Tại sao ở trẻ nhỏ khi bị gãy xương nhanh lành hơn người già

Gãy xương là hiện tượng phá vỡ xương. Hầu hết các loại gãy xương cần một lực mạnh tác động lên xương bình thường.

Ngoài gãy xương, còn có kèm theo các thương tổn phần mềm hệ cơ xương.

  • Trật khớp Tổng quan về trật khớp Trật khớp là sự di lệch hoàn toàn của 2 đầu xương của khớp. Bán trật khớp là di lệch một phần. Thông thường, nhân viên y tế sẽ nắn khớp, nhưng đôi khi khớp tự nắn trật [tụ về vị trí ban đầu]... đọc thêm và bán trật [trật khớp không hoàn toàn]

  • Bong gân, căng cơ và tổn thương gân cơ Tổng quan về bong gân và các tổn thương phần mềm khác [Xem thêm Tiếp cận chấn thương thể thao.] Bong gân là tổn thương ở dây chằng; căng cơ là tổn thương trong cơ. Tổn thương [đứt] cũng có thể xảy ra đối với gân. Bên cạnh bong gân, căng cơ, và... đọc thêm

Các chấn thương hệ cơ xương khớp rất thường gặp và đa dạng về cơ chế, mức độ nghiêm trọng cũng như điều trị. Các chi, cột sống và khung chậu đều có thể bị ảnh hưởng.

Một số loại gãy xương đã được thảo luận trong các phần khác của cuốn The Manual:

  • Gãy cột sống Chấn thương cột sống [Xem thêm Cách tiếp cận với bệnh nhân chấn thương.] Chấn thương cột sống có thể gây thương tích đến tủy sống, đốt sống, hoặc cả hai. Thỉnh thoảng, tổn thương dây thần kinh kèm theo. Giải phẫu... đọc thêm

  • Gãy xương thái dương, xương hàm và các cấu trúc tiếp giáp, xương mũi Gãy xương hàm dưới và xương mặt Chấn thương vật tù lên vùng mặt có thể dẫn đến vỡ xương hàm cũng như các xương khác của vùng mặt giữa. Triệu chứng phụ thuộc vào vị trí gãy. Chụp X quang nha khoa hoặc CT để chẩn đoán. Điều... đọc thêm

  • Gãy mỏi khối xương bàn chân Gãy mỏi Gãy mỏi là gãy xương nhỏ không hoàn toàn thường liên quan đến thân khối xương bàn chân Nguyên nhân do trọng lượng cơ thể lặp đi lặp lại trên một vị trí xương. Gãy mỏi thường gây ra tổn thương... đọc thêm

  • Gãy xương ổ mắt Chấn thương vật tù lên vùng mặt có thể dẫn đến vỡ xương hàm cũng như các xương khác của vùng mặt giữa. Triệu chứng phụ thuộc vào vị trí gãy. Chụp X quang nha khoa hoặc CT để chẩn đoán. Điều... đọc thêm

  • Gãy xương sườn Gãy xương sườn Một hoặc nhiều xương sườn có thể bị gãy do chấn thương. [Xem thêm Tổng quan về Chấn thương ngực.] Thông thường, gãy xương sườn do chấn thương bằng vật tù thường liên quan đến lực gây chấn thương... đọc thêm

  • Các gãy xương bẩm sinh Chấn thương khi sinh Sử dụng forcep trong cuộc sinh thường gây chấn thương cho trẻ sơ sinh. Tỷ lệ chấn thương ở trẻ sơ sinh do các ca sinh khó hay chấn thương khi sinh đang giảm do sử dụng ngày càng tăng mổ lấy... đọc thêm

  • Gãy xương răng Gãy răng và răng bật khỏi ổ [Xem thêm Tổng quan về cấp cứu Nha Khoa.] Gãy răng được chia theo mức độ sâu mà Chỉ ảnh hưởng đến men răng Lộ ngà Lộ tủy đọc thêm

Chấn thương hệ cơ xương khớp có thể xảy ra đơn độc hoặc là một phần trong đa chấn thương [xem Tiếp cận bệnh nhân chấn thương Tiếp cận bệnh nhân chấn thương đọc thêm ]. Hầu hết các chấn thương hệ cơ xương khớp gây ra bởi vật tù, nhưng tất nhiên các vật sắc nhọn cũng có thể gây tổn thương hệ này.

Sinh lý bệnh

Có thể kèm gãy xương

  • Gãy hở: Rách da, đầu xương gãy tiếp xúc với môi trường bên ngoài qua vết thương.

  • Gãy kín: Lớp da còn nguyên vẹn.

Gãy xương bệnh lý xảy ra với chỉ những chấn thương rất nhẹ lên một vùng xương yếu do các bệnh lý gây ra [ví dụ như loãng xương, ung thư, nhiễm trùng, nang xương]. Khi nguyên nhân là do loãng xương Loãng xương Loãng xương là bệnh xương chuyển hóa tiến triển làm giảm mật độ xương [khối lượng xương trên một đơn vị thể tích], kèm suy giảm cấu trúc xương. Xương yếu dẫn đến gãy xương với chấn thương nhỏ... đọc thêm , loại gãy này thường được gọi là gãy giòn.

Gãy mỏi Gãy mỏi Gãy mỏi là gãy xương nhỏ không hoàn toàn thường liên quan đến thân khối xương bàn chân Nguyên nhân do trọng lượng cơ thể lặp đi lặp lại trên một vị trí xương. Gãy mỏi thường gây ra tổn thương... đọc thêm xảy ra khi có những chấn thương lặp đi lặp lại, có thể xảy ra ở những vận đồng viên chạy đường dài hay những người lính khi hành quân phải tải nặng. Thông thường, các tổn thương lên xương do các vi chấn thương ở mưc độ vừa phải có thể được tự sửa chữa khi nghỉ ngơi, tuy nhiên việc chấn thương lặp đi lặp lại tại cùng một vị trí sẽ dẫn tới các thương tổn phức tạp hơn cũng như làm các vi chấn thương truyền rộng ra.

