So sánh xuất khẩu sau khi gia nhập wto

Việc phải thực hiện những cam kết đó sẽ tạo thuận lợi cho hoạt động đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, làm cho môi trường đầu tư của Việt Nam trở nên hấp dẫn hơn trong mắt các nhà đầu tư nước ngoài. Qua đó góp phần thúc đẩy tiến trình đổi mới và phát triển kinh tế đất nước. Mặt khác, việc thực hiện đó cũng không khỏi gây ra một số tác động bất lợi cho nền kinh tế trong giai đoạn đầu.

Tác động của việc phải thực hiện các nghĩa vụ cam kết gia nhập WTO

- Cam kết về không phân biệt đối xử và đảm bảo cạnh tranh bình đẳng: Không phân biệt đối xử-được thể hiện qua 2 quy chế Đối xử tối huệ quốc (MFN) và Đối xử quốc tế (NT) – là nguyên tắc nền tảng của WTO cũng như của các tổ chức/thể chế kinh tế quốc tế. Trong những năm qua, Việt Nam đã thực hiện nhiều biện pháp cần thiết nhằm đảm bảo thực hiện nguyên tắc đối xử bình đẳng trong thương mại quốc tế và quan hệ đầu tư mà nước ta đã hoặc sẽ cam kết với các nước trong các khuôn khổ hợp tác song phương và đa phương. Chính phủ đã từng bước giảm và tiến tới sẽ huỷ bỏ các quy định có tính phân biệt đối xử giữa hàng hoá, dịch vụ và đầu tư của nước ta với nước ngoài. Việt Nam đã cam kết đến ngày 31/12/2005 bỏ hoàn toàn chế độ 2 giá, 2 phía phân biệt đối xử. Bên cạnh đó, chúng ta đã và đang tiếp tục tiến hành rà soát các văn bản pháp lý để tìm ra những quy định không phù hợp hoặc không cho phép thực hiện quy chế MFN và NT đối với hàng hoá, dịch vụ và các nhà đầu tư nước ngoài để điều chỉnh hoặc huỷ bỏ... Trong thời gian tới, Luật đầu tư mới là cơ sở để đối xử bình đẳng giữa đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài, giữa đầu tư nước ngoài từ các quốc gia, vùng lãnh thổ khác nhau và chính là công cụ hữu hiệu để thực hiện các nguyên tắc MFN và NT. Việt Nam sẽ phải thực hiện sự đối xử bình đẳng (MFN và NT) đối với các nước thành viên Asean, Apec, WTO (hoặc trong các khuôn khổ liên kết kinh tế quốc tế khác mà Việt Nam tham gia) trong các lĩnh vực hàng hoá, dịch vụ, đầu tư và sở hữu trí tuệ. Đây không phải là điều dễ dàng. Việc không thực hiện đúng 2 định chế này (nhất là NT) đã là nguyên nhân của rất nhiều các vụ kiện trong khuôn khổ GATT/WTO. Kinh nghiệm của Trung Quốc cho thấy, sau khi Trung Quốc gia nhập WTO, Hoa Kỳ đã liên tục kiện Trung Quốc vi phạm NT.

- Cam kết về thương mại hàng hoá. Về thuế quan, các nước gia nhập WTO đều phải cam kết không tăng thuế vượt mức nhất định đối với phần lớn các mặt hàng trong biểu thuế nhập khẩu. Mức cam kết này trong một số trường hợp có thể thấp hơn mức thuế đang áp dụng. Vì vậy các nước khi gia nhập WTO đều phải giảm thuế nhập khẩu ở nhiều mặt hàng. Bên cạnh đó, trong WTO còn có các mô hình cắt giảm thuế quan mạnh mẽ như “cắt giảm thuế quan theo ngành” và “hài hoà hoá thuế quan” theo đó thuế quan của các sản phẩm liên quan đều được cam kết ở mức rất thấp, chủ yếu là bằng 0%. Các ngành chủ yếu đã được giảm thuế theo mô hình này là sản phẩm công nghệ thông tin, dược phẩm, hoá chất, thiết bị xây dựng, thiết bị y tế, máy móc nông nghiệp, đồ gia dụng, bia rượu màu và thép. Thực tế trên kết hợp với nghĩa vụ cam kết ràng buộc thuế quan đã tạo thành nghĩa vụ của Việt Nam khi gia nhập WTO là giảm và duy trì ổn định đáng kể thuế suất thuế nhập khẩu. Tuy nhiên, diện mặt hàng phải giảm thuế, mức độ cắt giảm cũng như thời hạn cắt giảm còn tuỳ thuộc vào yêu cầu cụ thể của các nước và khả năng đàm phán của ta. Việt Nam hiện nay đã đưa ra Bản chào 4 trong đó: đã chào 99,7% số dòng thuế của biểu thuế 8 số (có tổng số 10.800 dòng thuế) với mức thuế bình quân 18% (hàng công nghiệp 16%, thuỷ sản 22%, nông nghiệp 24%) và lộ trình cắt giảm hầu hết các mặt hàng từ 3-5 năm; Về các biện pháp phi thuế quan: Theo nguyên tắc của WTO là chỉ sử dụng thuế quan để bảo hộ sản xuất trong nước, Việt Nam phải xây dựng lộ trình cắt giảm các hàng rào phi thuế quan một cách hợp lý. Một số biện pháp bảo hộ trước nay vẫn áp dụng như quốc tế, giấy phép nhập khẩu, tỷ lệ nội địa hoá... sẽ dần dần được bãi bỏ.

