Nguyên nhân hội chứng horner

Nguồn chủ đề

Hội chứng Horner bao gồm các triệu chứng sụp mi, co đồng tử, và giảm tiết mồ hôi do rối loạn chức năng giao cảm cổ.

Hội chứng Horner xảy ra khi con đường giao cảm cổ đi từ vùng dưới đồi đến mắt bị gián đoạn. Tổn thương có thể là nguyên phát (trong đó có bẩm sinh) hoặc thứ phát do bệnh khác.

Tổn thương thường được chia thành:

Các tổn thương ngoại biên có thể có nguồn gốc trước hạch hoặc sau hạch.

Các triệu chứng bao gồm sụp mi, co đồng tử, giảm tiết mồ hôi, và sung huyết ở bên bệnh.

Với thể bẩm sinh, mống mắt không có sắc tố mà vẫn là màu xanh xám.

  • Test nhỏ mắt cocain

  • MRI hoặc CT để chẩn đoán nguyên nhân

Thuốc nhỏ mắt có thể giúp xác định hội chứng Horner.

Trước hết, cocaine (4 đến 5%) hoặc apraclonidine (0,5%) được nhỏ vào cả hai mắt:

  • Cocaine: Cocaine ngăn tái hấp thu tại synap của norepinephrine và làm cho đồng tử của mắt bên lành giãn ra. Nếu có tổn thương sau hạch (hội chứng Horner ngoại biên), đồng tử của mắt bị tổn thương không giãn vì các tận cùng thần kinh sau mạch đã bị thoái hoá; kết quả là sự chênh lệch kích thước giữa hai đồng tử sẽ tăng lên. Nếu tổn thương ở dưới hạch cổ trên (hội chứng Horner trung ương hay trước hạch) và các sợi sau hạch còn nguyên vẹn, thì đồng tử của mắt bên bệnh cũng sẽ giãn ra, và sự chênh lệch kích thước giữa hai đồng tử sẽ giảm.

  • Apraclonidine: Apraclonidine là một chất đồng vận alpha-adrenergic yếu, làm giảm nhẹ kích thước đồng tử của mắt bình thường. Nếu có tổn thương sau hạch (hội chứng Horner ngoại biên), đồng tử của mắt bên bệnh sẽ giãn nhiều hơn mắt bên lành bởi vì cơ giãn mống mắt của mắt bên bệnh đã mất chi phối giao cảm thông và có sự tăng nhạy cảm adrenergic. Kết quả là sự chênh lệch kích thước đồng tử hai bên giảm đi. (Tuy nhiên, kết quả có thể là giả bình thường nếu nguyên nhân tổn thương là cấp tính). Nếu tổn thương là trước hạch (hội chứng Horner trung ương), đồng tử của mắt bên bệnh không giãn vì cơ giãn đồng tử không có tình trạng tăng nhạy cảm adrenergic; kết quả là, sự chênh lệch kích thước đồng tử hai bên sẽ tăng lên.

Nếu kết quả gợi ý hội chứng Horner, hydroxyamphetamine (1%) có thể được nhỏ vào cả hai mắt sau 48 giờ để giúp xác định vị trí tổn thương. Hydroxyamphetamine làm giải phóng norepinephrine từ các tận cùng thần kinh trước synap. Nó không có tác dụng nếu tổn thương sau hạch vì các tổn thương sau hạch này gây thoái hóa các tận cùng thần kinh sau hạch. Do đó, khi hydroxyamphetamine được sử dụng, kết quả là:

  • Với tổn thương sau hạch: Đồng tử của mắt bên bệnh không giãn ra, nhưng đồng tử của mắt bên lành giãn, dẫn đến sự chênh lệch kích thước đồng tử hai bên tăng lên.

  • Tổn thương trung ương hoặc trước hạch: Đồng tử của mắt bên bệnh giãn ra bình thường hoặc nhiều hơn bình thường, còn đồng tử của mắt bên lành sẽ giãn ra bình thường, dẫn đến sự chênh lệch kích thước đồng tử hai bên giảm đi hoặc không có sự chênh lệch. (Tuy nhiên, tổn thương sau hạch đôi khi cũng có kết quả tương tự).

Test hydroxyamphetamine ít được làm hơn so với test apraclonidine, một phần do hydroxyamphetamine có xu hướng ít được sử dụng hơn. Để kết quả có giá trị, test hydroxyamphetamine phải đợi cho đến ít nhất 24 giờ sau khi nhỏ apraclonidine.

Bệnh nhân có hội chứng Horner cần chụp MRI hoặc CT não, tủy sống, ngực hoặc cổ, tùy thuộc vào nghi ngờ trên lâm sàng.

  • Điều trị nguyên nhân

Nguyên nhân của hội chứng Horner, nếu được xác định, cần được điều trị; không có điều trị cho hội chứng Horner nguyên phát.

  • Hội chứng Horner gây ra chứng sụp mi, co đồng tử và giảm tiết mồ hôi.