Hồi phục

Xương sẽ liền lại ở những mức độ khác nhau, tùy thuộc vào tuổi của bệnh nhân và các bệnh lí kèm theo. Ví dụ, trẻ em liền xương nhanh hơn người lớn; các bệnh làm giảm sự tuần hoàn ngoại vi [ví dụ, tiểu đường, bệnh mạch máu ngoại biên] gây kéo dài thời gian liền xương

Sự liền xương xảy ra qua 3 giai đoạn chồng chéo nhau:

  • Viêm

  • Tái tạo

  • Pha hồi phục

Pha viêm xảy ra trước tiên. Có hiện tượng hình thành cục máu tụ tại chỗ gãy xương, và một lượng nhỏ các mảnh vỡ xương ở đầu ngoại vi được tái hấp thu. Một đường gãy không biểu hiện rõ ràng ở lúc ban đầu [ví dụ như ở một số loại gãy xương không di lệch], có thể sẽ rõ hơn sau 1 tuần bởi hiện tượng tái hấp thu một lượng xương nhỏ.

Có sự hình thành can xương trong suốt pha tái tạo. Hiện tượng tân tạo mạch máu cho phép hình thành sụn băng qua đường gãy. Bất động [ví dụ bằng bột] là cần thiết trong 2 giai đoạn đầu để các mạch máu có thể phát triển. Giai đoạn tái tạo kết thúc bằng biểu hiện liền trên lâm sàng [tức là khi hết đau tại chỗ gãy, vận động không đau và khám lâm sàng không phát hiện chuyển động xương].

Trong pha hồi phục, các can xương, thứ có nguồn gốc từ sụn, sẽ tiến hành cốt hóa, xương được hấp thu và tái tạo lại. Trong giai đoạn này, bệnh nhân nên được hướng dẫn từ từ tập vận động lại phần chi thể tổn thương về bình thường, bao gồm cả bắt đầu tập tì.

Biến chứng

Các biến chứng nặng nề của gãy xương tuy hiếm gặp, nhưng cũng có thể gây giảm chức năng vĩnh viễn, tàn phế, và thậm chí tử vong. Gãy xương hở dễ bị nhiễm trùng, các loại gãy xương kèm tổn thương mạch máu, thần kinh, dập nát phần mềm nhiều là những loại gãy có nguy cơ xảy ra biến chứng cao. Gãy xương kín không kèm tổn thương mạch máu, thần kinh, được nắn chỉnh sớm thì ít khi xảy ra biến chứng nặng nề.

Các biến chứng ngay [tổn thương phối hợp] bao gồm:

  • Sự chảy máu: Chảy máu luôn đi kèm với tất cả các loại gãy xương [cũng như tổn thương mô mềm]. Đặc biệt, những chảy máu trong hoặc ngoài có thể trầm trọng đến mức gây ra tình trạng sốc mất máu [ví dụ: ở vùng chậu, đùi, gãy hở].

  • Tổn thương mạch máu: Một số loại gãy hở phá vỡ thành mạch máu. Một số gãy xương kín, điển hình như gãy trên lồi cầu cánh tay di lệch ra sau có thể gây tổn thương mạch máu nuôi đủ để gây ra biểu hiện thiếu máu cục bộ chi trên, lâm sàng thể hiện vài giờ sau chấn thương,

  • Tổn thương thần kinh: Thần kinh có thể bị tổn thương do đầu xương gãy di lệch kéo căng, bị đè ép vật tày tác động trực tiếp, dập nát trong những chấn thương nghiêm trọng, hoặc cũng có thể bị đầu mảnh xương gãy xé đứt. Các dây thần kinh gọi là bị phù nề [liệt tạm thời] khi nó mất khả năng dẫn truyền thần kinh nhưng đại thể không bị đứt, rách. Tổn thương phù nề gây liệt tạm thời các dây thần kinh làm mất chức năng cảm giác và vận động, tuy nhiên nó có thể hồi phục lại hoàn toàn sau 6 đến 8 tuần. Các dây thần kinh gọi là bị đụng dập [axonotmesis] khi sợi trục bị tổn thương nhưng lớp bao myelin thì không. Tổn thương này nghiêm trọng hơn so với chứng đè ép phù nề. Tùy thuộc vào mức độ tổn thương, thần kinh có thể tái tạo và hồi phục trong thời gian vài tuần tới nhiều năm. Thông thường, dây thần kinh bị đứt [neurotmesis] trong các trường hợp gãy hở. Các dây thần kinh khi bị đứt thì không thể tự hồi phục và cần phải mổ nối lại.

  • Thuyên tắc phổi Tắc mạch do mỡ Những nguồn tắc mạch phổi không do huyết khối gồm không khí, mỡ, dịch màng ối, vật liệu bị nhiễm khuẩn, dị vật ngoài cơ thể và khối u. Thuyên tắc phổi có thể phát triển trên nền không do huyết... đọc thêm : Ở những bệnh nhân bị gãy xương vùng háng hoặc vỡ xương chậu, nguy cơ thuyên tắc phổi là rất cao. Thuyên tắc phổi là biến chứng gây tử vong phổ biến nhất của gãy xương vùng háng hoặc vỡ xương chậu nghiêm trọng.

  • Tắc mạch mỡ: Gãy xương dài [hay gặp như là gãy xương đùi] có thể giải phóng tổ chức mỡ [và các thành phẩn tủy xương khác], các tổ chức này có thể di chuyển vào phổi và gây tắc nghẽn mạch máu phổi gây ra biến chứng hô hấp nặng nề.

  • Hội chứng khoang: Xảy ra khi áp lực tăng cao trong khoang cân kín, làm chèn ép mạch máu và giảm tưới máu mô. Những loại gãy tổn thương đè ép trực tiếp biểu hiện bằng nhiều mảnh vụn nhỏ là nguyên nhân phổ biến, làm tăng áp lực khoang khi phù nề tiến triển. Nguy cơ cao với các trường hợp gãy cả hai xương cẳng tay, vỡ mâm chày [loại gãy đầu trên xương chày phạm khớp], hoặc gãy thân xương chày[1 Tài liệu tham khảo Gãy xương là hiện tượng phá vỡ xương. Hầu hết các loại gãy xương cần một lực mạnh tác động lên xương bình thường. Ngoài gãy xương, còn có kèm theo các thương tổn phần mềm hệ cơ xương. Trật khớp... đọc thêm ]. Hội chứng khoang không được điều trị có thể dẫn tới hôi chứng tiêu cơ vân, tăng kali máu và nhiễm trùng. Về lâu dài, nó có thể gây ra co cứng cơ, tê bì và liệt. Hội chứng khoang có thể gây ra mất chi [nguy cơ cắt cụt] và cả đe dọa mạng sống.

