Sự giống nhau giữa văn học dân gian và văn học viết
Lập bảng so sánh văn học dân gian và văn học viết09/09/2021 Ngữ văn Show Nêu những điểm phân biệt văn học dân gian với văn học viết.Những điểm giống và khác nhau giữa văn học dân gian và văn học viếtNgày đăng:23/02/2016 - 00:00 Văn học dân gian và văn học viết là 2 bộ phận cấu thành nền văn học dân tộc.Chương trình ngữ văn THCS ở lớp 6 và lớp 7 đều được học cả văn học cả văn học dân gian và văn học viết. Để giúp các em phân biệt rõ 2 bộ phận văn học này, tôi rút ra 1 số điểm giống và khác nhau như sau : Văn học dân gian và văn học viết là 2 bộ phận cấu thành nền văn học dân tộc.Chương trình ngữ văn THCS ở lớp 6 và lớp 7 đều được học cả văn học cả văn học dân gian và văn học viết. Để giúp các em phân biệt rõ 2 bộ phận văn học này, tôi rút ra 1 số điểm giống và khác nhau như sau : 1 Giống nhau Cả hai bộ phận văn học dân gian và văn học viết đều nhận thức và phản ánh cuộc sống của con người bằng hình tượng. Nghĩa là người sáng tác thông qua việc xây dựng các hình tượng nghệ thuật để tái hiện hiện thực cuôc sống, thể hiện tư tưởng, tình cảm, ước mơ, khát vọng của con người. Con người là trung tâm trong bức tranh đời sống văn học. .2 Khác nhau Khách quan mà nói, so với văn học viết, văn học dân gian có những ưu thế riêng trong việc thỏa mãn nhu cầu tinh thần, nhu cầu tình cảm, thể hiện tâm tư, nguyện vọng của đa số quần chúng nhân dân. Người bình dân có thể sáng tác một truyện cổ tích, một bài ca dao ở mọi nơi mọi lúc (trên đồng ruộng, bên mái đình, đêm trăng thanh… ) . Quá trình sáng tác diễn ra rất nhanh, theo lối ứng tác. Quá trình sáng tác và lưu truyền của văn học dân gian không bị cản trở bởi sự kiểm duyệt nào. Và lại, là những sáng tác khuyết danh, phản ánh đời sống tình cảm của người bình dân đúng như nó vốn có, Văn học dân gian vì thế phát huy được tối đa tinh thần dân chủ. Văn học dân gian được lưu truyền và phổ biến nhanh, có sức cộng hưởng lớn trong quần chúng nhân dân. Ngôn ngữ văn học dân gian có sự kết hợp với các yếu tố ngoài văn bản, gắn liền với môi trường diễn xướng dân gian nên đạt hiệu quả giao tiếp cao. Ngôn ngữ văn học dân gian mộc mạc, chất phác, tự nhiên. Tác phẩm thường được sáng tác theo môtip, công thức có sẵn, Người bình dân không cần dồn hết năng lực vào việc sáng tác văn bản. Trong khi ngôn ngữ văn học viết gọt giũa, sử dụng nhiều biện pháp tu từ, được người sáng tác cẩn thận từng “miligam quặng chữ”. Do “cách mặt khuất lời’, lại là sản phẩm của một cá nhân nên ngôn ngữ văn học viết được pha màu theo cách riêng, sự sáng tạo của nhà văn, nhà thơ được thể hiện ở sự mới lạ về kết cấu, cốt truyện… Văn học dân gian thường có phương diện phê phán, hài hước, khác với văn học viết có quan tâm đến tầng lớp dưới, nhưng chủ yếu hướng đến tầng lớp trên, thẩm định các giá trị nhân văn của con người. Nhân vật trong văn học dân gian có tính phổ biến, tiêu biểu cho một kiểu người, loại người. Trong khi đó nhân vật văn học viết là những sáng tạo có tính cá thể, “điển hình hóa’. Do lan truyền bằng con đường truyền miệng, văn học d& 2000 acirc;n gian có tính khả biến, biến đổi theo thời gian và không gian (dị bản) đề tài, chủ đề lập đi lập lại trong nhiều tác phẩm khác nhau. Ngược lại, văn học viết cố định, bất biến về mặt văn bản nhưng luôn có sự “lạ hóa” về đề tài, chủ đề, cách thức thể hiện… Thể loại văn học dân gian khá đa dạng trong thể loại do cùng cấu trúc thẩm mĩ. Văn học viết lại khác, cùng đề tài nhưng khác xa về cấu trúc thẩm mĩ. Không gian, thời gian, nhân vật, cốt truyện trong văn học viết là cá biệt, cụ thể. Trong khi đó, văn học dân gian lại phiếm chỉ, tương đồng. Văn học dân gian ra đời đầu tiên,tiếp tục tồn tại sau khi có chữ viết và phát triển cho tới ngày nay là nhờ 1 phần quan trọng của chính dòng văn học này. Văn học dân gian có vai trò quan trọng trong việc hình thành và phát triển văn học viết học viết.Vai trò của văn học dân gian với văn học viết như thế nào cũng là 1 vấn đề mở để chúng ta cùng tìm hiểu.
