Hướng dẫn dns slave trên nê n ipv6 linux - dns slave train n ipv6 linux
TIÊU ĐỀ Trình quản lý DNS nô lệ không hỗ trợ IPv6 Sản phẩm, phiên bản, hệ điều hành, kiến trúc Almalinux 8.5 (Arctic Sphynx) Plesk Obsidian phiên bản 18.0.42 Cập nhật #1 MÔ TẢ VẤN ĐỀ Nếu bạn đặt địa chỉ IPv6 của Master trong trình quản lý plugin: Slave DNS, yêu cầu đến máy chủ DNS nô lệ được thực hiện với địa chỉ IPv4 chính của máy chủ. Do đó, máy chủ DNS nô lệ không thể xác nhận hoặc nhận ra máy chủ chính dựa trên địa chỉ IPv6. Các bước để sinh sản KẾT QUẢ THỰC TẾ Yêu cầu đến máy chủ DNS nô lệ được thực hiện thông qua IPv4. Kết quả dự kiến Gửi yêu cầu ra qua IPv6 được lưu trữ Bài viết này giới thiệu với các bạn về cài đặt và cấu hình DNS Server của hệ điều hành Linux. Trong bài viết này sẽ giới thiệu với các bạn các loại dns server cùng với cách cài đặt dns trên bản phân phối CentOS 7 từ đó giúp cho chúng ta có thể tự tìm hiểu và tự học Linux cơ bản dễ dàng hơn. DNS(Domain Name System) là một hệ thống dùng để phân giải tên miền. Nó dùng để thiết lập mối quan hệ giữa tên tên miền và địa chỉ IP. DNS giúp chúng ta có thể chuyển đổi tên miền (blogd.net) sang một địa chỉ IP (192.168.1.15). Ví dụ: Khi chúng ta vào google và gõ vào thanh tìm kiếm site "blogd.net" thì ngay lập tức DNS sẽ phân giải và trả về kết quả với IP là 192.168.1.15. DNS Server là một loại máy chủ dùng để quản lý và xử lý các tên miền thực hiện các bản ghi liên quan của chúng. DNS Server là thành phần chính thực hiện giao thức DNS và cung cấp các dịch vụ phân giải tên miền cho máy chủ và máy khách web trên mạng dựa trên IP. DNS Server dùng để định vị và phân phối các trang web cho người dùng cuối qua Internet, máy chủ DNS được phát triển trên phần cứng thông thường nhưng chạy phần mềm DNS chuyên dụng. Nó luôn được kết nối với Internet. DNS Server dùng để chứa cơ sở dữ liệu bao gồm các địa chỉ IP ứng với tên miền nhất định được gọi là bản ghi DNS. Nó thực hiện chức năng cơ bản nhất là phân giải tên miền thành địa chỉ IP tương ứng. Trong quá trình phân giải tên miền thì kết quả tìm kiếm nếu có trong các bản ghi DNS thì tên miền được trả về ứng với địa chỉ IP của nó. Nếu tên miền không được đăng ký hoặc thêm vào máy chủ DNS đó, truy vấn sẽ được chuyển đến các máy chủ DNS khác cho đến khi tìm thấy bản ghi tên miền. Phần mềm DNS Server nổi tiếng nhất là 1.3. Các loại DNS ServerTất cả các máy chủ DNS thuộc một trong 4 loại DNS Server sau:
Khi chúng ta thực hiện tra cứu DNS thì các máy chủ này sẽ phối hợp với nhau để hoàn thành nhiệm vụ cung cấp IP cho tên miền mà chúng ta tìm kiếm. 1.3.1. Giới thiệu về recursive resolverMột recursive resolver là điểm dừng đầu tiên trong quá trình truy vấn DNS. Nó hoạt động như một cầu nối trung gian giữa máy client và DNS nameserver. Sau khi nhận được truy vấn DNS từ một client web thì recursive resolver sẽ phản hồi với dữ liệu được lưu trong bộ nhớ cache hoặc gửi yêu cầu đến root nameservers tiếp theo là đến TLD nameservers và cuối cùng đến authoritative nameserver. Sau khi nhận được phản hồi từ authoritative nameserver chứa địa chỉ IP được yêu cầu, recursive resolver sẽ gửi phản hồi cho Client. Trong quá trình này, recursive resolver sẽ lưu trữ thông tin nhận được từ authoritative nameserver. Khi một Client yêu cầu địa chỉ IP của một tên miền giống với client trước yêu cầu thì recursive resolver sẽ cung cấp các bản ghi được yêu cầu từ bộ nhớ cache của nó. Bỏ qua quá trình hỏi root nameservers. 1.3.2. Giới thiệu về Root nameserversTrên thế giới hiện tại có 13 Root nameservers DNS. Các Root nameservers DNS này sẽ chứa các bản ghi gồm toàn bộ các thông tin về tên miền cùng với địa chỉ IP ứng với tên miền đó. Đây cũng chính là điểm dừng đầu tiên trong quá trình phân giải DNS. Root nameservers chấp nhận truy vấn của recursive resolver gồm một tên miền và thực hiện trả lời bằng cách hướng recursive resolver đến TLD nameservers dựa trên phần mở rộng của tên miền đó (.com, .vn, .net, .org,...). Các Root nameservers này được giảm sác và theo dõi bỡi Internet Corporation for Assigned Names and Numbers (ICANN).
