Tại sao phải chặt nuôi dưỡng rừng

Tại sao phải chặt nuôi dưỡng rừng


Rừng trồng thâm canh loài cây Gáo vàng theo hướng khai thác gỗ lớn

I. Giới thiệu về cây Gáo vàng

Cây gáo vàng có tên gọi khác là hay Gáo Nam.

Tên khoa học là: Nauclea orientalis.

Thuộc họ Cà phê (Thiến thảo) (Rubiaceae).

Cây Gáo vàng là cây gỗ lớn nhanh, có thể sinh trưởng được ở vùng bán ngập, ven sông suối. Trong tự nhiên cây Gáo vàng có thể cao tới 30-35m, đường kính ngang ngực có thể đạt tới 60-80cm. Hoa mọc thành cụm màu vàng và có mùi thơm. Gỗ màu vàng sẫm hoặc nâu cánh dán, dùng trong ngành công nghiệp chế biến gỗ và có thể đóng đồ gia dụng.

Gáo vàng có thân thẳng đứng, gỗ vàng nhạt kết cấu đều, sợi thô và dài, không có mùi vị đặc trưng, dễ chế biến, khô nhanh, không dễ nứt, tính năng bám sơn tốt. Tính năng lực học của gỗ trung bình, các chỉ tiêu chất lượng gỗ tương đương gỗ sa mộc, nhưng tính chịu mục hơi kém, gỗ ngâm nước dễ đổi màu, ở vùng nhiệt đới gỗ dễ bị mối mọt (có thể dùng thuốc để xử lý). Gỗ gáo dùng để sản xuất đồ gia dụng, thùng xe, trang trí kiến trúc, là nguyên liệu tốt để làm ván sợi nhân tạo, ván MDF, bột giấy vỏ gáo, rễ gáo có thể làm thuốc. Lá gáo có thể làm thức ăn chăn nuôi. Cây Gáo là cây thân cao, lá to, tán đứng cao vót, bề thế, đẹp là cây quý trong lâm viên, công viên.

II. Kỹ thuật trồng rừng gỗ lớn cây gáo vàng

1. Xử lý thực bì:

Mô hình trồng rừng gỗ lớn cây gáo vàng thực bì được xử lý toàn diện theo lô, gốc phát không chừa cao quá 10cm. Trước khi đào hố phải dọn sạch thực bì và đưa ra khỏi khu vực trồng rừng, trên hàng trồng hố đào bố trí cách đều nhau, cây trồng trên 2 hàng cạnh nhau bố trí theo hình nanh sấu và chạy song song với đường đồng mức.

2. Bố trí mật độ trồng:

Trồng rừng cây gáo vàng mật độ trồng: 1.650 cây/ha (cây cách cây 2 mét, hàng cách hàng 3 mét)

3. Làm đất và bón phân:

Tiến hành cuốc cục bộ 1m2và đào hố trồng cây ở giữa diện tích cuốc cục bộ, kích thước hố đào 50 x 50 x 40cm. Khi đào để lớp đất mặt 1 bên và lớp đất dưới 1 bên miệng hố. Lấp hố và bón phân được thực hiện sau khi đào hố xong từ 10 đến 15 ngày, trước khi lấp phải nhặt sạch đá lẫn, rễ cây và cỏ, cho lớp đất mặt xuống trước bỏ phân vào trộn đều xong cho lớp đất dưới xuống sau và lấp đầy hố theo hình mâm xôi.

Liều lượng phân bón: Phân NPK bón lót khi lấp hố là 0,2kg/hố và bón thúc chăm rừng lần 2 hàng năm là 0,2 - 0,3 kg/cây.

4. Trồng rừng:

4.1. Thời vụ trồng rừng:Từ ngày 15 tháng 9 đến ngày 31 tháng 12 dương lịch, không trồng trong những ngày nắng to, mưa lớn.