Nguồn: thcsvanlang.pgdviettri.edu.vn Phân biệt Văn học dân gian và Văn Học viếtBạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (116.36 KB, 19 trang ) TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH NỘI DUNG CHÍNH: 1. Định nghĩa văn học dân gian và văn học viết: Văn học dân gian là sáng tác tập thể, truyền miệng của nhân dân lao động, nó phản ánh sinh hoạt xã hội, đời sống tâm lí, tình cảm, thái độ, nguyện vọng, kinh nghiệm mọi mặt của nhân dân lao động các thế hệ, ra đời từ thời kì công xã nguyên thủy, trải qua các thời kì phát triển lâu dài trong các chế độ xã hội có giai cấp, tiếp tục tồn tại trong thời đại hiện nay. Có ba thuật ngữ được xem là tương đương khi nói về vấn đề này: văn học dân gian, sáng tác nghệ thuật truyền miệng của nhân dân, folklore ngôn từ ( folklore văn học ). Khác với văn học dân gian, văn học viết hình thành đã “ mở ra một thời kì lịch sử mới, oanh liệt, rực rỡ” ( Đặng Thai Mai ). Dòng văn học này được sáng tác bằng chữ viết, được sáng tác bởi cá nhân hoặc nhóm tác giả. Văn học viết còn có tên gọi khác là văn học thành văn. 2. Điểm giống nhau giữa văn học dân gian và văn học viết: Giữa văn học dân gian và văn học viết chúng ta thấy có một số điểm giống nhau như: đều do con người lao động trí óc sáng tạo nên, cả hai đều lấy tư liệu từ cuộc sống và mang những nội dung cụ thể nhất định. Về nội dung: cả văn học dân gian và văn học viết đều phản ánh thực trạng xã hội, thể hiện mong ước của con người. Xét trên phương diện thể loại, hai bộ phận này có thể được sáng tác dưới dạng văn xuôi hoặc thơ. Bên cạnh đó, chúng cùng sử dụng ngôn từ như phương tiện quan trọng nhất để sáng tạo hình tượng nghệ thuật, cùng thể hiện tư tưởng, quan niệm, thái độ, tình cảm của tác giả qua những hình tượng nghệ thuật đó. Hơn nữa, chúng cùng tác động đến thực tiễn, có tác dụng cải biến thực tiễn… 3 3. Phân biệt văn học dân gian và văn học viết: Bên cạnh những điểm gặp gỡ chung giữa văn học dân gian và văn học viết thì chúng còn có rất nhiều điểm khác nhau, thậm chí những khác biệt đó mang tính bản chất. Để rõ ràng và xác đáng chúng ta sẽ lần lượt soi chiếu chúng ở bốn phương diện chủ yếu sau: lực lượng sáng tác, phương thức sáng tác và lưu truyền, nội dung phản ánh và thủ pháp nghệ thuật. a. Về lực lượng sáng tác: Chủ nhân của văn học dân gian phần lớn là người nông dân nhưng cũng có những người trí thức với tư cách là một cộng đồng dân tộc. Họ sáng tác các tác phẩm nhằm phục vụ cho sinh hoạt sản xuất. Sau những giờ lao động nhọc mệt, vất vả, những tác phẩm văn học dân gian được thành hình nhằm làm khuây khỏa nỗi lo cơm áo và giúp tinh thần họ thoải mái hơn, từ đó mà việc sản xuất trở nên có hiệu quả, đời sống vui tươi, lành mạnh. Do đặc trưng về lực lượng sáng tác phần lớn là nhân dân lao động nên tính quê mùa, chất phác là điều hiện hữu rõ nét nhất. những con người ấy sống tự do như chim trời, bình dị, dân dã, lạc quan, yêu đời. Tất cả điều đó họ đưa vào sáng tác một cách tự nhiên, chân thật nhất như nó vốn tồn tại: “Trời mưa Quả