1.3.3. Giới thiệu về TLD nameserversTLD nameservers dùng để duy trì thông tin cho tất cả các tên miền có chung một phần mở rộng như chúng ta đã nói bên trên (.com, .vn, .net, .org,...). Ví dụ: Trên trình duyệt web chúng ta thực hiện gõ vào thanh tìm kiếm 1 khi nhận được phản hồi từ Root nameservers thì recursive resolver sẽ gửi truy vấn đến TLD nameservers. Tại đây chúng ta nhận được câu trả lời chỉ cách chúng ta đến máy chủ tên có thẩm quyền cho tên miền có phần mở rộng là 2 .Việc quản lý các máy TLD nameservers bởi Internet Assigned Numbers Authority (IANA), một chi nhánh của ICANN. IANA chia các máy chủ TLD thành hai nhóm chính:
Khi recursive resolver nhận được phản hồi từ TLD nameservers, phản hồi đó sẽ hướng recursive resolver đến authoritative nameserver. Đây chính là bước cuối cùng mà recursive resolver sẽ tìm được tìm địa chỉ IP cần tìm kiếm. Authoritative nameserves là nơi chứa thông tin cụ thể của các tên miền như là: 1 và nó có thể cung cấp cho recursive resolver địa chỉ IP của máy chủ đó được tìm thấy trong bản ghi DNS. Nếu như tên miền có bản ghi CNAME (alias) nó sẽ cung cấp cho recursive resolver với một miền alias mà tại đây recursive resolver sẽ phải thực hiện tra cứu DNS hoàn toàn mới để tạo một bản ghi từ authoritative nameserver khác.Ví dụ: Sau khi tìm hiểu khái niệm về Recursive resolver, Root nameserver, TLD nameserver, Authoritative nameserver chúng ta thực hiện xác định 4 loại Server khi truy cập một webste (ví dụ: www.kenh24.vn) chúng ta thực thi lệnh sau: Sau khi tìm hiểu khái niệm về Recursive resolver, Root nameserver, TLD nameserver, Authoritative nameserver chúng ta thực hiện xác định 4 loại Server khi truy cập một webste (ví dụ: www.kenh24.vn) chúng ta thực thi lệnh sau:
Qua kết quả trên chúng ta thấy khi truy vấn một URL từ trình duyệt web thì chúng sẽ thực hiện các bước sau:
Theo kết quả trên:
Chúng ta được kết quả sau:
Kết quả tìm kiếm TLD nameserver:
Kết quả xác định Authoritative nameserver:
Sau khi recursive resolver truy vấn các Authoritative nameserver cho www.kenh24.vn và nhận câu trả lời thì recursive resolver sẽ lưu trữ câu trả lời trong khoảng thời gian tồn tại (TTL) được chỉ định trong cấu hình của chúng ta. Đây là chính quá trình diễn ra sau khi chúng ta nhập một URL vào trình duyệt web. 2. Cài đặt DNS ServerTrong bài này chúng ta cần chuẩn bị 3 máy sau để tiến hành cài đặt DNS Server:
Trên Primary DNS Server: Bước 1: Đầu tiên chúng ta tiến hành cài đặt gói 6 bằng cách chạy lệnh yum như sau:
Đặc biệt trong gói 6 sẽ chứa file 8 lưu trữ thông tin của 13 root server nơi chứa các bản ghi gồm toàn bộ các thông tin về tên miền cùng với địa chỉ IP ứng với tên miền đó.13 root server nơi chứa các bản ghi gồm toàn bộ các thông tin về tên miền cùng với địa chỉ IP ứng với tên miền đó.Tiếp theo chúng ta cần thực hiện cấu hình Primary Name Server chúng ta sử dụng trình soạn thảo văn bản vi để chỉnh sửa file cấu hình chính tên là 9 (/etc/named.conf):
Bước 2: Các thông tin cấu hình DNS chúng ta cần thêm các thông tin vào nằm trong phần option: Các thông tin cấu hình DNS chúng ta cần thêm các thông tin vào nằm trong phần option: 0
Trong đó:
Khi thông tin mà DNS Server không tìm thấy thì sẽ truy vấn lên 13 root server lớn của thế giới chúng ta có thể thấy zone "." trong file 9 1Thông tin của các root server này được chứa trong file 1: 2Bước 3: Chúng ta cần tạo một zone 2 và chứa file phân giải thuận có tên là "blogd.server" dùng để phân giải từ tên miền sang IP: 3Trong đó:
Tiếp theo chúng ta cần tạo một zone 3. Trong zone này sẽ chứa file phân giải nghịch với tên file là "0.0.10.in-addr.arpa" dùng để phân giải từ địa chỉ IP sang tên miền: 4Trong đó:
Tiếp theo chúng ta cần tạo một zone zone "0.0.10.in-addr.arpa": Đây chính là tên zone phân giải nghịch. Tên này có quy định là địa chỉ ip của mạng chứa DNS server, nhưng đổi ngược lại. Trong trường hợp này thì địa chỉ mạng là 10.0.0.0 nên khi dùng tạo zone phân giải nghịch ta sẽ lấy ngược lại gồm 3 phần là 0.0.10. 5file "0.0.10.in-addr.arpa": Là tên file cấu hình của zone "0.0.10.in-addr.arpa". 6Trong đó:
Bước 4: Sau đó chúng ta cần phải tạo hai file "blogd.server" va "0.0.10.in-addr.arpa" để có thể thực hiện phân giải tên miền sang ip hay ngược lại: Sau khi thực hiện các bước trên hoàn thành chúng ta sẽ khởi động lại dịch vụ 4 chạy lệnh bên dưới: 7Chúng ta sử dụng trình soạn thảo vi để tạo vào thêm cấu hình cho file "blogd.server" như sau: 8Sau khi thêm cấu hình file "0.0.10.in-addr.arpa" tiếp theo chúng ta sẽ tạo file và thêm cấu hình vào file "0.0.10.in-addr.arpa" như bên dưới: Thực hiện truy cập từ client SOA: Chỉ ra rằng máy chủ Name Server là nơi cung cấp thông tin tin cậy từ dữ liệu có trong zone. 9NS: Mỗi name server cho zone sẽ có một NS record. A: Record A (Address) ánh xạ tên máy (hostname) vào địa chỉ IP. 0CNAME: Record CNAME (canonical name) tạo tên bí danh alias trỏ vào một tên canonical. PTR: Record PTR (pointer) dùng để ánh xạ địa chỉ IP thành hostname. Bước 5: Sau khi thực hiện các bước trên hoàn thành chúng ta sẽ khởi động lại dịch vụ 6 bằng cách chạy
lệnh yum như sau: 1Sao đó chúng ta cho dịch vụ 4 khởi động cùng với hệ thống: 2Bước 6: Thực hiện truy cập từ client 3Trên máy Client chúng ta thực hiện cấu hình lại thông số DNS về 10.0.0.1 như sau: Sau khi đã chỉnh sửa file cấu hình trên 0 chúng ta tiếp tục quay lại 1 bổ sung thông tin 2 vào file 3 như bên dưới: 4Sau đó chúng ta thực hiện mở trình duyệt và truy cập vào tên http://www.blogd.server: Khi chúng ta đã chỉnh sửa file cấu hình trên 4 và 0 thì chúng ta thực hiện 6 các tập tin 7bằng cách chạy lệnh sau: 5Trên clientdns chúng ta sử dụng lệnh nslookup để kiểm tra thông tin: 6 7Trên Secondary DNS Server: 8Trên Primary DNS Server: 9Bước 1: Cũng tương tự như Primary DNS Server đầu tiên chúng ta tiến hành cài đặt gói 6 bằng cách chạy lệnh yum như sau:Tiếp theo chúng ta cần thực hiện cấu hình Secondary Name Server chúng ta sử dụng trình soạn thảo văn bản vi để chỉnh sửa file cấu hình chính tên là 9 (/etc/named.conf): 0Tiếp theo chúng ta cần bổ sung vào file cấu hình Secondary Name Server phần 8 và 9 như bên dưới:Bước 2: Sau khi đã chỉnh sửa file cấu hình trên 0 chúng ta tiếp tục quay lại 1 bổ sung thông tin 2 vào file 3 như bên dưới: 1Bước 3: Khi chúng ta đã chỉnh sửa file cấu hình trên Operating System: CentOS 7 cor Hostname: secondarydns.blogd.local IP Address: 10.0.0.2 4 và Operating System: CentOS 7 cor Hostname: secondarydns.blogd.local IP Address: 10.0.0.2 0 thì chúng ta thực hiện Operating System: CentOS 7 cor Hostname: secondarydns.blogd.local IP Address: 10.0.0.2 6 các tập tin Operating System: CentOS 7 cor Hostname: secondarydns.blogd.local IP Address: 10.0.0.2 7bằng cách chạy lệnh sau:Tiếp theo chúng ta khởi động lại named trên cả 4 và 0:Thực hiện kiểm tra trên 4: 2Và thực hiện trên 0: 3Sau khi kiển tra chúng ta thấy đã có file slaves trên cả 2 DNS Server. 4Tiếp theo chúng ta thực hiện sửa thông tin DNS trên 2 về IP=10.0.0.2.Mở trình duyệt web vào truy cập thành công web nhu sau: 5Trên clientdns chúng ta sử dụng lệnh nslookup để kiểm tra thông tin Slave DNS: 3. DNS Open-resolver
84. Lời kếtQua bài trên, giúp cho chúng ta hiểu hơn về DNS Server cũng như các loại DNS Server hiện tại và hiểu thế nào là một hệ thống dùng để phân giải tên miền. Ngoài ra, bài viết trên còn hổ trợ chúng ta trong việc cài đặt DNS Server trên hệ điều hành Linux để chúng ta có thể hiểu hơn về DNS Server. |