4.2. Phương thức trồng:Trồng rừng thuần loại.

4.3. Phương pháp trồng:Cây con được tạo trong túi bầu P.E nguyên sinh.

5. Tiêu chuẩn cây con:

Giống có nguồn gốc và xuất xứ rỏ ràng, cây con được tạo trong túi bầu PE nguyên sinh, được nuôi dưỡng và huấn luyện trong vườn ươm 3 - 4 tháng tuổi. Chiều cao thân cây từ 40 - 50 cm trở lên, đường kính cổ rể 0,4 cm, cây sinh trưởng tốt, không cong queo, sâu bệnh, cụt ngọn.;

Tại sao phải chặt nuôi dưỡng rừng

Vườn ươm cây giống Gáo vàng có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng - cây con đạt tiêu chuẩn xuất vườn

6. Vận chuyển cây con và trồng cây:

6.1. Vận chuyển cây con:

Cây con được tạo trong vườn ươm khi vận chuyển cây đi trồng không được làm tổn thương cơ giới đến cây, nên vận chuyển cây trong những ngày râm mát, tránh sự va đập giữa các cây với nhau.

6.2. Trồng cây:

Dùng cuốc hoặc bay moi giữa tâm hố sao cho lỗ moi sâu hơn túi bầu, cây con phải được cắt bỏ 1/3 lá để đảm bảo hạn chế thoát hơi nước của cây, dùng dao rạch bỏ túi bầu đặt bầu cây vào ngay ngắn cho đất mịn vào xung quanh dùng tay ép chặt đất xung quanh sát với bầu cây, vun thêm đất mặt vào quanh gốc cây theo hình mâm xôi và cao hơn cổ rễ cây trồng từ 3 - 5cm. Sau khi trồng từ 10 - 15 ngày phải tiến hành kiểm tra chỉnh sửa lại những cây nghiêng ngã, trốc gốc và trồng giặm lại những cây bị chết, những hố còn bỏ sót chưa trồng.

7. Chăm sóc, bảo vệ rừng:

Cây con trong vườn ươm được phát triển trong những điều kiện rất thuận lợi. Khi trồng ngoài hiện trường, hoàn cảnh thường thay đổi, cây sinh trưởng trong những điều kiện rất khó khăn như thiếu nước, thiếu phân, lại cạnh tranh với nhiều yếu tố như cỏ dại. Do đó nếu không được chăm sóc chu đáo cây có thể bị chết.

Chăm sóc rừng trồng có nghĩa là áp dụng một số biện pháp kĩ thuật để loại trừ các yếu tố cạnh tranh và tạo ra những điều kiện thuận lợi hơn cho cây trồng sinh trưởng. Chăm sóc rừng trồng bao gồm những công việc sau:

*/ Phát dọn thực bì:

Thực bì tại rừng trồng bao gồm có cỏ dại, cây bụi và dây leo đã được phát dọn trước khi trồng rừng nay lại mọc chồi tái sinh cạnh tranh nước, chất dinh dưỡng và chèn ép ánh sáng với cây trồng.

Muốn rừng trồng phát triển tốt. phải phát dọn tất cả những yếu tố cạnh tranh này.

Tùy thuộc vào từng loài cây trồng, thực lực của từng hộ gia đình tham gia trồng rừng và tình trạng thực bì tại các lô rừng trồng để đưa ra số năm chăm sóc, số lần chăm sóc/ năm cho từng loài cây trồng.

Các hộ gia đình tham gia trồng rừng lâu nay trong ba năm đầu tiên trước khi rừng khép tán thực hiện công việc chăm sóc rừng trồng thường không có định kì, nhàn rổi khi nào thì thực hiện khi đó, có thể ba tháng, sáu tháng hoặc mười hai tháng phát dọn một lần/ năm. Cho nên khối lượng và chất lượng rừng thu được trong khai thác rừng không cao.

7.1. Chăm sóc:

Rừng trồng gỗ lớn cây Gáo vàng được chăm sóc 3 năm liên tục, 2 năm đầu mỗi năm chăm sóc 2 lần, năm thứ ba chăm sóc 1 lần.

*/ Nội dung chăm sóc:

-Năm thứ nhất:Chăm sóc 2 lần/ năm.

+ Lần 1: Thực hiện vào tháng 4 - 6. Phát dọn sạch thực bì theo lô trồng, cắt bỏ dây leo bu bám thân cây, giẩy cỏ cuốc vun gốc 1m2quanh gốc cây trồng.

+ Lần 2: Thực hiện vào tháng 9 - 12. Phát dọn sạch thực bì theo lô, cắt bỏ dây leo bu bám thân cây, giẩy cỏ cuốc vun gốc 1m2 quanh gốc cây, trồng giặm cây chết, cây bị mất để đảm bảo mật độ trồng ban đầu, đồng thời bón phân cho cây trồng.