  • Nhiễm trùng: Bất kỳ loại gãy xương nào đều có thể bị nhiễm trùng, nhưng nguy cơ cao nhất ở những bệnh nhân gãy hở hoặc được điều trị phẫu thuật. Nhiễm trùng cấp tính có thể dẫn đến cốt tủy viêm Viêm xương tủy xương Viêm xương tủy xương là tình trạng viêm và phá hủy cấu trúc xương do vi khuẩn, lao hoặc nấm gây ra. Triệu chứng thường gặp là đau xương khu trú và các triệu chứng toàn thân [trong viêm xương... đọc thêm , rất khó điều trị.

Các biến chứng muộn của gãy xương bao gồm:

  • Sự mất vững: Nhiều loại gãy xương có thể gây mất vững khớp. Sự mất vững khớp làm giảm, mất chức năng chi cũng như làm tăng nguy cơ thoái hóa khớp Thoái hóa khớp [OA] Thoái hóa khớp là bệnh khớp mạn tính có đặc điểm là nứt vỡ và mất sụn khớp cùng với những thay đổi khác của khớp, bao gồm phì đại xương [hình thành gai xương]. Triệu chứng bao gồm đau xuất hiện... đọc thêm .

  • Cứng khớp và hạn chế vận động: Gãy xương phạm khớp gây tổn thương sụn khớp, di lệch mặt khớp sẽ tạo thành gây xơ sẹo, gây thoái hóa khớp, hạn chế vận động khớp. Cứng khớp có thể xảy ra nếu một khớp bị bất động kéo dài. Khớp gối, khuỷu và vai là những khớp thường bị cứng sau chấn thương, đặc biệt ở người cao tuổi.

  • Không liền hoặc chậm liền: Đôi khi, gãy xương sẽ không lành [còn gọi không liền], hoặc chậm liền. Các yếu tố gây ra chủ yếu bao gồm bất động không hoàn toàn, tổn thương mạch nuôi dưỡng, và một số yếu tố cơ địa trên bệnh nhân [ví dụ như có sử dụng corticosteroid hoặc hoocmon tuyến giáp].

  • Can xấu: Can xấu là hiện tượng liền xương nhưng bị biến dạng so với giải phẫu. Nó dễ xảy ra ở những gãy xương không được nắn chỉnh và bất động tốt.

  • Hoại tử xương: Một phần của một mảnh vỡ có thể bị hoại tử, chủ yếu xảy ra khi mất hệ mạch máu nuôi dưỡng. Mọt số loại gãy kín dễ bị hoại tử [tiêu] xương như gãy xương thuyền, gãy di lệch cổ xương đùi, gãy cổ xương sên.

  • Thoái hóa khớp: Các loại gãy gây tổn thương diện chịu lực của khớp, gây vẹo trục, hoặc gây mất vững khớp sẽ dẫn đến tổn thương sụn khớp và thoái hóa khớp.

  • Bất tương xứng chiều dài chi: Nếu gãy xương ở trẻ em có ảnh hưởng đến tấm sụn phát triển, sự tăng trưởng của chi có thể bị ảnh hưởng, dẫn đến hiện tượng một chi ngắn hơn. Ở người lớn, phẫu thuật điều trị gãy xương, đặc biệt là gãy xương đùi, có thể gây chênh lệch độ dài chân sau mổ [2 Tài liệu tham khảo Gãy xương là hiện tượng phá vỡ xương. Hầu hết các loại gãy xương cần một lực mạnh tác động lên xương bình thường. Ngoài gãy xương, còn có kèm theo các thương tổn phần mềm hệ cơ xương. Trật khớp... đọc thêm ], dẫn đến việc bệnh nhân đi bộ khó khăn và có thể cần phải đệm thêm gót giày cho bên chân bị ngắn.

Tài liệu tham khảo

  • 1. McQueen MM, Gaston P, Court-Brown CM: Hội chứng khoang cấp tính Những ai có nguy cơ? J Bone Joint Surg Br 82 [2]:200203, 2000.

  • 2. Vaidya R, Anderson B, Elbanna A, et al: CT scanogram for limb length discrepancy in comminuted femoral shaft fractures following IM nailing. Injury 43 [7]:11761181, 2012. doi: 10.1016 / j.injury.2012.03.022.

Đánh giá

  • Đánh giá các tổn thương nghiêm trọng

  • Hỏi bệnh và thăm khám.

  • X-quang để xác định gãy xương.

  • Đôi khi là MRI hoặc CT

Tại khoa cấp cứu, nếu phát hiện cơ chế chấn thương có nguy cơ gây các thương tích nghiêm trọng hoặc đa chấn thương [như trong trường hợp tai nạn xe máy tốc độ cao, ngã cao], bệnh nhân cần được đánh giá ban đầu toàn bộ từ đầu đến chân để phát hiện các thương tổn nguy cơ cao, và nếu cần thiết thì tiến hành hồi sức ngay [[xem Tiếp cận bệnh nhân chấn thương Tiếp cận bệnh nhân chấn thương đọc thêm ]. Những bệnh nhân có gãy xương đùi hay vỡ xương chậu có thể dẫn tới tình trạng sốc mất máu do lượng máu mất đi rất lớn. Nếu một chi bị chấn thương, cần kiểm tra ngay đó có phải là gãy hở không, kiểm tra các dấu hiệu tổn thương thần kinh, mạch máu [ như tê bì, mất vận động cảm giác, giảm tưới máu] và đánh giá hội chứng khoang [đau không tương xứng tổn thương, da nhợt, tê bì, đầu chi lạnh, mất mạch].

Bác sĩ lâm sàng có thể nghi ngờ gãy xương chỉ cần dựa trên các triệu chứng cơ năng cũng như kết quả của việc thăm khám thực thể, tuy nhiên các phương tiện chẩn đoán hình ảnh [thường là Xquang] là cần thiết để xác nhận chẩn đoán.