dưa vẹo vọ Con ốc nằm co Con tôm đánh đáo Con cò kiếm ăn”. Hay: “Rủ nhau đi cấy, đi cày Bây giờ khó nhọc có ngày phong lưu Trên đồng cạn, dưới đồng sâu Chồng cày, vợ cấy, con trâu đi bừa”. Đối với văn học viết, lực lượng sáng tác chủ yếu là trí thức, những người biết chữ nghĩa và ít nhiều có sự tiếp xúc với văn hóa, có trình độ nhất định. Chẳng hạn như Nguyễn Du (1965-1820) là đại thi hào dân tộc, danh nhân văn hóa thế 4 giới, một nhà nhân đạo chủ nghĩa lỗi lạc có “ con mắt trông khắp sáu cõi và tấm lòng nghĩ suốt nghìn đời” ( Mộng Liên Đường chủ nhân ). Ông sinh ra trong một gia đình có nhiều đời và nhiều người làm quan to dưới triều Lê- Trịnh. Thời thơ ấu Nguyễn Du sống trong nhung lụa tại đất Thăng Long. Lên mười tuổi, cuộc đời ông gặp những sóng gió khi mồ côi cả cha lẫn mẹ trong cơn biến ba đào. Hai mươi năm chìm nổi, long đong ngoài đất Bắc, ông tiếp xúc với những thân phận dưới đáy xã hội. tài năng, tri thức và sự lăn lộn trong cuộc đời đã hun đúc nên một thiên tài như Nguyễn Du. Đó còn là Hồ Chí Minh xuất thân trong một gia đình nhà nho yêu nước, hay là Nguyễn Tuân, Tố Hữu… Họ viết văn nhằm thưởng thức nghệ thuật, nhằm thỏa mãn chí nguyện của mình, hướng đến chân-thiện-mĩ. Bên cạnh đó, một bộ phận trí thức phải chịu cảnh “ áo cơm ghì sát đất”, “ ăn bữa nay, lo bữa mai”… nên văn chương với họ là phương tiện kiếm sống, là kế sinh nhai. Dù sáng tác với lí do gì, thì trí thức vẫn là một tầng lớp có hiểu biết trong xã hội, có trình độ tương đối nên các “ đứa con tinh thần” của họ khá cao nhã, thể hiện rõ trí tuệ, tài năng của người cầm bút. Lực lượng sáng tác của văn học dân gian và văn học viết là hai giai cấp, tầng lớp khác nhau. Vì thế, nó chi phối đặc điểm của sáng tác, thể hiện nét riêng, độc đáo của mỗi dòng văn học. b. Về phương thức sáng tác và lưu truyền: Phương thức sáng tác của văn học dân gian là ngôn ngữ nói. Đó là thứ ngôn ngữ âm thanh, dùng trong giao tiếp tự nhiên hằng ngày; trong đó người nói người nghe tiếp xúc trực tiếp với nhau, có thể thay phiên nhau trong vai nói và vai nghe. Do đó, mọi tình cảm, cảm xúc trở nên chân thật, tự nhiên, tạo sự linh hoạt, sống động trong sáng tác. Phương thức lưu truyền của văn học dân gian là truyền miệng bởi trong điều kiện một dân tộc chưa có chữ viết thì không thể có một phương thức tồn tại và phát triển nào khác. Chu Xuân Diên đã nói về phương thức 5 này như sau: “ Phương thức truyền miệng là một đặc trưng của sản xuất nghệ thuật, hình thức này có những nguyên tắc thuộc về thủ pháp và trí nhớ, những thủ pháp này đã trở thành truyền thống và giúp cho nhân dân “ nhập tâm” được một số lượng khá lớn tác phẩm khác nhau hoặc những tác phẩm đôi khi có chủ đề hết sức phức tạp”. Văn học dân gian là một loại văn học sinh hoạt, nên môi trường hội hè, đình đám là đặc trưng nhất. nó tạo nên một nét “không khí” thẩm mĩ riêng biệt mà chỉ văn học dân gian mới có. Chúng ta bắt gặp những buổi nghe hát ca dao qua các điệu hò mái nhì vút lên trên sông Hương, hay tham dự vào những “đêm hát ví xôn xao” trong khung cảnh đông đúc, những buổi kể khan bên bếp lửa bập bùng của đông bào các dân tộc ít người ở Tây Nguyên… Môi trường hội hè, đình đám ấy chính là một trong những nguyên nhân kích thích sự sáng tạo, một trong những điều kiện tốt nhất để tìm tòi và thực hiện cảm hứng sáng tạo của các nghệ sĩ dân gian. Sáng tạo văn học dân gian mang tính tập thể, nó có quan hệ mật thiết với tính truyền miệng, là một biểu hiện cho mối quan hệ phụ thuộc của văn học dân gian vào môi trường