+ Kỹ thuật bón phân: Đào hai rãnh sâu 15 - 20cm, dài 30cm đối diện nhau và cách gốc 25 - 30cm. Bón thúc 200g NPK trộn đều phân với đất nhỏ, bỏ đều 2 rãnh rồi lấp đầy rãnh.

Tại sao phải chặt nuôi dưỡng rừng


Mô hình trồng rừng thâm canh gỗ lớn loài cây gáo vàng (rừng trồng 2 năm tuổi)

-Năm thứ 2:Chăm sóc 2 lần/ năm.

+ Lần 1: Thực hiện vào tháng 4 - 6. Phát dọn sạch thực bì theo lô, cắt bỏ dây leo bu bám thân cây, giẩy cỏ cuốc vun gốc 1m2quanh gốc cây trồng.

+ Lần 2: Thực hiện vào tháng 9 - 12. Phát dọn sạch thực bì theo lô, cắt bỏ dây leo bu bám thân cây, giẩy cỏ cuốc vun gốc 1m2quanh gốc cây, đồng thời bón phân cho cây trồng.

+ Kỹ thuật bón phân: Đào hai rãnh sâu 15 - 20cm, dài 30cm đối diện nhau, lệch với hai rãnh đã đào lần trước và cách gốc cây 30 - 35cm để bón thúc sinh trưởng cho cây. Bón thúc 200g NPK trộn đều phân với đất nhỏ, bỏ đều cho 2 rãnh rồi lấp đầy rãnh.

-Năm thứ thứ 3:Chăm sóc 1 lần/ năm.

Thực hiện vào tháng 9 - 12. Phát dọn sạch thực bì theo lô, cắt bỏ dây leo bu bám thân cây, giẩy cỏ cuốc vun gốc 1m2 quanh gốc cây trồng, kết hợp tỉa cành, tạo tán cho cây trồng.

Việc phát dọn nên được thực hiện trước mùa sinh trưởng của cây, tức là trước mùa mưa.

7.2. Quản lý và bảo vệ rừng trồng:

Sau khi trồng rừng khâu quản lý bảo vệ cũng rất quan trọng quyết định đến sự thành rừng hay không thành rừng.

- Phòng trừ sâu bệnh hại rừng: Thường xuyên đi thăm rừng, kiểm tra rừng để phát hiện ra các tác nhân sâu bệnh để có biện pháp phòng trừ kịp thời. Nếu có sự xuất hiện sâu bệnh trên diện rộng không thể xử lý được thì cần báo cho cơ quan chuyên môn để xử lý kịp thời tránh gây thiệt hại nghiêm trọng đến rừng trồng.

- Phòng chống cháy rừng và các tác nhân phá hoại rừng:

+ Phòng chống cháy là công tác rất cần thiết vào mùa nắng có ẩm độ thấp phải tạo các đường ranh cản lửa, chú ý phát hiện các tác nhân gây cháy rừng để có biện pháp ngăn chặn.

+ Cấm chăn thả trâu bò vào rừng khi rừng còn nhỏ (dẫm đạp, cắn phá, cà cây)

+ Cấm người vào chặt phá và bẻ cây rừng.

+ Thường xuyên tuần tra canh gác nhằm phát hiện các tác nhân phá hoại rừng để ngăn chặn kịp thời, phối hợp với Chính quyền địa phương và Hạt kiểm lâm sở tại ngăn chặn mọi hành vi xâm hại đến rừng.

III. Biện pháp kỹ thuật nuôi dưỡng rừng trồng:

Biện pháp kỹ thuật nuôi dưỡng chủ yếu là chặt tỉa thưa, tỉa cành, bón phân, xử lý đất.

*/ Mục tiêu nuôi dưỡng rừng trồng:

Loại trừ cây phẩm chất xấu, cây sâu bệnh, bị chèn ép, cụt ngọn, không có triển vọng cung cấp gỗ lớn.

Điều chỉnh và tạo mật độ hợp lý cho rừng trồng ở từng giai đoạn tuổi để rừng đạt năng suất và giá trị thương phẩm cao.

Rút ngắn chu kỳ kinh doanh với điều kiện không ảnh hưởng nhiều đến năng suất cuối cùng.