  • Nó bắt nguồn từ tổn thương trung ương hoặc ngoại biên (trước hạch hoặc sau hạch) làm gián đoạn con đường giao cảm cổ, đi từ vùng dưới đồi tới mắt.

  • Nhỏ cocain, apraclonidine, và/hoặc hydroxyamphetamine vào cả hai mắt để xác định chẩn đoán hội chứng Horner và giúp định khu tổn thương (trước hạch hoặc sau hạch).

  • Chụp MRI hoặc CT não, tủy sống, ngực, hoặc cổ, tùy thuộc vào nghi ngờ lâm sàng.

  • Điều trị nguyên nhân, nếu được xác định; không có biện pháp điều trị cho hội chứng Horner nguyên phát.

Nguyên nhân hội chứng horner

Bản quyền © 2022 Merck & Co., Inc., Rahway, NJ, USA và các chi nhánh của công ty. Bảo lưu mọi quyền.

Hội chứng Horner là gì? Hội chứng Horner là sự kết hợp của các dấu hiệu và triệu chứng gây ra bởi sự gián đoạn trên  đường đi của các dây thần kinh từ não đến mặt và mắt ở một bên của cơ thể. Thông thường, hội chứng Horner dẫn đến liệt giao cảm mắt gây giảm kích thước đồng tử, sụp mí và giảm tiết mồ hôi ở bên bị ảnh hưởng trên khuôn mặt của bạn.

Hội chứng Horner không phải là một bệnh mà là tập hợp các triệu chứng của nhiều bệnh lý khác nhau, chẳng hạn như đột quỵ, khối u hoặc chấn thương cột sống. Trong một số trường hợp nguyên nhân rõ ràng có thể không được tìm thấy. Không có cách điều trị cụ thể cho hội chứng Horner, nhưng điều trị cho nguyên nhân chính có thể khôi phục các chức năng thần kinh trở lại bình thường. Hội chứng Horner còn được gọi là hội chứng Horner-Bernard hoặc bại liệt giao cảm.

Hội chứng Horner gây ra do tổn thương con đường nào đó trong hệ thống thần kinh giao cảm. Hệ thống giao cảm có vai trò điều hòa nhịp tim, kích thước đồng tử, đổ mồ hôi, huyết áp và các chức năng khác giúp cơ thể phản ứng nhanh với những thay đổi của môi trường xung quanh. Con đường thần kinh bị ảnh hưởng trong hội chứng Horner được chia thành ba loại theo từng loại tế bào thần kinh như sau:

Tế bào thần kinh bậc nhất

Tế bào thần kinh bậc nhất là các tế bào thần kinh trên đoạn từ vùng dưới đồi ở đáy não, đi qua cuống não và kéo dài đến phần trên của tủy sống. Các trường hợp bệnh lý trong khu vực này có thể phá vỡ chức năng thần kinh gây ra hội chứng Horner bao gồm:

  • Đột quỵ

  • Các khối u trong não

  • Các bệnh gây ra mất vỏ bọc của tế bào thần kinh (myelin)

  • Các chấn thương vùng cổ

  • Các u nang hoặc khoang cột sống (bệnh rỗng tủy sống)

Tế bào thần kinh bậc hai

Tế bào thần kinh bậc hai là các tế bào thần kinh từ đoạn cột sống, qua phần trên của ngực và đi vào bên trong cổ. Các nguyên nhân gây tổn thương thần kinh ở khu vực này có thể có là:

  • Ung thư phổi

  • Khối u vỏ myelin (Schwannoma)

  • Tổn thương các mạch máu lớn dẫn máu từ tim (động mạch chủ)

  • Các phẫu thuật khoang ngực

Tế bào thần kinh bậc ba

Các tế bào thần kinh này kéo dài dọc bên cạnh cổ và dẫn đến da mặt và các cơ của mống mắt và mí mắt. Các tổn thương thần kinh trong khu vực này có thể do các vấn đề sau:

  • Tổn thương động mạch cảnh dọc theo bên cổ

  • Đau nửa đầu

  • Tổn thương tĩnh mạch ở cổ

  • Nhiễm trùng hoặc khối u vùng đáy sọ

Các nguyên nhân ở trẻ em : Các nguyên nhân nhân phổ biến nhất của hội chứng Horner ở trẻ em bao gồm:

  • Tổn thương cổ hoặc vai lúc đẻ

  • Khiếm khuyết động mạch chủ vào thời điểm sinh (khi vòng tuần hoàn của trẻ trở nên khép kín.

  • Các khối u  tuyến nội tiết và hệ thống thần kinh (nguyên bào thần kinh)

Các nguyên nhân chưa được biết đến

Trong một số trường hợp, nguyên nhân của hội chứng Horner không xác định được nên được gọi là hội chứng Horner vô căn.

Hội chứng Horner thường chỉ ảnh hưởng đến một bên mặt. Các dấu hiệu thường gặp bao gồm:

  • Một bên đồng tử co nhỏ liên tục (miosis)

  • Luôn có sự chênh lệch về kích thước đồng tử hai bên (anisocoria)

  • Ít đáp ứng với ánh sáng mờ ở bên đồng tử bị ảnh hưởng 

  • Sụp mí mắt trên (ptosis)

  • Mí mắt bên dưới dâng cao, con gọi là dấu hiệu sụt mí ngược.