sinh hoạt của nó và suy cho đến cùng là có cơ sở ở điều kiện sống, điều kiện lao động và sinh hoạt tập thể của quần chúng nhân dân. Đặc trưng của tính tập thể là văn học dân gian không có tác giả, văn học dân gian không phải là tài sản của quốc gia dân tộc mà là của toàn nhân loại. Vì thế, chúng ta khi tiếp nhân nó cân chuẩn bị tâm thế: hiểu rõ đặc điểm xã hội, giai cấp của nhân dân lao động, đặt tác phẩm trong hoàn cảnh lịch sử cụ thể và chấp nhận sự lặp lại trong sáng tạo. Khác văn học dân gian, phương thức sáng tác của văn học viết là ngôn ngữ viết. Đây là thứ ngôn ngữ được thể hiện bằng chữ viết trong văn bản và được tiếp nhận bằng thị giác. Nó đòi hỏi phải có sự chọn lọc, suy nghĩ, nghiền ngẫm, gọt giũa 6 kĩ càng. Các tác phẩm văn học thành văn được văn bản hóa trong lưu truyền, đây là một điều tiến bộ và thuận lợi, bởi việc ghi chép trên văn bản sẽ giúp cho quá trình gìn giữ được lâu bền hơn. Môi trường sáng tác của văn học viết là môi trường yên tĩnh. Mỗi nhà văn tự chọn cho mình một không gian riêng biệt, phù hợp với tính cách, cảm xúc của mình, khác với văn học dân gian ở môi trường đám đông nhằm ứng khẩu, ứng đáp tại chỗ. Do văn học viết được sáng tác bởi cá nhân, có tác giả rõ ràng nên các tác phẩm mang đậm dấu ấn cá nhân của người nghệ sĩ. Nó được biểu hiện thông qua cái nhìn và giọng điệu độc đáo, riêng biệt của tác giả, các lớp nội dung của tác phẩm, các phương tuện nghệ thuật mà tác giả sử dụng… Trong nền văn học nước nhà, ta thấy rất nhiều nghệ sĩ có dấu ấn cá nhân riêng biệt của mình như: Nam Cao với ngòi bút sắc lạnh “nhà văn của những kiếp lầm than”, một người cầm bút với tâm hồn rộng mở để đón nhận “những vang động của đời”; Xuân Diệu với hồn thơ luôn khao khát giao cảm với đời, luôn nồng nàn, say đắm trong tình yêu; Tô Hoài nổi tiếng là nhà văn giỏi miêu tả phong tục, giỏi khắc họa nét đẹp riêng trong cảnh vật và tính cách con người của một vùng đất; Nguyễn Tuân xứng đáng với danh hiệu bậc thầy trong nghệ thuật sử dụng ngôn từ với khả năng sáng tạo những từ ngữ, hình ảnh mới lạ bất ngờ, những câu văn giàu chất nhạc chất họa linh hoạt như “biết co duỗi nhịp nhàng”… và còn vô số nhà văn, nhà thơ với dấu ấn riêng, độc đáo khác nữa. Phương thức sáng tác và lưu truyền của văn học dân gian và văn học viết tuy không giống nhau nhưng đặc trưng chung của chúng là đều cống hiến cho nền văn học Việt Nam những tác phẩm đặc sắc, tuyệt vời. c. Về nội dung phản ánh: Do đặc trưng của văn học dân gian về lực lượng sáng tác, phương thức sáng tác nên nội dung của nó hướng đến đời sống dân dã. Đó là những vấn đề thiết 7 thân, quen thuộc hằng ngày với nhân dân lao động. chẳng hạn qua thể loại ca dao-dân ca ta bắt gặp các chủ đề hết sức bình dị. Đầu tiên là đề tài tình yêu quê hương, đất nước: “Anh đi anh nhớ quê nhà Nhớ canh rau muống, nhớ cà dầm tương Nhớ ai dãi nắng dầm sương, Nhớ ai tát nước bên đường hôm nao.” Đó là tình cảm thường trực trong trái tim con người Việt Nam, dù đi đâu về đâu thì nơi đã sinh ra ta, nuôi dưỡng ta vẫn luôn được ta hướng về. những thứ dân dã như “rau muống”, “cà” ta sẽ luôn ghi nhớ, nơi “chôn rau cắt rốn” ta sẽ không bao giờ quên. Tình yêu quê hương, đất nước còn được thể hiện qua việc giới thiệu các địa danh, thắng cảnh của dân tộc: “Gió đưa cành trúc la đà Tiếng chuông Trấn Vũ, canh gà Thọ Xương Mịt mù khói tỏa ngàn sương Nhịp chày Yên Thái mặt gươm Tây Hồ.” Thứ hai, đề tài tình yêu nam nữ cũng được nhân dân ta rất chú ý: “Ai làm cho bướm lìa hoa Cho chim xanh nỡ bay qua vườn hồng Ai