Tận dụng được sản phẩm trung gian tương xứng với đầu tư và bảo đảm được yêu cầu sử dụng đất bền vững.

*/ Tỉa cảnh, tỉa thân

Từ năm thứ 2 trở đi, tỉa cành trước mùa sinh trưởng hàng năm để nâng cao chất lượng gỗ.

- Tỉa cành: Tỉa cành sát vào thân cây, nhằm làm cho vết cắt sớm liền sẹo nhờ sinh trưởng của thân cây phủ kín lại.

- Tỉa thân: Tỉa những cây có nhiều thân, để lại một thân tốt nhất, cắt sát với thân để lại.

*/ Tỉa thưa

Nguyên tắc xác định cây nuôi dưỡng và cây bài chặt:

- Đối tượng nuôi dưỡng là những cây sinh trưởng bình thường, có phẩm chất tốt, tán lá cân đối, ít cành mắt lớn, không có biểu hiện sâu bệnh và phân bố đều trong lô.

- Đối tượng bài chặt là những cây sinh trưởng xấu, sắp bị đào thải, cong queo sâu bệnh, cụt ngọn và cây kém giá trị kinh tế, cây nhiều mắt cành đang chèn ép cây mục đích.

*/ Phương pháp tỉa:

Bài cây trước khi chặt, chặt cây sát gốc, hướng cây đổ không ảnh hưởng đến cây giữ lại, không chặt 2 cây liền nhau.

Thời gian chặt nuôi dưỡng thực hiện trước mùa sinh trưởng. Số lần chặt từ khi rừng non khép tán đến lúc khai thác, đối với rừng kinh doanh gỗ lớn là 1 - 3 lần và 1 - 2 lần đối với rừng kinh doanh gỗ nhỏ. Riêng với loài cây ưa sáng mọc nhanh có trục thân thẳng, cần tỉa sớm và mạnh. Trường hợp đặc biệt, với chu kỳ kinh doanh ngắn hoặc rừng có mật độ hợp lý thì không cần chặt nuôi dưỡng.

Cường độ chặt nuôi dưỡng: Cần xác định cường độ chặt nuôi dưỡng phù hợp để đảm bảo cho rừng có mật độ hợp lý, tán cây mục đích có đủ không gian dinh dưỡng nhưng không tạo ra khoảng trống lớn trong mỗi lần chặt nuôi dưỡng. Tùy theo đặc điểm sinh thái của từng loài cây, điều kiện lập địa, mật độ, mục tiêu sản xuất và tình hình sinh trưởng của rừng, xác định cường độ chặt nuôi dưỡng theo một trong 3 mức độ sau:

- Cường độ mạnh: Khoảng cách giữa các cây chừa bằng đường kính tán cây ở tuổi khai thác chính.

- Cường độ trung bình: Khoảng cách giữa các cây chừa bằng 1/2 đường kính tán cây ở tuổi khai thác chính.

- Cường độ yếu: Khoảng cách giữa các cây chừa bằng 1/3 đường kính tán cây ở tuổi khai thác chính.

Tận dụng sản phẩm trung gian: Trước khi chặt nuôi dưỡng và tận dụng gỗ, chủ rừng có đơn đề nghị chặt nuôi dưỡng, kèm theo bảng kê gửi cấp thẩm quyền, trong đó nêu rõ về địa danh, thống kế khối lượng gỗ khai thác để tổng hợp báo cáo, theo dõi, giám sát trong quá trình thực hiện và xác nhận nguồn gốc gỗ khi lưu thông tiêu thụ, cụ thể như sau:

Chủ rừng là tổ chức gửi bảng kê lâm sản đến Hạt Kiểm lâm sở tại.

Chủ rừng là hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư gửi bảng kê lâm sản đến Ủy ban nhân dân cấp xã.

- Vệ sinh rừng sau tỉa thưa: Thu gom cành, ngọn, cắt nhỏ và dải theo băng giữa 2 hàng cây.

- Chăm sóc rừng 2 - 3 năm sau tỉa thưa gồm:

+ Phát dây leo, cây bụi

+ Xới đất xung quanh gốc trong khoảng cách gốc cây từ 1m đến 1,5m; bón cho mỗi gốc cây 0,2 kg phân NPK + 0,2 kg phân hữu cơ vi sinh/cây hoặc 0,4 kg phân NPK/cây.

