo hơi hôm nay (3/9) giữ nguyên không đổi. Trước những khó khăn đó, các cấp, các ngành, doanh nghiệp và các hộ chăn nuôi tỉnh Thanh Hóa đã và đang thực hiện các giải pháp phòng, chống dịch bệnh, ổn định nguồn cung, duy trì mức lợi nhuận hợp lý cho người chăn nuôi,... để tiếp tục phát triển theo hướng ổn định, bền vững.

Giá heo hơi hôm nay tại miền Bắc cao nhất 69.000 đồng/kg

Thị trường heo hơi miền Bắc đồng loạt đi ngang trên diện rộng.

Theo đó, mức giá cao nhất khu vực là 69.000 đồng/kg, được chứng kiến tại Lào Cai, Hưng Yên, Phú Thọ và Thái Bình.

Thương lái tại Bắc Giang, Thái Nguyên và Hà Nội đang giao dịch heo hơi lần lượt là 67.000 đồng/kg và 68.000 đồng/kg.

Các địa phương còn lại thu mua ổn định trong khoảng 65.000 - 66.000 đồng/kg.

Giá heo hơi tại miền Bắc hôm nay được ghi nhận trong khoảng 65.000 - 69.000 đồng/kg.

Địa phươngGiá (đồng)Tăng/giảm (đồng)Bắc Giang67.000-Yên Bái65.000-Lào Cai69.000-Hưng Yên69.000-Nam Định66.000-Thái Nguyên67.000-Phú Thọ69.000-Thái Bình69.000-Hà Nam65.000-Vĩnh Phúc66.000-Hà Nội68.000-Ninh Bình66.000-Tuyên Quang65.000-

Giá heo hơi hôm nay tại miền Bắc. Tổng hợp: Thanh Hạ

Giá heo hơi hôm nay tại miền Trung, Tây Nguyên thấp nhất 60.000 đồng/kg

Giá heo hơi khu vực miền Trung, Tây Nguyên đứng yên so với ngày hôm qua.

Hiện tại, 60.000 đồng/kg tiếp tục là mức giao dịch thấp nhất được ghi nhận tại tỉnh Đắk Lắk và Ninh Thuận.

Các tỉnh gồm Bình Thuận, Lâm Đồng, Quảng Bình, Nghệ An và Bình Định đang thu mua heo hơi trong khoảng 63.000 - 65.000 đồng/kg.

Khoảng giá từ 66.000 đồng/kg đến 67.000 đồng/kg vẫn duy trì ở các địa phương còn lại.

Thương lái khu vực miền Trung, Tây Nguyên đang giao dịch heo hơi trong khoảng 60.000 - 67.000 đồng/kg.

Địa phươngGiá (đồng)Tăng/giảm (đồng)Thanh Hóa66.000-Nghệ An65.000-Hà Tĩnh66.000-Quảng Bình64.000-Quảng Trị67.000-Thừa Thiên Huế67.000-Quảng Nam67.000-Quảng Ngãi66.000-Bình Định65.000-Khánh Hòa67.000-Lâm Đồng64.000-Đắk Lắk60.000-Ninh Thuận60.000-Bình Thuận63.000-

Giá heo hơi hôm nay tại miền Trung, Tây Nguyên. Tổng hợp: Thanh Hạ

Được xác định là một trong những con nuôi chủ lực của tỉnh Thanh Hóa, hiện nay, chăn nuôi heo đang chịu tác động từ các yếu tố dịch bệnh, áp lực chi phí sản xuất, biến động giá thức ăn chăn nuôi, báo Thanh Hóa đưa tin.

Trước những khó khăn đó, các cấp, các ngành, doanh nghiệp và các hộ chăn nuôi đã và đang thực hiện các giải pháp phòng, chống dịch bệnh, ổn định nguồn cung, duy trì mức lợi nhuận hợp lý cho người chăn nuôi,... để tiếp tục phát triển theo hướng ổn định, bền vững.

Theo báo cáo của Chi cục Chăn nuôi và Thú y, hiện nay, đàn heo toàn tỉnh có hơn 1,2 triệu con, trong đó heo hướng nạc 680.000 con, heo nái ngoại 57.000 con; chăn nuôi chuyển biến theo hướng tích cực và chăn nuôi trang trại chiếm 40%.