đi muôn dặm non sông, Để ai chất chứa sầu đong vơi đầy.” Tình yêu đôi lứa là thứ tình cảm đẹp đẽ nhất, trong sáng nhất, nó luôn chất chứa bao nỗi niềm cần được giải tỏa. nỗi niềm ấy là nỗi nhớ nhau vô ngần: “Nhớ ai bổi hổi bồi hồi Như đứng đống lửa, như ngồi đống than” Hay sâu sắc hơn, nghĩ ngợi hơn là nỗi niềm của những người phải chia xa, phải chia li, gặp những trắc trở, trục trặc trong tình yêu: “Đêm qua tựa gối loan phòng Dầu hao thiếp xót, đèn chong canh dài, Chờ chàng canh một, canh hai Canh ba, canh bốn… đêm dài như sông.” Nhưng nhân dân ta cũng không quên gửi gắm khát vọng về sự vẹn tròn trong tình yêu: 8 “Đôi ta như khóa với chìa Trọn niềm chung thủy, đừng lìa mới hay.” Bên cạnh đó, trong đời sống của nhân dân ta thì thân phận người phụ nữ đã trở thành một đề tài lớn và được khai thác một cách “trần trụi” nhất: “Thân em như chổi đầu hè Phòng khi mưa nắng đi về chùi chân.” Hay: “Em như con hạc đầu đình Muốn bay không nhấc nổi mình mà bay.” Người phụ nữ trong xã hội xưa luôn bị phụ thuộc. Họ vốn là những người phụ nữ xinh đẹp, nết na, đoan trang, hiền thục nhưng bởi lỗi ở thời đại, ở tư tưởng “trọng nam khinh nữ” mà họ phải chịu biết bao đau khổ, dập vùi: “Thân em như hạt mưa rào Hạt rơi xuống giếng, hạt vào vườn hoa Thân em như hạt mưa sa Hạt vào đài các, hạt ra ruộng cày.” Chủ đề thứ ba là tình cảm gia đình, với những đạo lí được nhân dân ta đút rút hết sức ý nghĩa: “Con người có tổ, có tông Như cây có cội, như sông có nguồn.” Hay: “Cây khô chưa dễ mọc chồi Bác mẹ chưa dễ ở đời với ta Non xanh bao tuổi mà già Bởi vì sương tuyết hóa ra bạc đầu.” Những câu ca với lời lẽ thủ thỉ, tâm tình nhưng ẩn chứa nhiều bài học quý giá. Nó dạy con người phải biết quý trọng ơn nghĩa của đấng sinh thành, sống trọn đạo con cái. Tình cảm gia đình là thứ tình cảm thiêng liêng, cao quý nhất. Đó là cái nôi, cái nền, là nền tảng vững chắc để ta trưởng thành và trở nên một con người đúng nghĩa. Vì vậy, ông cha ta luôn không ngừng nhắc nhở: “Công cha như núi Thái Sơn Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra 9 Một lòng thờ mẹ kính cha Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con.” Ngoài ra, ca dao-dân ca còn có sức biểu hiên nhiều mối quan hệ khác trong xã hội: “Trâu ơi ta bảo trâu này Trâu ra ngoài ruông trâu cày với ta. Cấy cày vốn nghiệp nông gia, Ta đây, trâu đấy ai mà quản công Bao giờ cây lúa còn bông, Thì còn ngọn cỏ ngoài đồng trâu ăn.” Hay: “Bầu ơi thương lấy bí cùng Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn.” Cái nhìn của quần chúng đã chi phối nội dung của các tác phẩm văn học dân gian. Chẳng hạn ở thể loại truyện cổ tích, ta luôn bắt gặp những cái kết có hậu, nhân vật thiện sẽ chiến thắng: cô Tấm sau bao biến cố dập vùi đã trở về làm hoàng hậu, anh Khoai trong “Cây tre trăm đốt” đã hoàn thành nhiệm vụ và sống đời hạnh phúc… các nhân vật phản diện sẽ bị trừng trị đích đáng. Đó là ước mơ, khát vọng, là cái nhìn quần chúng của nhân dân lao động. Cụ thể chúng ta sẽ cùng phân tích cái nhìn quần chúng đã được thể hiện trong truyện cổ tích “Tấm Cám”. Cuộc đời của cô Tấm phải chịu nhiều đau khổ, bất hạnh do mẹ con Cám gây ra. Trải qua mọi đau khổ cô vẫn giữ được vẽ đẹp của mình, vẽ đẹp của thể chất và quan trọng hơn là vẽ đẹp về tinh thần. Ta tưởng như cô hiền hậu và vị tha hết mức thậm chí đến mức mềm yếu. Nhưng không dưới cái nhìn của quần chúng buộc cô phải kiên cường, phải biết đấu tranh. Cô gái ngây thơ đó, khi cần thì đã biết căm thù, cô gái dịu hiền đó, khi cần thì đã biết đứng lên. Kết