Bệnh nhân gãy xương cần được thăm khám thêm cả hệ thống dây chằng, gân, cơ. Tuy nhiên, việc gãy xương sẽ làm hạn chế việc thăm khám [thí dụ, không thể thực hiện các nghiệm pháp stress vì bệnh nhân quá đau].

Các khớp lân cận bao gồm trên và dưới khớp tổn thương cũng cần được kiểm tra.

Lịch sử

Cơ chế tổn thương [ví dụ, hướng và cường độ của lực tác động] có thể giúp định hướng hình thái thương tổn. Tuy nhiên, nhiều bệnh nhân không nhớ hoặc không thể mô tả chính xác cơ chế chấn thương.

Tiếng kêu "rắc" vào thời điểm bị thương gợi ý một dấu hiệu của gãy xương [hoặc cũng có thể chỉ là tổn thương dây chằng hay gân]. Gãy xương và các chấn thương dây chằng nghiêm trọng thường gây đau ngay lập tức; còn triệu chứng đau mà bắt đầu vài giờ đến vài ngày sau khi chấn thương thường là chấn thương nhẹ hơn. Đau quá mức thương tổn, đau tăng dần lên sau chấn thương vài giờ đầu tiên đến vài ngày gợi ý tới hội chứng khoang Hội chứng chèn ép khoang Hội chứng khoang là hiện tượng tăng áp lưc mô mềm trong khoang kín, dẫn đến thiếu máu mô. Triệu chứng sớm nhất là đau quá mức thương tổn. Chẩn đoán dựa vào lâm sàng, khẳng định bằng đo áp lực... đọc thêm hoặc thiếu máu ngoại vi cấp tính.

Thăm khám thực thể

Thăm khám bao gồm

  • Đánh giá tình trạng mạch máu và thần kinh đầu ngoại vi thương tổn.

  • Kiểm tra các dấu hiệu vết thương hở, biến dạng, sưng tấy, bầm tím, hạn chế tầm vận động, cử động bất thường.

  • Khám bằng cách sờ phát hiện tăng cảm giác đau, tiếng lạo xạo, cũng như các biến dạng chung về xương, gân.

  • Kiểm tra các khớp ở trên và dưới vùng bị thương tổn [ví dụ, đối với khớp vai, kiểm tra thêm cột sống cổ và khuỷu tay]

  • Sau khi loại trừ được gãy xương, trật khớp [bằng lâm sàng hoặc chẩn đoán hình ảnh], có thể tiến hành stress test Nghiệm pháp áp lực [Xem thêm Tổng quan tổn thương dây chằng và các chấn thương mô mềm khác.] Đứt dây chằng ngoài khớp [dây chằng bên trong và bên ngoài] hoặc trong khớp [dây chằng chéo trước hoặc chéo sau] hoặc... đọc thêm để kiểm tra đau, mất vững khớp.

Nếu co thắt cơ và đau gây hạn chế khám thực thể [chủ yếu hạn chế stress test], có thể sử dụng thuốc giảm đau toàn thân hoặc gây tê tại chỗ. Hoặc có thể thăm khám bệnh nhân lại vài ngày sau khi bất động gãy xương, khi đó các cơ sẽ giảm co thắt.

Một số dấu hiệu chính xác gợi ý gãy xương hay một chấn thương hệ cơ xương khác.

Biến dạng gợi ý gãy xương, nhưng nó cũng có thể là một trật khớp hay bán trật [trật khớp không hoàn toàn].

Sưng nề thường gặp trong gãy xương hoặc những tổn thương khác của hệ cơ xương, tuy nhiên triệu chứng này cần vài giờ để biểu hiện rõ. Nếu không có sưng nề xảy ra trong khoảng thời gian này, thường ít khi có gãy xương. Với một số loại gãy [ví dụ, gãy "oằn" ở trẻ em, gãy không di lệch], triệu chứng sưng nề có thể nhẹ hơn, nhưng rất hiếm khi không có.

Đaugần như có trong tất cả các thương tổn hệ cơ xương, với nhiều bệnh nhân, sờ bất cứ chỗ nào xung quanh chỗ bị thương tổn đều gây đau. Tuy nhiên, đau tăng đột ngột tại một điểm cụ thể [ điểm đau khu trú] gợi ý có gãy xương.

Một chỗ mất liên tục có thể sờ rõ trên xương gãy.

Lạo xạo [một dấu hiệu đặc trưng khi sờ và / hoặc có thể nghe được- xảy ra khi ổ gãy di chuyển] là một dấu hiệu của gãy xương.

Nếu có một vết thương gần chỗ gãy thì coi đó là gãy xương hở. Gãy xương hở có thể được phân loại bằng hệ thống Gustilo-Anderson:

  • Độ I: Vết thương 1 cm, tổn thương phần mềm mức độ vừa phải và lóc màng xương ít

  • Độ IIIA: Tổn thương phần mềm nghiêm trọng và nhiễm bẩn đáng kể, nhưng còn có thể che phủ được

  • Độ IIIB: Tổn thương phần mềm nghiêm trọng và nhiễm bẩn đáng kể, phần mềm không đủ che phủ

  • Độ IIIC: Gãy hở kèm theo tổn thương mạch

Phân độ cao hơn sẽ có nguy cơ viêm tủy xương cao hơn; tuy nhiên thực tế độ tin cậy của hệ thống này không cao [thường chỉ khoảng 60%], các tổn thương cụ thể cần đánh giá thêm trong mổ.

Việc tập trung đánh giá một số vùng khi thăm khám sẽ giúp hạn chế bỏ sót thương tổn [xem Bảng: Thăm khám một số loại gãy xương hay bị bỏ sót Thăm khám một số loại gãy xương hay bị bỏ sót Gãy xương là hiện tượng phá vỡ xương. Hầu hết các loại gãy xương cần một lực mạnh tác động lên xương bình thường. Ngoài gãy xương, còn có kèm theo các thương tổn phần mềm hệ cơ xương. Trật khớp... đọc thêm ].