- Cam kết về tự do thương mại dịch vụ: để gia nhập WTO, Việt Nam phải cam kết đảm bảo cho các nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài được đầu tư và hoạt động ở những lĩnh vực dịch vụ nhất định. Mức độ cam kết sẽ phụ thuộc vào quá trình đàm phán. Tuy nhiên, gần như chắc chắn cạnh tranh trong nhiều ngành dịch vụ quan trọng như viễn thông, ngân hàng, bảo hiểm, v.v... sẽ gia tăng đáng kể sau khi Việt Nam gia nhập WTO. Tại Bản chào 4, Việt Nam đã chào tới 92/155 phân ngành thuộc 10/11 ngành dịch vụ, đó là: dịch vụ kinh doanh; dịch vụ thông tin; dịch vụ tài chính (cả ngân hàng); dịch vụ phân phối; dịch vụ xây dựng và các dịch vụ kỹ thuật đồng bộ có liên quan; dịch vụ văn hoá và giải trí; dịch vụ vận tải; dịch vụ giáo dục. Như vậy là Việt Nam đã cam kết mở cửa hầu hết các ngành dịch vụ (trừ dịch vụ môi trường chưa chào, nhưng không có nghĩa là sẽ không phải mở) và đa số các phân ngành dịch vụ.

- Cam kết về tạo thuận lợi cho hoạt động đầu tư liên quan đến thương mại: Việt Nam đã cam kết tuân thủ hoàn toàn Hiệp định TRIMs của WTO, cam kết xoá bỏ các rào cản về đầu tư, với mục tiêu tổng thể để tăng cường tính hấp dẫn, thông thoáng và minh bạch của môi trường đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Nhìn chung mức độ cam kết sẽ cao hơn nhiều so với cam kết của Việt Nam trong Hiệp định Thương mại Việt Nam-Hoa Kỳ.

Ngoài các cam kết chính kể trên, Việt Nam cũng phải đưa ra các cam kết xây dựng các chương trình hành động, chương trình xây dựng pháp luật; bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ liên quan đến thương mại; thủ tục hải quan; tiêu chuẩn kỹ thuật và hợp chuẩn....

Dự báo về những tác động tích cực của hội nhập và gia nhập WTO đối với phát triển kinh tế Việt Nam

- Tăng cường xuất khẩu thông qua việc giải quyết vấn đề tiếp cận thị trường của các thành viên WTO. Trong thời gian qua, thực hiện chiến lược kinh tế hướng mạnh về xuất khẩu, Việt Nam đã xây dựng được một loạt các ngành hàng có năng lực sản xuất lớn, có sức cạnh tranh cao và kim ngạch xuất khẩu hàng cao trên thế giới: gạo xuất khẩu đứng thứ 2, hạt tiêu đứng thứ nhất, điều đứng thứ 2, chè và thuỷ sản đứng thứ 7 trên thế giới. Trong các mặt hàng đó, nhiều mặt hàng có tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu rất cao như dệt may năm 2004 tăng hơn 5 lần, giày dép tăng hơn 9 lần so với năm 1995. Tuy nhiên, hiện nay, do một số thị trường chưa được khai thông, hoặc bị phân biệt đối xử nên khả năng xuất khẩu còn hạn chế. Khi gia nhập WTO, Việt Nam sẽ có cơ hội mở rộng xuất khẩu những mặt hàng mà mình có tiềm năng ra toàn cầu nhờ được hưởng những thành quả của hơn 50 cuộc đàm phán giảm thuế và hàng rào phi thuế, tăng cường tiếp cận thị trường của WTO, đặc biệt trong các lĩnh vực hàng nông sản và dệt may. Cơ hội xuất khẩu bình đẳng sẽ kéo theo những ảnh hưởng tích cực tới các ngành kinh tế trong nước, sản xuất sẽ được mở rộng và tạo ra nhiều công ăn việc làm.