cục của truyện một làn nữa được soi rọi dưới cái nhìn của nhân dân ta: Tấm trừng phạt Cám, có như vậy mới chân thực. Cô Tấm đứng trước hai sự lựa chọn: tha thứ để chúng tiếp tục giết mình hay giết chúng để mình được sống. Việc trừng 10 phạt ấy nó không hề làm giảm đạo đức của cô mà ngược lại nó thể hiện được sự rạch ròi trong nhận thức của tác giả dân gian “ở hiền gặp lành”, “ác giả ác báo”. Cái nhìn quần chúng ấy đã chi phối mạnh mẽ câu chuyện và để lại cho hậu thế nhiều bài học thật quý giá. Nội dung phản ánh của văn học viết, phần lớn thuộc phạm trù cao nhã. Với những đề tài phong phú, được “tinh chọn” một cách kĩ cáng. Đề tài thiên nhiên, con người, tình yêu được sàng lọc qua cái nhìn của tầng lớp trí thức trở nên thật mới lạ. Chẳng hạn, khi Nguyễn Du viết về thân phận của người phụ nữ trong kiệt tác “Truyện Kiều” ông đã khái quát: “Đau đớn thay phận đàn bà Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung” Chỉ có thể qua cái nhìn của một người trí thức từng trải, sống với đời, lăn lộn với đời, đi sâu tìm hiểu mới có những câu thơ khái quát làm đau lòng người ta, làm nhói lòng người ta và làm người ta gật đầu lia lịa như vậy: Đúng! Quá đúng! Cái nhìn của Nguyễn Du đã bao trọn, ôm lấy thân phận phái nữ thời trung đại chỉ trong hai câu thơ. Thật tài tình! Trong truyện ngắn Đời thừa của nhà văn Nam Cao, một câu chuyện nhẹ nhàng nhưng khiến ta thấm thía. Tác phẩm kể về nhân vật Hộ, một văn sĩ với khát vọng cao cả nhưng vướng vào cảnh “áo cơm ghì sát đất”, bị những gánh nặng lo toa của cuộc sống làm cho lung lạc và dần trở thành một con người “sống tồi, sống tẻ”, đánh mất phương hướng trong cuộc sống. Nhưng dưới cái nhìn của một người trí thức như Nam Cao đã làm cho người đọc cảm thấy Hộ đáng thương hơn là đáng trách. Những câu văn viết ra từ màu thịt, huyết quản của tác giả thấu suốt tất cả nỗi lòng nhân vật, làm bật lên nghịch cảnh và gửi gắm những triết lí nhân sinh cao cả. 11 Về mặt nội dung, giữa văn học dân gian và văn học viết với cái nhìn khác nhau, hệ thống đề tài cũng khác nhau. Điều này được quy định bởi lực lượng sáng tác, hoàn cảnh xã hội và nhiều yếu tố khác nữa. d. Về thủ pháp nghệ thuật: Ngôn ngữ sử dụng trong văn học dân gian là ngôn ngữ bình dân, dễ nghe, dễ hiểu, phù hợp với đời sống đơn giản, bình dị của nhân dân lao động. Chẳng hạn, qua các câu văn trích trong sử thi “Đăm Săm” của đồng bào Ê-Đê: “ Mtao Mxây là một tù trưởng giàu mạnh. Gông cùm, tù binh chật cả làng. Lông chân như đắp thêm một lớp. Lông mày sắc như đá mài. Con mắt sáng ngời như đã uống hết một chum rượu, đến nỗi một con trâu lớn cũng không dám đi qua” hay “Anh đi trên đường cái thoắt thoắt như con rắn Prao huê. Anh đi trong đám cỏ tranh nhanh như con rắn Prao hơ mat…”. Hình thức của các tác phẩm văn học dân gian khá giản dị, có lẽ vì chưa xuất hiện chữ viết và trí tuệ đơn giản, cái nhìn dân dã của người dân mà nên. Ví dụ như các câu truyện cười, ngụ ngôn với dung lượng vô cùng ngắn gọn và câu chữ gần gũi, thân thuộc với mỗi chúng ta. Nó dễ hiểu, dễ nhớ và đi sâu vào tâm trí của bao thế hệ. Các thể loại dân tộc được sử dụng một cách dày đặc, nhuần nhuyễn. Văn học dân gian bao gồm các thể loại chính sau đây: thần thoại, cổ tích, ngụ ngôn, truyện cười, vè, tục ngữ, ca dao, câu đố, sử thi, truyền thuyết, chèo sân đình, tuồng đồ… Bên cạnh đó, văn học dân gian cũng có sự cách tân trong khuôn khổ truyền thống. Điều này thể hiện khá rõ ở thể loại ca dao lục bát: ca dao lục bát hình thức vốn có của nó là hai câu 6/8, nhưng theo