Nếu khám thực thể bình thường tại khớp mà bệnh nhân kêu đau, nguyên nhân có thể là do "đau phản chiếu" Ví dụ, bệnh nhân có trượt đĩa sụn xương đùi Chứng trượt đầu trên xương đùi [SCFE] Chứng trượt đầu trên xương đùi là sự di chuyển của cổ xương đùi lên trên và về phía trước so với đầu xương đùi. Chứng tượt đầu trên xương đùi [SCFE] thường xảy ra ở trẻ vị thành niên và hay... đọc thêm [hoặc ít gặp hơn như gãy xương háng Gãy xương hông Gãy xương hông có thể xảy ra ở chỏm, cổ xương đùi, tại hoặc dưới khu vực khối mấu chuyển. Những loại gãy này thường gặp ở người già, đặc biệt ở bệnh nhân có loãng xương, thường do ngã. Chẩn... đọc thêm ] có thể cảm thấy đau ở đầu gối.

Chẩn đoán hình ảnh

Không phải tất cả các trường hợp nghi ngờ gãy xương đều cần chẩn đoán hình ảnh. Một số loại gãy rất nhỏ được điều trị tương tự như chấn thương phần mềm. Ví dụ, hầu hết các chấn thương ở ngón chân 2 đến 5 và hay một số chấn thương ở đầu ngón tay được điều trị triệu chứng đơn thuần dù có gãy hay không, do đó không cần chụp phim. Ở nhiều bệnh nhân bong gân cổ chân, khả năng tìm được đường gãy xương để khiến thay đổi hướng điều trị là rất thấp, do đó ít khi cần chụp phim X quang. Đối với chấn thương cổ chân, các tiêu chuẩn đã được thừa nhận để chụp X-quang [Luật Ottawa [Xem thêm Tổng quan tổn thương dây chằng và các chấn thương mô mềm khác.] Tổn thương dây chằng cổ chân rất phổ biển, thường gặp nhất là do lật bàn chân vào trong. Các dấu hiệu chung là đau,... đọc thêm ] có thể hạn chế giúp tia X không cần thiết cho bệnh nhân.

Nếu cần chẩn đoán hình ảnh, chụp X quang thường quy nên được thực hiện trước.

X-quang thường quy giúp nhìn thấy hình thái xương [và có thể là tràn dịch khớp thứ phát do chảy máu ở các loại gãy xương kín đáo] do đó rất hữu ích để chẩn đoán gãy xương. Chúng thường bao gồm ít nhất 2 tư thế chụp [thường là phim chụp trước-sau và phim nghiêng]

Các tư thế khác [ví dụ, chéo] có thể được thực hiện khi

  • Thăm khám thấy gãy xương và 2 tư thế thường quy đều không thấy rõ đường gãy.

  • Tiến hành thường quy ở một số khớp cụ thể [ví dụ như chụp mộng chày mác ở cổ chân, chụp tư thế chéo ở bàn chân].

  • Khi nghi ngờ một số biến dạng cụ thể.

Với chụp nghiêng ngón tay, ngón cần chụp cần phải được tách riêng ra những ngón còn lại.

Cộng hưởng từ hoặc là cắt lớp vi tính có thể được sử dụng nếu

  • Gãy xương không rõ trên phim X quang thường quy nhưng nghi ngờ lâm sàng [thường gặp ở gãy xương thuyền, gãy cài cổ xương đùi].

  • Cần chi tiết kiểu gãy để xác định hướng điều trị [ví dụ như gãy xương vai, gãy xương chậu, hoặc gãy xương phạm khớp]

Ví dụ, các dấu hiệu sau khi ngã gợi ý gãy xương vùng háng, MRI nên được tiến hành để phát hiện các gãy xương kín đáo.

Một số thăm dò khác có thể được thực hiện để đánh giá các tổn thương kèm theo:

  • Chụp mạch hoặc chụp cắt lớp dựng hình mạch để kiểm tra tổn thương mạch khi nghi ngờ.

  • Điện cơ và/hoặc thăm dò dẫn truyền thần kinh [hiếm khi được thực hiện ngay, thường được tiến hành khi các triệu chứng thần kinh kéo dài vài tuần sau chấn thương]

Mô tả kiểu gãy

Mô tả ổ gãy trên X quang bằng cách sử dụng các thuật ngữ như sau:

  • Loại đường gãy [xem Hình: Các loại đường gãy phổ biến Các loại đường gãy phổ biến Gãy xương là hiện tượng phá vỡ xương. Hầu hết các loại gãy xương cần một lực mạnh tác động lên xương bình thường. Ngoài gãy xương, còn có kèm theo các thương tổn phần mềm hệ cơ xương. Trật khớp... đọc thêm ]

  • Vị trí đường gãy

  • Sự di lệch [xem Hình: Mối liên hệ các mảnh vỡ. Mối liên hệ các mảnh vỡ. Gãy xương là hiện tượng phá vỡ xương. Hầu hết các loại gãy xương cần một lực mạnh tác động lên xương bình thường. Ngoài gãy xương, còn có kèm theo các thương tổn phần mềm hệ cơ xương. Trật khớp... đọc thêm ]

  • Kín hay hở

Các thuật ngữ về vị trí gãy bao gồm

  • Gãy mặt mu hay mặt gan

  • Đầu xương [đôi khi liên quan đến bề mặt khớp], ý chỉ đầu gần hoặc đầu xa của xương

  • Hành xương [cổ - phần giữa đầu xương và thân xương dài]

  • Thân xương [thân chia thành một phần ba trên, giữa, hoặc dưới]

Các loại đường gãy phổ biến

Ngang đường gãy vuông góc với trục thân xương

Xiên đường gãy tạo góc với trục

Chéo xoắn gãy xương hậu quả sau cơ chế xoay; trên tia X, chúng được phân biệt với các đường gãy xiên bởi một đường gãy song song với trục dài của xương trên ít nhất một tư thế phim.

Gãy có mảnh rời gãy xương có trên 2 mảnh xương. Gãy phức tạp bao gồm gãy nhiều đoạn [2 đường gãy tách rời trên cùng xương].

Gãy bong gãy xương là do dây chằng hoặc dây chằng giật ra kèm xương.

Trong gãy nén, các đầu xương gãy được đẩy chặt vào nhau, làm ngắn xương; loại gãy này có thể biểu hiện như một đường tăng mật độ bất thường ổ gãy, hoặc những bất thường ở vỏ xương.

Gãy oằn[gãy nén 1 thành xương] và Gãy cành tươi [gãy không rách màng xương] là những loại gãy hay gặp ở trẻ em.

Mối liên hệ các mảnh vỡ.