  • Mắt trũng

  • Ít hoặc không đổ mồ hôi (anhidrosis) ở cả bên mặt hoặc một vùng da ở bên bị ảnh hưởng

  • Các dấu hiệu và triệu chứng, đặc biệt là sụp mí và không đổ mồ hôi, có thể ít và khó phát hiện.

Ở trẻ em các dấu hiệu và triệu chứng khác khi mắc hội chứng Horner có thể bao gồm:

  • Màu mống mắt nhạt hơn ở mắt bị ảnh hưởng của trẻ dưới 1 tuổi

  • Mặt bên bị ảnh hưởng thường không hoặc ít đỏ hơn bên còn lại khi nóng, gắng sức hoặc phản ứng cảm xúc

Khi nào thì cần đi khám?

Trong các nguyên nhân gây ra hội chứng Horner có một số nguyên nhân nghiêm trọng. Điều quan trọng là cẩn chẩn đoán nhanh chóng và chính xác.

Cần đi đến các cơ sở y tế nếu các dấu hiệu của hội chứng Horner xuất hiện đột ngột, xuất hiện sau chấn thương hoặc kèm theo các dấu hiệu hoặc triệu chứng khác, chẳng hạn như:

  • Suy giảm thị lực

  • Chóng mặt

  • Yếu cơ hoặc thiếu kiểm soát cơ bắp

  • Đau đầu dữ dội, đột ngột hoặc đau cổ

Yếu tố nguy cơ của hội chứng gồm nguy cơ của tất cả các bệnh lý khác có thể gây bệnh:

  • Tuổi: hội chứng Horner có thể xuất hiện ở bất kỳ độ tuổi nào tuy nhiên thường tăng lên ở những người cao tuổi do nguy cơ đột quỵ tăng lên.

  • Các khối u hoặc ung thư vùng đầu mặt: các trường hợp này có nguy cơ cao hơn do thường gây tổn thương các tế bào thần kinh.

  • Chấn thương vùng đầu mặt hoặc tổn thương các mạch máu lớn: các trường hợp có các tiền sử chấn thương và tổn thương đều có nguy cơ mắc hội chứng Horner cao hơn.

  • Hút thuốc lá: tăng nguy cơ các bệnh về mạch máu và nguy cơ ung thư phổi.

Hội chứng Horner không phải lúc nào cũng phòng được tuy nhiên giảm các yếu tố nguy cơ có thể làm giảm tỷ lệ mắc bệnh:

  • Đảm bảo an toàn trong lao động và sinh hoạt có vật dụng bảo hộ cho đầu và vùng cổ.

  • Không hút thuốc lá.

  • Điều trị và theo dõi theo chỉ định của thầy thuốc với các trường hợp có các bệnh lý khối u thần kinh trung ương.

Hội chứng Horner có thể chẩn đoán dựa trên tiền sử và các biểu hiện lâm sàng: xác định phản xạ đồng tử trong các trường hợp triệu chứng nghi ngờ bằng cách dùng thuốc co đồng tử sau đó so sánh phản ứng của hai mắt.

Ngoài thăm khám lâm sàng, cần tiến hành các xét nghiệm để đánh giá bản chất của các triệu chứng và xác định nguyên nhân có thể.

Các xét nghiệm giúp chẩn đoán hội chứng Horner:

  • Chụp cộng hưởng từ (MRI), sử dụng sóng radio và từ trường để tạo ra hình ảnh chi tiết về đầu, cổ và ngực để xác định khối u hoặc các dấu hiệu của đột quỵ, hình ảnh tổn thương động mạch cảnh và các tổn thương khác có thể ảnh hưởng đến dây thần kinh giao cảm trên khuôn mặt.

  • Siêu âm động mạch cảnh

  • X-quang ngực

  • Chụp cắt lớp vi tính (CT)

  • X quang thường quy

  • Xét nghiệm máu và nước tiểu để tìm các chất chỉ điểm ung thư.

Không có phương pháp điều trị cụ thể cho hội chứng Horner. Thông thường, hội chứng Horner biến mất khi các bệnh lý tiên phát  được điều trị hiệu quả.

Trong hầu hết các tình huống không có các dấu hiệu cấp tính, bệnh nhân thường được gặp bác sĩ chuyên khoa mắt (bác sĩ nhãn khoa) sau đó có thể được giới thiệu đến một bác sĩ chuyên về rối loạn hệ thần kinh (bác sĩ thần kinh) hoặc chuyên gia về cả rối loạn thần kinh và rối loạn ảnh hưởng đến mắt và thị giác (bác sĩ thần kinh thị giác).

Xem thêm:

  • Cấu tạo và các bộ phận của mắt
  • Đột quỵ có thể phòng ngừa
  • Gói Chẩn đoán tim mạch - Chẩn đoán Ngất