- Tăng cường thu hút đầu tư nước ngoài. Trong những năm qua, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài thực sự đã trở thành một trong những động lực tăng trưởng sản xuất công nghiệp Việt Nam. Đầu tư nước ngoài đã tác động mạnh mẽ tới tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu Việt Nam: năm 1990, tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu của khu vực này trong tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước chỉ chiếm có 19,5%, năm 2004 con số này đã đạt 54%. Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài có vai trò quan trọng trong nền kinh tế nước ta: chiếm gần 30% vốn đầu tư xã hội, 35% giá trị sản xuất công nghiệp, 20% xuất khẩu, giải quyết việc làm cho hơn 70 vạn lao động và hàng chục vạn lao động gián tiếp.

Các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài góp phần chủ yếu vào việc chuyển giao công nghệ, đầu tư nghiên cứu và phát triển ở Việt Nam trong những năm qua. Sự xuất hiện của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài cũng đã có các tác động dây chuyền tích cực, như tăng mức độ cạnh tranh trên thị trường, giúp các doanh nghiệp và các nhà quản lý doanh nghiệp trong nước học hỏi thêm về cách thức bố trí sản xuất, quản lý, tiếp thu công nghệ, kiểu dáng sản phẩm và cách thức tiếp thị, phục vụ khách hàng...

Trong thời gian tới khi là thành viên WTO, Việt Nam sẽ phải tuân thủ hoàn toàn Hiệp định TRIMs của WTO, theo đó Việt Nam bắt buộc phải cải cách các chính sách liên quan đến đầu tư theo hướng giảm thiểu các rào cản trái với quy định của WTO, bãi bỏ sự phân biệt đối xử theo MFN và NT. Việc phải tuân thủ nguyên tắc minh bạch hoá và tính dự báo các quy định, chính sách thể chế thương mại, các nhà đầu tư sẽ yên tâm hơn khi tiến hành đầu tư. Hơn nữa có thị trường tiêu thụ rộng lớn thì các nhà đầu tư mới yên tâm đầu tư vào Việt Nam. Bên cạnh đó, Việt Nam cũng nhận được nhiều sự hỗ trợ về tài chính, tín dụng và viện trợ không hoàn lại của các tổ chứuc và các Chính phủ nước ngoài. Việc thực hiện những cam kết về mở cửa thị trường dịch vụ chắc chắn cũng sẽ kéo theo một làn sóng đầu tư nước ngoài vào nhiều ngành kinh tế như phân phối, bảo hiểm, ngân hàng, vận tải, viễn thông...

Bên cạnh những lợi ích kể trên, việc tăng cường hội nhập và gia nhập WTO cũng sẽ tạo điều kiện để Việt Nam cải cách chính sách, thể chế luật pháp với việc hoàn thiện hệ thống pháp luật, hoàn thiện cơ chế thị trường, cải cách hành chính và cải cách doanh nghiệp trong nước; tiếp thu khoa học công nghệ, kỹ năng quản lý, góp phần đào tạo một đội ngũ cán bộ quản lý và cán bộ kinh doanh năng động, sáng tạo..., tạo thế và lực cho Việt Nam trên trường quốc tế, hàng hoá và dịch vụ Việt Nam sẽ được đối xử bình đẳng trên thị trường của tất cả các thành viên WTO (theo nguyên tắc MFN). Việt Nam sẽ có lợi thế hơn trong giải quyết tranh chấp với các đối tác thương mại chính, do tiếp cận được hệ thống giải quyết tranh chấp công bằng và hiệu quả của WTO, tránh tình trạng bị các nước lớn gây sức ép trong các tranh chấp thương mại quốc tế. Gia nhập WTO cũng tạo điều kiện để Việt Nam không bị đối xử như một nền kinh tế phi thị trường (NME) trong các vụ tranh chấp thương mại như hiện nay.