Giá heo hơi hôm nay tại miền Nam quanh mốc trung bình là 63.000 đồng/kg

Thị trường heo hơi khu vực phía Nam cũng đi ngang theo xu hướng chung của cả nước.

Cụ thể, Sóc Trăng, TP HCM, Kiên Giang và Bến Tre đang lần lượt neo tại mức 60.000 đồng/kg và 61.000 đồng/kg.

Nhỉnh hơn một chút gồm có các tỉnh Bình Dương và Tây Ninh đang giao dịch chung giá là 63.000 đồng/kg.

Mức giá thu mua ổn định của các tỉnh thành còn lại là 64.000 - 67.000 đồng/kg.

Giá heo hơi tại khu vực miền Nam đang dao động trong khoảng 60.000 đồng/kg đến 67.000 đồng/kg.

Địa phươngGiá (đồng)Tăng/giảm (đồng)Bình Phước64.000-Đồng Nai65.000-TP HCM60.000-Bình Dương63.000-Tây Ninh63.000-Vũng Tàu64.000-Long An64.000-Đồng Tháp66.000-An Giang66.000-Vĩnh Long66.000-Cần Thơ64.000-Kiên Giang61.000-Hậu Giang60.000-Cà Mau67.000-Tiền Giang64.000-Bạc Liêu65.000-Trà Vinh64.000-Bến Tre61.000-Sóc Trăng60.000-

Giá heo hơi hôm nay tại miền Nam. Tổng hợp: Thanh Hạ

>>> Xem thêm: Dự báo giá heo hơi trong thời gian tới, thông tin về dịch tả heo châu Phi và giá cả thị trường mới nhất hôm nay.

Xem thêm: Giá vàng hôm nay

Tình hình chăn nuôi heo và bệnh dịch tả heo châu phi mới nhất

Dịch tả heo châu Phi là một loại bệnh truyền nhiễm vô cùng nguy hiểm do virus gây ra ở trên heo. Bệnh này xuất hiện lần đầu tiên ở châu Phi vào năm 1921 và đã gây nên nhiều thiệt hại vô cùng nghiêm trọng với tỷ lệ heo chết lên đến 100%.

Tại Việt Nam, dịch bệnh xuất hiện lần đầu tiên vào tháng 2 năm ngoái sau đó lan rộng ra trên phạm vi cả nước. Số lượng heo buộc phải tiêu hủy theo thống kê trên 6 triệu con, tổng thiệt hại hơn 30.000 tỷ đồng. Điều này đã làm ảnh hưởng đến chỉ số giá tiêu dùng (CPI) của cả nước. Cho đến hiện tại, dịch tả heo châu Phi vẫn còn xảy ra rải rác ở nhiều tỉnh thành trên phạm vi cả nước.

Trong khi đó,các doanh nghiệp lớn sản xuất heo giống chủ yếu dành cho nội bộ của doanh nghiệp và mạng lưới gia công, rất hạn chế bán con giống ra ngoài.

Hiện nay công tác tái đàn tại các địa phương rất e dè, một phần ngại dịch tả heo châu Phi, một phần ngại các rủi ro từ thị trường khi người tiêu dùng đang chuyển dần sang các nhóm thực phẩm khác cũng như việc nhập khẩu heo sống từ nước ngoài.

Nguy cơ dịch bệnh tiếp tục tái phát, lây lan diện rộng là rất lớn, ảnh hưởng nghiêm trọng đến việc tổ chức nuôi tái đàn, tăng đàn heo và bảo đảm nguồn cung thịt heo.

Quản lý heo để theo nhóm trong chăn nuôi

Cùng với sự phát triển và chuyên nghiệp hóa của ngành chăn nuôi heo, điều quan trọng cũng như tính cần thiết để có một nhóm sản xuất đồng nhất, quản lý nái sinh sản theo lô/theo nhóm có một số lợi thế đáng kể từ việc quản lý nhân sự và tổ chức công việc, cũng như việc tạo ra một lợi thế về sức khỏe và an toàn sinh học cho vật nuôi.