Rừng trồng đều tuổi phải được nuôi dưỡng từ khi rừng non khép tán đến trước kỳ khai thác 3 - 5 năm. Biện pháp nuôi dưỡng chủ yếu là chặt tỉa thưa. Được áp dụng các biện pháp tỉa cành, bón phân, xử lý đất.

*/ Nuôi dưỡng rừng trồng đều tuổi phải đạt được các mục tiêu sau:

1. Điều chỉnh và tạo mật độ hợp lý cho từng giai đoạn tuổi; để rừng đạt năng suất và giá trị thương phẩm cao.

2. Loại trừ cây phẩm chất xấu, cây sâu bệnh, cây chèn ép.

3. Rút ngắn chu kỳ kinh doanh với điều kiện không ảnh hưởng nhiều đến năng suất cuối cùng.

4. Tận dụng được sản phẩm trung gian tương xứng với đầu tư và bảo đảm được yêu cầu sử dụng đất bền vững.

*/ Việc bài cây chặt nuôi dưỡng phải tuân thủ theo nguyên tắc:

1. Đối tượng nuôi dưỡng là những cây sinh trưởng bình thường, có phẩm chất tốt, tán lá cân đối, ít cành mắt lớn, không có biểu hiện sâu bệnh và phân bố đều.

2. Đối tượng bài chặt là những cây sinh trưởng xấu, sắp bị đào thải, cong queo sâu bệnh, cụt ngọn và cây kém giá trị kinh tế, cây nhiều mắt cành đang chèn ép cây mục đích.

*/ Chặt nuôi dưỡng phải tiến hành các yêu cầu sau:

1. Mùa chặt tốt nhất là trước mùa sinh trưởng của cây trồng. Số lần chặt từ khi rừng non khép tán đến lúc khai thác, đối với rừng kinh doanh gỗ lớn là 1-3 lần và đối với rừng kinh doanh gỗ nhỏ là 1-2 lần. Trường hợp đặc biệt, với chu kỳ kinh doanh ngắn hoặc rừng có mật độ hợp lý thì không cần chặt.

2. Phải đảm bảo cho rừng có mật độ hợp lý, tán cây mục đích có đủ không gian dinh dưỡng nhưng không tạo ra khoảng trống lớn trong mỗi lần tỉa.

*/ Cường độ chặt theo 3 mức độ:

1. Mạnh: Khoảng cách giữa các cây chừa bằng đường kính tán cây ở tuổi khai thác chính.

2. Trung bình: Khoảng cách giữa các cây chừa bằng 1/2 đường kính tán cây ở tuổi khai thác chính.

3. Yếu: Khoảng cách giữa các cây chừa bằng 1/3 đường kính tán cây ở tuổi khai thác chính.

Chú ý:

+ Trong mỗi hàng: Liên tiếp cứ 1 cây để lại nuôi dưỡng thì 1 cây chặt tỉa thưa.

+ Giữa các hàng kế tiếp nhau: Cây để lại nuôi dưỡng và cây chặt tỉa thưa lệch nhau theo hình nanh sấu.

Cần thực hiện tỉa thưa trước mùa sinh trưởng.

Việc tỉa thưa ở các lần và khai thác sản phẩm trung gian không làm tổn thương, ảnh hưởng đến các cây để lại nuôi dưỡng, Khi tỉa thưa lần 2 phải dùng dây thừng khi hạ cành ngọn và thân cây.

*/ Thời điểm, số lần và cường độ chặt phải xác định cụ thể tuỳ theo đặc điểm sinh thái loài cây, điều kiện lập địa, mật độ và mục tiêu sản xuất.

Riêng với loài cây ưa sáng mọc nhanh có trục thân thẳng, cần tỉa sớm và mạnh.

Nghiêm cấm việc lợi dụng chặt nuôi dưỡng để khai thác lạm dụng lâm sản.

*/ Phải tổ chức tốt việc giám sát kiểm tra trong quá trình thực hiện và tiến hành nghiệm thu sau khi hoàn thành chặt nuôi dưỡng. Các tác động kỹ thuật nuôi dưỡng rừng phải được ghi chép đầy đủ trong hồ sơ quản lý rừng.

Mỗi đối tượng hay công thức xử lý phải để lại 0,5-1,0 ha làm đối chứng rút kinh nghiệm./.