Có thể xảy ra sự giãn cách, di lệch ngang, gấp góc, chống ngắn.

Giãn cách là sự tách biệt ra xa của 2 đầu ổ gãy theo trục xương

Di lệch là mức độ mà 2 đầu ổ gãy di lệch khỏi nhau; được mô tả bằng milimet hoặc tỷ lệ phần trăm bề rộng xương.

Gập góc là di lệch tạo thành góc của trục 2 đầu xương gãy.

Di lệch và gấp góc có thể xảy ra ở mặt phẳng trước sau, trong ngoài hoặc cả hai.

Điều trị

  • Điều trị các tổn thương phối hợp

  • Nắn chỉnh được chỉ định, nẹp, và giảm đau

  • RICE [rest, ice, compression, and elevation: nghỉ ngơi, chườm lạnh, băng ép và nâng cao chi] hoặc PRICE [thêm protection: bảo vệ bằng nẹp hay bột] được chỉ định.

  • Thường là bất động

  • Đôi khi là phẫu thuật

Điều trị ban đầu

Các tổn thương nghiêm trọng liên quan, nếu có, thì được xử lý trước. Sốc mất máu [Xem thêm Sepsis and Septic Shock.] Sốc là tình trạng suy giảm tưới máu cơ quan với kết quả là rối loạn chức năng tế bào và tử vong. Cơ chế có thể làm giảm khối lượng tuần hoàn, giảm cung lượng... đọc thêm cần được xử lí ngay. Tổn thương mạch được chỉ định phẫu thuật điều trị trừ khi gãy chỉ ảnh hưởng đến các mạch nhỏ và có các vòng tuần hoàn phụ giúp lưu thông máu tốt. Hội chứng khoang Hội chứng chèn ép khoang Hội chứng khoang là hiện tượng tăng áp lưc mô mềm trong khoang kín, dẫn đến thiếu máu mô. Triệu chứng sớm nhất là đau quá mức thương tổn. Chẩn đoán dựa vào lâm sàng, khẳng định bằng đo áp lực... đọc thêm cần được điều trị.

Các tổn thương dây thần kinh nghiêm trọng cần được chỉ định mổ; còn đối với các trường hợp chấn thương chèn ép hay đụng dập, điều trị ban đầu thường là theo dõi thêm, các biện pháp hỗ trợ, và đôi khi là vật lý trị liệu.

Gãy xương nghi ngờ gãy hở cần phải được che phủ băng gạc vô trùng, phòng ngừa uốn ván, kháng sinh phổ rộng [ví dụ, cephalosporin thế hệ thứ 2 phối hợp với một aminoglycosid], và phẫu thuật cắt lọc và tưới rửa sạch [giúp ngăn ngừa nhiễm trùng].

Hầu hết các gãy xương vừa và nặng, đặc biệt là gãy mất vững, cần được cố định ngay bằng cách nẹp [không nên cố định bột tròn kín] để giảm đau và để ngăn ngừa tổn thương thứ phát đến phần mềm do các mảnh vỡ. Ở những bệnh nhân gãy xương dài, việc nẹp cố định có thể giúp ngăn ngừa biến chứng tắc mạch mỡ.

Triệu chứng đau cần được điều trị càng sớm càng tốt, thông thường với các thuốc chứa opioid Thuốc giảm đau opioid Các thuốc giảm đau opioid và không opioid là những loại thuốc chính được sử dụng để điều trị đau. Có thể sử dụng thuốc chống trầm cảm, thuốc chống co giật và các thuốc tác động lên hệ thống... đọc thêm hoặc bằng tê thần kinh vùng. Nếu bệnh nhân chỉ có tổn thương gãy chi và loại trừ được hội chứng khoang; có thể gây tê thần kinh vùng để giảm đau, cách này có thể giúp giảm thiểu việc sử dụng opioid cũng như giảm đau nhiều hơn so với dùng opioid đơn thuần [1 Tham khảo Gãy xương là hiện tượng phá vỡ xương. Hầu hết các loại gãy xương cần một lực mạnh tác động lên xương bình thường. Ngoài gãy xương, còn có kèm theo các thương tổn phần mềm hệ cơ xương. Trật khớp... đọc thêm ].

Sau khi tiến hành điều trị ban đầu, gãy xương cần được nắn chỉnh, bất động và và điều trị triệu chứng.

Nắn chỉnh

Biến dạng xoay xấu, gập góc hay di lệch nhiều phải được nắn chỉnh [đặt lại xương về giải phẫu], và thường cần tiến hành dưới tác dụng của gây tê hoặc gây mê. Ngoại trừ một số loại gãy ở trẻ em còn trong quá trình phát triển, theo thời gian biến dạng có thể dần dần khắc phục được.

Nắn kín [bằng các thao tác kéo, không rạch da] nên được thực hiện nếu có thể. Nếu nắn kín thất bại, cần mổ mở nắn chính; khi đó cần phải gây mê hoặc gây tê.

Việc nắn chỉnh ổ gãy thường cần được duy trì bằng bột, tuy nhiên một số loại gãy chỉ cần bất động bằng nẹp hoặc treo tay.

Mổ mở nắn chỉnh ổ gãy cần được cố định bằng các phương tiện khác nhau, có thể sử dụng phương tiện cố định bên ngoài và / hoặc bên trong. Trong phẫu thuật mổ mở nắn chỉnh cố định xương bên trong [ORIF], các mảnh được đặt lại và giữa bằng cách sử dụng kết hợp các loại kim, nẹp, vít. Mổ mở nắn chỉnh cố định [ORIF] thường được chỉ định khi

  • Gãy xương phạm khớp di lệch [để đặt lại diện khớp hoàn hảo].

  • ORIF cho kết quả tốt hơn điều trị không phẫu thuật cho một số loại gãy xương.

  • Nắn chỉnh kín thất bại.

  • Gãy xương bệnh lý xảy ra ở một xương bị suy yếu do khối u; những xương như vậy không lành lại như bình thường,ORIF là phương pháp hiệu quả có thể điều trị sớm và giúp giảm đau nhanh.

  • Khi không thể bất động kéo dài [cần thiết để phục hồi ổ gãy, ví dụ, đối với gãy xương vùng háng hoặc xương đùi]; ORIF giúp phục hồi lại độ vững, giảm thiểu đau đớn và giúp vận động lại.