Quản lý nái đẻ theo nhóm đã từng là một thực tế phổ biến, nhưng khi các trang trại phát triển ngày một lớn hơn, sản xuất đẻ liên tục lại trở thành phương thức phổ thông hơn. Trước đây, quản lý nái đẻ theo nhóm có khuynh hướng hấp dẫn hơn đối với các trang trại nhỏ, khi các nhà chăn nuôi cần một số lượng heo nhất định để sử dụng cho một chuyến xe hoặc một dãy chuồng nào đó, xu hướng quản lý cho nái đẻ theo nhóm được áp dụng ở quy mô trại lớn hơn.

Các trại nái có thể chọn từ một số tùy chọn khác nhau để tạo thành các lô sản xuất của họ, nhóm hàng tuần hoặc 2, 3, 4 tuần hoặc thậm chí 5 tuần một lần.

Việc sử dụng thời gian hiệu quả hơn và cải thiện quản lý đàn nái có thể đạt được bằng cách phân chia đàn nái sinh sản của trại trở thành các nhóm riêng biệt. Mỗi nhóm đủ lớn để phù hợp với năng suất của chuồng đẻ, sau đó nhóm nái đẻ sẽ đẻ trong cùng một thời gian. Việc kết hợp hệ thống quản lý cùng vào - cùng ra với việc cho nái đẻ theo nhóm được chứng minh là có thể cải thiện tốc độ tăng trưởng, gia tăng thêm 100g/ngày (hoặc hơn thế nữa) trong vòng đời của heo thịt.

Điều cần thiết của việc quản lý nái đẻ theo nhóm không chỉ bởi vì cần tạo ra một nhóm heo đồng nhất sau cai sữa đến xuất thịt, mà điều quan trọng của kỹ thuật này là giúp cho nhà chăn nuôi tối đa hóa về công suất chuồng trại và năng suất đàn heo.

Trước đây, quản lý đẻ theo nhóm có lẽ phù hợp hơn với quy mô chăn nuôi gia đình – nhỏ hơn 300 nái hoặc ít hơn. Tuy nhiên ngày nay dưới áp lực của an toàn sinh học, sự cải thiện của tốc độ tăng trưởng, việc quản lý nái đẻ theo nhóm đã trở thành xu hướng mới cho các nhà chăn nuôi cần quan tâm đến.

Đây là một hình thức quản lý rất phù hợp để vận hành các hoạt động hợp tác giữa các nhà sản xuất/chủ trang trại. Ví dụ: có ba chủ trang trại có thể quyết định rằng một trong các trang trại của họ nên được chuyển đổi thành khu vực nuôi nái đẻ theo nhóm, một trang trại khác có thể trở thành khu vực nuôi heo con cai sữa và trại thứ ba sẽ đóng vai trò là đơn vị chăn nuôi giai đoạn xuất chuồng. Sự sắp xếp này tạo ra các lợi ích về sức khỏe và hiệu quả quản lý của tất cả trong việc điều hành cùng vào-cùng ra trên khu vực chăn nuôi.

Đẻ theo nhóm cũng là cách tốt nhất để sản xuất heo cho các hệ thống nuôi nhiều heo cai sữa quy mô lớn, nơi một nhóm cai sữa đến xuất thịt cần đến đến vài trăm heo cùng độ tuổi có thể phát triển và xuất chuồng cùng nhau.

Quy trình nuôi dưỡng và chăm sóc heo thịt

Heo thịt ở nước ta thường nuôi tới 5 – 6 tháng sẽ đạt trọng lượng từ 95 – 105 kg. Ở mức thể trọng này phẩm chất thịt ngon nhất và hiệu quả thức ăn bắt đầu giảm, heo có xu hướng tích lũy nhiều mỡ, nếu tiếp tục nuôi thường không có lợi… Người chăn nuôi luôn mong muốn heo lớn nhanh, tiêu tốn thức ăn ít và heo có phẩm chất thịt tốt. Nên với những biện pháp nuôi dưỡng và chăm sóc tốt sẽ góp phần giúp nhà chăn nuôi đạt được các mục tiêu ở trên.