thời gian nó đã được biến thể, đổi mới, vượt ra khỏi giới hạn thông thường: “Thấy em nhỏ thó lại có duyên ngầm Anh phải lòng thầm đã bấy lâu nay.” Hay: 12 “Yêu nhau tam tứ núi cũng trèo Ngũ lục sông cũng lội, thất bát đào cũng qua.” Rõ ràng sự sáng tạo của nhân dân lao động đã góp phần làm hay hơn, mới lạ hơn những cái vốn dĩ đã trở thành khuôn khổ. Đồng thời,nó làm tăng giá trị biểu cảm của câu văn, câu thơ, diễn đạt một cách viên mãn dụng ý nghệ thuật của tác giả dân gian. Khác với văn học dân gian, văn học viết sử dụng ngôn từ trang trọng, mang sắc thái biểu hiện cao, có nhiều từ được xem là rất “đắc địa” khi làm tăng tính biểu cảm của câu thơ, câu văn một cách hết sức mạnh mẽ. Điển hình là nhà văn Nguyễn Tuân- bậc thầy của ngôn ngữ: “Con Sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân”, “Và thời gian của đồng hồ thủy tiên đêm tết xa như không ngớt thánh thót vương hương”, “SêKhốp là cái sáo diều vĩ đại, trên đôi cánh âm vang tiếng nói của hiện thực và nhịp thơ của lãng mạn”… Hình thức của các tác phẩm khá cầu kì, phức tạp, đặc biệt là các tác phẩm thuộc nền văn học trung đại với những quy tắc, khuôn khổ bắt buộc: “Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo Nền cũ lâu đài bóng tịch dương Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt Nước còn cau mặt với tang thương Ngàn năm gương cũ soi kim cổ Cảnh đấy người đay luống đoạn trường.” ( Bà Huyện Thanh Quan, Hoài Cổ) Hay: “Ao thu lạnh lẽo nước trong veo Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo.” (Nguyễn Khuyến, Thu Điếu) 13 Do xu thế thời đại, dòng văn học viết buộc phải du nhập từ bên ngoài các thể loại để đưa nền văn học nước nhà hội nhập cùng nền văn học thế giới. chẳng hạn, nhà thơ Xuân Diệu đã tiêp thu thể thơ vắt dòng từ văn học phương Tây: “Tôi muốn tắt nắng đi cho màu đừng nhạt mất tôi muốn buộc gió lại cho hương đừng bay đi.” Thể thơ tự do cũng là một thể thơ được du nhập từ bên ngoài. Thơ tự do phá bỏ mọi sự cứng rắn, khắt khe về số câu, số chữ, bố cục, luật bằng trắc, vần nhịp… Nó khiến quá trình sáng tác trở nên thoải mái và hứng thú hơn: “Còn chi nữa em ơi! Còn đâu ánh trăng vàng, Mơ trên làn tóc rối, Chân nàng trên đường sồi, Sương lá đổ vội vàng” (Lưu Trọng Lư, Còn Chi Nữa) Hay: “Dẫu tin tưởng chung một đời một mộng Em là em anh vẫn cứ là anh Có thể nào qua vạn lí trường thành Cuả hai vũ trụ chứa đầy bí mật.” (Xuân Diệu, Xa Cách) Văn học dân gian và văn học viết đã sử dụng các thủ pháp nghệ thuật khác nhau, tạo nên nét riêng biệt và nổi bật của hai bộ phận hợp thành nền văn học dân tộc. 4. Mối quan hệ giữa văn học dân gian và văn học viết: Văn học dân gian là nền tảng của văn học viết, là chặng đầu của nền văn học dân tộc. khi chưa có chữ viết, nền văn học Việt Nam chỉ có văn học dân gian; khi có chữ viết nền văn học Việt Nam mới bao gồm hai bộ phận: văn học dân gian và văn học viết. 14 Văn học viết chịu ảnh hưởng của văn học dân gian về nhiều phương diện, từ nội dung tư tưởng đến hình thức nghệ thuật. Ví dụ như truyền thuyết “Thánh Gióng” đã mở đầu cho dòng văn học yêu nước, chống xâm lược trong nền văn học dân tộc; thể thơ lục bát, thể thơ được thi hào Nguyễn Du sử dụng một cách tài tình, bắt nguồn từ bộ phận văn vần dân gian… Văn học viết cũng có tác động trở lại văn học dân gian trên một số phương diện. Chẳng hạn, tác giả dân gian đã đưa những chất liệu văn học viết vào ca dao, dân ca ( những nhân vật trong Truyện Kiều, Lục Vân Tiên… ): “Hai ta như Kim Trọng, Thúy Kiều Đã lắm lúc đắng, còn nhiều lúc