PRICE

PRICE [bảo vệ, nghỉ ngơi, chườm lạnh, băng ép và nâng cao chi] có thể hữu ích.

Bảo vệ giúp ngăn ngừa các thương tổn thứ phát. Nó bao gồm việc hạn chế vận động phần thương tổn bằng cách sử dụng một nẹp hoặc bột, hoặc sử dụng nạng.

Nghỉ ngơi có thể ngăn ngừa tổn thương thêm và giúp hồi phục nhanh hơn.

Chườm lạnhbăng ép có thể giúp giảm thiểu sưng nề và đau. Đá lạnh được đóng trong túi nhựa hoặc bọc trong khăn được sử dụng trong 24 đến 48 giờ đầu tiên [chườm mỗi lần 15 đến 20 phút, càng nhiều lần càng tốt]. Chấn thương có thể được băng ép thanh, băng thun, hoặc, đối với một số thương tích có thể gây ra sưng nề, băng gạc Jones. Gạc Jones có 4 lớp; lớp 1 [trong cùng] và 3 là bông mềm, và lớp 2 và 4 là băng chun.

Nâng cao chi bị thương lên hơn tim trong 2 ngày đầu để không cản trở lượng máu về; vị trí như vậy cho phép dẫn lưu dịch theo trọng lực và giảm phù nề.

Sau 48 giờ, việc sử dụng chườm ấm định kỳ [ví dụ, bằng tấm đệm ấm] trong 15 đến 20 phút có thể làm giảm đau và hồi phục nhanh chóng.

Bất động

Bất động giúp làm giảm đau và tạo điều kiện cho việc chữa lành thương tổn, ngăn ngừa thương tổn thứ phát và và giữ cho đầu gãy đúng trục. Các khớp trên và dưới của thương tổn cũng nên được bất động.

Phần lớn các loại gãy được bất động vài tuần trong bột tròn kín. Một số loại gãy liền nhanh, gãy vững [ví dụ, gãy oằn xương cổ tay ở trẻ em] không cần bó bột, vận đông sớm cho kết quả tốt nhất.

Bó bột thường được sử dụng cho các loại gãy xương bất động vài tuần. Cũng có khi sự sưng nề trong bột đủ nghiêm trọng để gây ra hội chứng khoang Hội chứng chèn ép khoang Hội chứng khoang là hiện tượng tăng áp lưc mô mềm trong khoang kín, dẫn đến thiếu máu mô. Triệu chứng sớm nhất là đau quá mức thương tổn. Chẩn đoán dựa vào lâm sàng, khẳng định bằng đo áp lực... đọc thêm . Nếu lâm sàng nghi ngờ bị sưng nề gây chèn ép dưới bột, bột [và tất cả bông đệm] được rạch dọc từ đầu đến cuối ở cả bên trong và bên ngoài [thành hai mảnh].

Bệnh nhân sau bó bột nên được hướng dẫn bằng văn bản, bao gồm:

  • Giữ bột khô

  • Không đươch đặt thêm bất kỳ vật gì vào trong bột.

  • Kiểm tra các cạnh bột và da quanh bột hằng ngày và, báo lại khi xuất hiện vùng đỏ hoặc đau.

  • Lót các cạnh gồ ghề của bột với băng mềm, vải, hoặc các vật liệu mềm khác để tránh các cạnh của bột làm tổn thương da.

  • Khi nghỉ ngơi, hãy đặt bột cẩn thận, có thể đặt lên một chiếc gối nhỏ hoặc miếng đệm, để tránh cạnh bột kẹt hoặc đào vào da.

  • Nâng cao bột bất cứ khi nào có thể sẽ giúp kiểm soát sưng nề.

  • Cần đến bệnh viện ngay lập tức nếu đau vẫn tiếp tục hoặc cảm thấy bột quá chặt.

  • Tìm kiếm sự chăm sóc y tế ngay lập tức nếu mùi phát ra từ bên trong bột hoặc nếu có sốt, đó có thể là dấu hiệu nhiễm trùng tiến triển.

  • Tìm kiếm chăm sóc y tế ngay lập tức nếu xuất hiện đau tăng dần hoặc bất kỳ triệu chứng tê hoặc yếu liệt chi mới xuất hiện, đó có thể là dấu hiệu của hội chứng chèn ép khoang.

Chăm sóc vệ sinh thân thể là rất quan trọng.

Nẹp [xem Hình: Điều trị bằng bất động khớp: Một số kỹ thuật thường được sử dụng. Điều trị bằng bất động khớp: Một số kỹ thuật thường được sử dụng. Gãy xương là hiện tượng phá vỡ xương. Hầu hết các loại gãy xương cần một lực mạnh tác động lên xương bình thường. Ngoài gãy xương, còn có kèm theo các thương tổn phần mềm hệ cơ xương. Trật khớp... đọc thêm ] có thể được sử dụng để hỗ trợ cố định một số loại gãy vững, bao gồm một số gãy xương nghi ngờ nhưng rõ trên phim, và một số loại gãy nhanh liền chỉ cần bất động trong vài ngày hoặc ít hơn. Nẹp không bó tròn hết chu vi như bột; do đó, nó cho phép bệnh nhân chườm đá và vận động nhiều hơn so với bó bột. Ngoài ra, nó không gây chèn ép trong một số trường hợp chi bị sưng nề, do vậy không gây ra hội chứng khoang. Một số loại gãy xương cần thiết phải bó bột có thể bất động tạm thời bằng nẹp trước cho đến khi hết sưng nề.

Điều trị bằng bất động khớp: Một số kỹ thuật thường được sử dụng.

Treo tay giúp hỗ trợ một phần và hạn chế di động; nó có thể hữu ích đối với một số loại gẫy xương nhất định [ví dụ như gãy xương đòn ít di lệch, gãy đầu gần xương cánh tay], đặc biệt khuyến cáo trong những trường hợp mà việc cố định hoàn toàn là không nên [ví dụ như chấn thương vai, nếu hoàn toàn cố định có thể nhanh chóng dẫn đến viêm dính khớp [đông cứng khớp vai ].