Một số kiến nghị về chính sách đầu tư trong bối cảnh hội nhập và gia nhập WTO

Qua phân tích những vấn đề trên, có thể dự báo tác động của việc hội nhập và gia nhập WTO đến phát triển kinh tế Việt Nam thể hiện ở 2 khía cạnh: khó khăn, thách thức không phải là ít nhưng cơ hội cũng rất nhiều. Vấn đề ở đây là chúng ta cần phải có những giải pháp thích hợp để giảm thiểu những mặt bất lợi và khai thác tối đa những cơ hội vốn có. Nếu không có giải pháp đúng thì nguy cơ tụt hậu là rất lớn, chúng ta sẽ bị chính những nước trong khu vực có hoàn cảnh tương đồng bỏ lại đằng sau trong cuộc chạy đua này. Xem xét nghiêm túc các bước đi, bài học kinh nghiệm của các nước trong khu vực và trên thế giới, đặc biệt là Trung Quốc – một nước có nền kinh tế trước đây cũng là nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung như Việt Nam, sau khi gia nhập WTO tháng 12/2001, đã vững vàng tiến mạnh trên con đường hội nhập với những thành tựu không thể phủ nhận về phát triển kinh tế. Từ đó, đưa ra một số kiến nghị về cải cách chính sách đầu tư gắn với điều chỉnh cơ cấu kinh tế như sau:

Chính sách đầu tư nên từng bước giảm thiểu việc bảo hộ các ngành thay thế nhập khẩu mà khuyến khích đầu tư vào các ngành định hướng xuất khẩu. Chính sách bảo hộ nên được cân nhắc kỹ, tập trung theo một số ngành và chỉ bảo hộ trong thời gian nhất định. Việc lựa chọn phải dựa trên cơ sở phân tích số liệu các ngành này có tiềm năng trở thành ngành có hiệu quả và phát triển những lợi thế so sánh năng động hay không. Vấn đề quan trọng cần được lưu tâm là phải có các biện pháp chuyển đổi một cách hiệu quả các nhân tố sản xuất (vốn, lao động, kỹ năng quản lý) từ các ngành thay thế nhập khẩu sang khu vực xuất khẩu. Để cải thiện môi trường đầu tư và chuyển dịch cơ cấu kinh tế cần thực hiện một số biện pháp sau đây: mở rộng tín dụng đầu tư cho các dự án dân doanh; điều chỉnh cơ cấu đầu tư theo hướng khắc phục những công trình nhiều vốn hơn là cần nhiều lao động, đầu tư vào những sản phẩm mà cung đã vượt cầu, vào những sản phẩm thay thế hàng nhập khẩu; xã hội hoá đầu tư thông qua hình thành các dự án đầu tư nhà nước hoặc tư nhân lớn và kêu gọi cổ phần đầu tư từ tất cả những đối tác có khả năng và nhu cầu đầu tư. Khuyến khích BOT bằng nguồn vốn trong nước. Các cơ quan quản lý nhà nước trong lĩnh vực đầu tư không nên can thiệp quá sâu vào hoạt động đầu tư cụ thể mà tập trung sức làm tốt việc dự báo, cung cấp thông tin kinh tế, định hướng đầu tư, kiểm tra công tác quản lý đầu tư ở cơ sở. Vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước nên tập trung vào kết cấu hạ tầng sản xuất. Riêng lĩnh vực nông nghiệp, cần đầu tư vào khâu tạo giống, nhập khẩu giống mới năng suất cao... Đầu tư vào những ngành mà Trung Quốc và Asean không có ưu thế, ưu thế thấp hoặc giảm dần; cải thiện năng lực, hiệu lực thi hành thể chế đầu tư nước ngoài để môi trường đầu tư hấp dẫn hơn thay vì tạo ra hệ thống khuyến khích, ưu đãi đầu tư thông qua mức thuế; Đối với khu vực nông nghiệp, cần nhanh chóng áp dụng các tiến bộ sinh học, hiện đại hoá công nghệ chế biến, nâng cao chất lượng vệ sinh thực phẩm, đóng gói, bao bì...; Đối với khu vực công nghiệp, trong bố trí đầu tư, xây dựng phải chọn lựa thứ tự ưu tiên phù hợp với điều kiện của từng thời kỳ. Điều quyết định là chọn lựa đúng những công trình có lợi thế so sánh, tiêu thụ được sản phẩm, thu hồi được vốn, trả được nợ vay; Đối với khu vực dịch vụ, nhất là các dịch vụ chuyên môn và trí tuệ. Vừa ra sức xây dựng bằng thực lực của quốc gia, vừa biết tranh thủ sự hợp tác có lợi với thế giới bên ngoài; chấp nhận cạnh tranh, kể cả cạnh tranh trong nước lẫn cạnh tranh quốc tế, coi như một động lực thúc đẩy sự tiến bộ của các ngành dịch vụ.