cay.” Hay: “Anh mà bắt chước Thúc Sinh Thì anh đừng trách vợ mình Hoạn Thư.” Mối quan hệ của văn học dân gian với văn học viết cũng như vai trò, ảnh hưởng của văn học dân gian với văn học viết thể hiện trọn vẹn hơn cả ở lĩnh vực sáng tác và ở bộ phận thơ văn quốc âm. Cụ thể, trong bài viết “Mối quan hệ giữa văn học dân gian với văn học viết trong lịch sử văn học dân tộc”, Nguyễn Đình Chú đã chỉ rõ mối quan hệ ấy thông qua hai hiện tượng tiêu biểu: dùng chữ quốc ngữ để sưu tầm, ghi chép văn học dân gian và khai thác kho tàng văn học dân gian trong khi sáng tác văn học hiện đại. Như vậy, trong quá trình phát triển, hai bộ phận văn học dân gian và văn học viết luôn có mối quan hệ biện chứng, tác động, bổ sung, hỗ trợ lẫn nhau để 15 cùng phát triển. Văn học dân gian là nền tảng cho văn học viết tiếp thu. Trái lại, có tác động trở lại làm văn học dân gian thêm phong phú, đa dạng. KẾT LUẬN Giữa văn học dân gian và văn học viết có nhiều nét tương đồng và khác biệt. đó là đặc trưng về lực lượng sáng tác, phương thức sáng tác và lưu truyền, nội dung phản ánh và thủ pháp nghệ thuật. Tuy nhiên, chúng cũng có mối quan hệ chặt chẽ, mật thiết với nhau và cùng tồn tại song hành trong nền văn học Việt Nam. Thông qua việc đối chiếu, chúng ta có thể thấy rằng, văn học dân gian là một bộ bách khoa toàn thư về cuộc sống của nhân dân lao động, được ghi lại bằng một phương thức nghệ thuật độc đáo. Cho nên văn học dân gian của mỗi dân tộc là một trong những thành tựu văn hóa, thành tựu nghệ thuật quan trọng nhất, làm cơ sở cho việc xây dựng và phát triển nền văn hóa nghệ thuật của dân tộc đó. Văn học dân gian và văn học viết sẽ luôn đứng bên cạnh nhau, bổ trợ và cùng phát triển để xây dựng nên một nền văn học dân tộc phong phú, đa dạng và trường tồn. 16 PHỤ LỤC *BẢNG: PHÂN BIỆT VĂN HỌC DÂN GIAN VÀ VĂN HỌC VIẾT: STT 1 2 3 4 TIÊU CHÍ Lực lượng sáng tác Phương thức sáng tác và lưu truyền Nội dung phản ánh Thủ pháp nghệ thuật VĂN HỌC DÂN GIAN • Nhân dân lao động • Phục vụ sinh hoạt, sản xuất • Quê mùa, chất phác • Ngôn ngữ nói • Truyền miệng • Môi trường hội hè, đình đám • Sáng tạo tập thể • Đời sống dân dã • Cái nhìn của quần chúng • Ngôn ngữ bình dân • Hình thức giản dị • Thể loại dân tộc • Đổi mới trong khuôn khổ truyền thống • • • • • • • • • • • • TÀI LIỆU THAM KHẢO 17 VĂN HỌC VIẾT Trí thức Thưởng thức nghệ thuật, kiếm sống Cao nhã, trí tuệ Ngôn ngữ viêt Văn bản hóa Môi trường yên tĩnh Dấu ấn cá nhân Phạm trù cao nhã Cái nhìn của tầng lớp trí thức Ngôn từ trang trọng Hình thức cầu kì, phức tạp Thể loại du nhâp từ bên ngoài ST T 1 2 3 4 5 6 7 8 9 TÀI LIỆU THAM KHẢO Nguyễn Bích Hà. Giáo trình VHDG Việt Nam. NXB ĐHSP, H, 2012. Đinh Gia Khánh, Chu Xuân Diên, Võ Quang Nhơn. VHDG Việt Nam. NXB GD, H, 1998. Bùi Mạnh Nhị, Hồ Quốc Hưng, Nguyễn Thị Ngọc Điệp. VHDG- Những công trình nghiên cứu. NXB GD, H, 2001. Bùi Mạnh Nhị, Hồ Quốc Hưng, Nguyễn Thị Ngọc Điệp. VHDG- Những tác phẩm chọn lọc. NXB GD, H, 2002. Nguyễn Minh (sưu tầm). Ca dao, tục ngữ Việt Nam. NXB Thanh Hóa, 2007. Nguyễn Xuân Kính. Thi pháp ca dao. NXB ĐHQG Hà Nội, 2004 Vũ Ngọc Phan. Tục ngữ, ca dao, dân ca Việt Nam. NXB KHXH, 1978. Nguyễn Thanh Liêm. Bài viết: “ Thơ đường luật và thơ tự do”. Đăng trên www.caulacbotinhnghesi.net Nguyễn Đình Chú. Bài viết: “ Mối quan hệ giữa văn học dân gian và văn học viết trong lịch sử văn học dân tộc”. đăng trên huc.edu.vn *Bài viết còn rất nhiều thiếu sót, hạn chế em rất mong nhận được sự góp ý của thầy qua địa chỉ mail: Em xin chân thành cảm ơn. 18 19 |