Băng vải cuốn hay băng dính y tế xung quanh có thể được sử dụng cùng với treo tay để ngăn cánh tay không quá bị vung ra ngoài, đặc biệt là vào ban đêm. Băng vải được quấn quanh lưng và lên phần bị thương. Băng vải cuốn xung quanh thỉnh thoảng được dùng hỗ trợ thêm cho treo tay để bất động trong trường hợp gãy đầu gần xương cánh tay loại 1 mảnh rời.

Nghỉ ngơi tại giường Các tác động của việc nằm giường quá nhiều Một bệnh viện có thể cung cấp chăm sóc y tế cấp cứu, xét nghiệm chẩn đoán, điều trị tích cực, hoặc phẫu thuật, có thể hoặc không cần phải nhập viện. Người cao tuổi nằm viện nhiều hơn người trẻ... đọc thêm , đôi khi cần thiết cho gãy xương [như gãy cột sống hoặc xương chậu], tuy nhiên có thể gây ra một số vấn đề [ví dụ như huyết khối tĩnh mạch sâu, nhiễm khuẩn tiết niệu, teo cơ].

Bất động khớp kéo dài [> 3 đến 4 tuần cho người trưởng thành trẻ] có thể gây ra cứng khớp, hạn chế vận động, và teo cơ. Những biến chứng này có thể phát triển rất nhanh chóng và gây tổn thương vĩnh viễn, đặc biệt ở người cao tuổi. Một số loại chấn thương liền nhanh được điều trị tốt nhất khi cho phép tập vận động tích cực lại trong vài ngày hoặc vài tuần đầu; sự vận động sớm như vậy có thể giảm thiểu hiện tượng cứng cơ và teo cơ, do đó làm tăng tốc tiền trình hồi phục lại chức năng.

Các nhà trị liệu vật lý sẽ cho bệnh nhân lời khuyên về những gì họ có thể làm trong quá trình bất động để có thể duy trì càng nhiều chức năng càng tốt. Sau khi bất động, các nhà trị liệu vật lý có thể cho bệnh nhân các bài tập để cải thiện tầm vận động và sức mạnh của cơ, tăng cường và ổn định khớp bị thương, do đó giúp ngăn ngừa tái phát cũng như các suy yếu dài hạn.

Một số kĩ thuật khác

Thaykhớp có thể cần thiết, thường là khi gãy xương gây hư hại nghiêm trọng đầu trên xương đùi hoặc xương cánh tay.

Ghép xương có thể được thực hiện ngay thì đầu nếu khoảng cách giữa các đầu xương gãy quá lớn. Nó có thể được thực hiện sau này nếu xuất hiện chậm liền hoặc không liền.

Tham khảo

  • 1. Beaudoin FL, Haran JP, Liebmann O:A comparison of ultrasound-guided three-in-one femoral nerve block versus parenteral opioids alone for analgesia in emergency department patients with hip fractures: A randomized controlled trial. Acad Emerg Med 20 [6]:584591, 2013. doi: 10.1111 / acem.12154.

Những vấn đề của người cao tuổi

Người cao tuổi dễ bị gãy xương vì những lý do sau:

  • Hay bị ngã [ví dụ, vì giảm nhận thức do tuổi già, các tác dụng phụ của thuốc gây giảm tỉnh táo, phản xạ tư thế, hạ huyết áp tư thế đứng]

  • Suy giảm các phản xạ khi ngã

  • Loãng xương, tăng dần theo tuổi.

Gãy xương liên quan đến tuổi già bao gồm gãy đầu xa xương quay, đầu gần cánh tay, xương chậu, đầu trên xương đùi và cột sống.

Đối với người cao tuổi, mục tiêu điều trị là nhanh chóng quay trở lại các hoạt động của cuộc sống hàng ngày thay vì phục hồi hoàn hảo trục chi, chiều dài chi.

Bởi vì việc bất động [bất động khớp hoặc nghỉ ngơi trên giường] gây nhiều nguy cơ, tác dụng phụ, chỉ định mổ mở nắn chỉnh cố định để điều trị gãy xương ngày càng gia tăng.

Việc vận động sớm [nhờ mổ] và liệu pháp vật lý là cần thiết cho việc phục hồi chức năng.

Các bệnh lí đi kèm [ví dụ, viêm, thoái hóa khớp] có thể ảnh hưởng đến quá trình hồi phục.

Những điểm chính

  • Các loại gãy làm tổn thương mạch nuôi, gây hội chứng khoang có nguy cơ phải cắt cụt chi, thậm chí có nguy cơ tử vong.

  • Kiểm tra hệ thống dây chằng, gân, cơ cùng như gãy xương; tuy nhiên triệu chứng tại ổ gãy có thể làm ảnh hưởng việc thăm khám.

  • Kiểm tra các khớp ở trên và dưới vùng thương tổn.

  • Chú ý trường hợp đau phản chiếu, đặc biệt nếu các thăm khám thực thể tại chỗ khớp bệnh nhân kêu đau cho kết quả bình thường [ví dụ, đau khớp gối ở bệnh nhân bị gãy xương khớp háng].

  • Đối với một số gãy xương ở đầu tận của chi [ví dụ một số tgãy xương ở ngón chân 2 đến 5, một số chấn thương mắt cá chân], việc chụp X quang có thể không cần thiết, bởi sự hiện diện đường gãy hay không không làm thay đổi chỉ định điều trị.

  • Chụp cộng hưởng từ [đôi khi là cắt lớp vi tính] khi chụp X quang bình thường nhưng có nghi ngờ gãy trên lâm sàng [ví dụ như ở người cao tuổi đau háng và không đi lại được sau ngã]

  • Ngay lập tức xử lý các thương tích nghiêm trọng liên quan, nẹp các gãy xương mất vững, và, càng sớm càng tốt, điều trị đau, nắn chỉnh các biến dạng gập góc, di lệch.

  • Các loại gãy mất vững cần được cố định ngay lập tức; sử dụng bột hoặc nẹp để cố định ổ gãy ngay sau khi nắn chỉnh.

  • Điều trị gãy xương với PRICE [bảo vệ, nghỉ ngơi, chườm lạnh, băng ép, nâng cao].

  • Hướng dẫn bệnh nhân kĩ càng, thậm chí cần dùng cả tài liệu văn bản về chăm sóc bột.

  • Khi điều trị cho người cao tuổi, chọn phương án giúp vận động lại sớm nhất.

Video liên quan

Chủ Đề