Dinh dưỡng cho đàn heo thịt

Thời gian nuôi heo thịt thường được chia làm 2 giai đoạn, mỗi giai đoạn sẽ có những tiêu chuẩn dinh dưỡng khác nhau.

a. Giai đoạn 1

Heo thịt được nuôi từ 70 – 130 ngày tuổi và có trọng lượng trung bình từ 20 – 60 kg. Đây là thời kỳ cơ thể phát triển khung xương, hệ cơ, hệ thần kinh, do đó khẩu phần cần nhiều protein, khoáng chất, vitamin để phát triển cả chiều dài và chiều cao thân. Thiếu dưỡng chất trong giai đoạn này sẽ làm cho khung xương kém phát triển, hệ cơ vì thế cũng không phát triển, heo trở nên ngắn đòn, ít thịt vì bắp cơ nhỏ, sự tích lũy mỡ ở giai đoạn sau nhiều hơn. Nhưng nếu dư thừa dưỡng chất sẽ làm tăng chi phí chăn nuôi, dư protein sẽ bị đào thải ở dạng ure gây hại cho môi trường, heo dễ bị viêm khớp, tích lũy mỡ sớm. Người chăn nuôi nên cho heo ăn theo khẩu phần có 17 – 18% protein thô, giá trị khẩu phần có từ 3100 – 3250 Kcal.

b. Giai đoạn 2

Heo thịt được nuôi từ 131 – 165 ngày tuổi và có trọng lượng trung bình từ 61 – 105 kg. Đây là thời kỳ heo tích lũy mỡ vào các sớ cơ, các mô liên kết nên heo sẽ phát triển theo chiều ngang, mập ra. Nên giai đoạn này heo cần nhiều glucid, lipid hơn giai đoạn 1, ngược lại nhu cầu protein, khoáng chất, vitamin ít hơn. Dư dưỡng chất lúc này chỉ làm tăng chi phí thức ăn và tăng lượng mỡ, nhưng nếu thiếu dưỡng chất sẽ làm heo trở nên gầy, bắp cơ dai không ngon, thiếu những hương vị cần thiết, thịt có màu nhạt không hấp dẫn người tiêu dùng. Giai đoạn này nhà chăn nuôi sử dụng thức ăn có khẩu phần có protein thô từ 14 – 16%, giá trị khẩu phần có từ 3000 – 3100 kcal.

Kỹ thuật nuôi heo thịt theo 2 giai đoạn nên áp dụng để nuôi các giống heo ngoại có khả năng sinh trưởng và phát triển nhanh, có tỷ lệ nạc cao như Landrace, Hampshire hay heo lai F2 có 75% tỷ lệ máu ngoại trở lên (xem thêm ở bài Kỹ Thuật Chọn Giống Heo). Kỹ thuật này thường áp dụng ở những cơ sở chăn nuôi tập trung, có trình độ thâm canh cao, và cả hai giai đoạn nuôi đều phải cân đối thành phần các axit amin và axit béo không no mạch dài.

Phẩm chất thức ăn có quan hệ trực tiếp đến phẩm chất thịt heo khi giết mổ. Nếu khẩu phần chứa nhiều chất béo xấu thì sẽ cho quầy thịt có mỡ bệu, dễ bị hóa lỏng và hôi dầu khi tồn trữ lạnh lâu (chất béo của bột cá xấu sẽ tạo mùi tanh cho thịt và ít người ưa chuộng).

Kỹ thuật cho ăn đàn heo thịt

a. Số lượng thức ăn

Theo như phần trình bày về Dinh Dưỡng ở trên thì cơ thể heo phát triển theo 2 giai đoạn. Ở giai đoạn đầu cơ thể heo sẽ phát triển số lượng tế bào cơ và giai đoạn còn lại sẽ phát triển kích thước tế bào. Do đó, ở giai đoạn đầu ta cần cho heo thịt ăn với số lượng tự do theo nhu cầu để giúp heo tăng tối đa số lượng tế bào và ở giai đoạn sau cho heo ăn theo định mức để hạn chế quá trình hình thành tế bào mỡ. Như vậy sẽ giúp giảm chi phí cho đàn heo thịt và tăng tỉ lệ nạc.

b. Cách cho ăn

Nên bố trí máng ăn đủ cho số heo trong đàn để hạn chế mức ăn không đồng đều và nên cho ăn nhiều lần trong ngày để tăng hiệu quả sử dụng thức ăn. Tập cho heo có phản xạ ăn theo giờ để tăng khả năng tiêu hóa. Trong khi cho ăn nên theo dõi tình trạng sức khỏe và khả năng ăn vào của từng con trong chuồng. Ngoài ra, cần chú ý đến chất lượng thức ăn phải đủ dưỡng chất và không bị nhiễm độc tố nấm mốc.

Nước uống: nước uống cho heo cần phải sạch và đầy đủ.

Kỹ thuật chăm sóc heo thịt

a. Phân lô, phân đàn

– Sau khi cai sữa heo con chúng ta tiến hành phân lô, phân đàn để tiện chăm sóc, nuôi dưỡng. Việc phân lô, phân đàn phải đảm bảo các nguyên tắc sau đây:

– Khi ghép tránh không để cho heo phân biệt đàn và cắn xé lẫn nhau.

– Mật độ nuôi thích hợp như sau: từ 10 – 35 kg có 0,4 – 0,5 m2/con, từ 35 – 100 kg có 0,8 m2/con.

b. Chuồng trại và vệ sinh

– Việc quản lý đàn heo thông qua thiết kế chuồng trại phù hợp, mật độ nuôi, nhiệt độ chuồng nuôi, các stress nhiệt và chất lượng không khí… cũng rất quan trọng.

– Chuồng trại phải thoáng mát, có sự lưu chuyển không khí với vận tốc gió trung bình từ 0,5 – 1m/giây. Nếu thông gió bằng quạt hút cần điều chỉnh vận tốc cho phù hợp với từng mùa, tránh sự ngột ngạt, và nên đề phòng sự cố mất điện, quạt không chạy dẫn đến đàn heo bị chết do ngộp.

– Nền chuồng luôn khô ráo, có độ dốc thoát nước tốt, tránh trơn trượt hoặc gồ ghề, hạn chế chất thải trong khu vực nuôi.

– Trục dọc của dãy chuồng nên chạy theo hướng đông bắc tây nam để tránh các hướng nắng bất lợi, hướng mưa tạt gió lùa. Nên thiết kế chuồng có chỗ phơi nắng khoảng 2/3 diện tích chỗ nằm kể trên. Sân nắng ngoài việc cung cấp vitamin D cho heo, còn có tác dụng sưởi ấm và sát trùng bằng tia tử ngoại.

– Quanh chuồng nên trồng cây che mát, tuy tốt vào ban ngày, nhưng về đêm nếu không khí ngưng đọng, không có gió, cây hô hấp thải CO2 cũng sẽ ảnh hưởng xấu đến sức khỏe và sự tăng trưởng của heo nuôi.

– Khuynh hướng gần đây của các trại nuôi heo cao sản thì chỉ tắm heo trong những trường hợp thật cần thiết vì việc tắm heo sẽ làm cho heo tăng độ dày của lớp mỡ lưng (đây là phản ứng của heo để chống lại nước lạnh). Như vậy heo sẽ mất nhiều năng lượng hơn và chất lượng của quầy thịt không đạt theo yêu cầu về tỷ lệ nạc. Mặt khác, tắm heo cũng là một trong những nguyên nhân làm cho những yếu trong đàn dễ nhiễm bệnh.

c. Phòng bệnh

– Tiêm phòng: Nên tiêm phòng cho heo lúc 8 – 12 tuần tuổi (giai đoạn trước khi heo đưa vào nuôi thịt). Tiêm các loại vacxin thông thường (Dịch tả, FMD), riêng đối với bệnh Phó thương hàn cần tiêm cho heo trong thời kỳ heo con theo mẹ và sau đó có thể tiêm phòng nhắc lại. Thông thường sau khi tiêm lần 1 khoảng 10 – 20 ngày, heo có thể được tiêm nhắc lại hay bổ sung.

– Tẩy giun sán: Trước khi đưa heo vào nuôi thịt nên tiến hành tẩy các loại giun sán.

Xem ngay: Giá cả thị trường hôm nay

Xem thêm: Dự án đường Vành đai 4


Page 2


Page 3


Page 4


Page 5


Page 6


Page 7