Vận dụng mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức trong thực tiễn học tập rèn luyện bản thân

Skip to content

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây [42.46 KB, 9 trang ]

PHẦN MỞ ĐẦUNhững thành tựu trong công cuộc đổi mới trong thời gian qua đã và đang tạo ra một thế lựcmới để nước ta bước vào thời kỳ phát triển mới. Nhiều tiền đề cần thiết về cuộc công nghiệphóa và hiện đại hóa đã được tạo ra, quan hệ giữa nước ta với các nước trên thế giới ngày càngđược mở rộng. Khả năng giữ vững độc lập trong hội nhập với cộng đồng thế giới được tăngthêm. Cách mạng khoa học và công nghệ tiếp tục phát triển với trình độ ngày càng cao, thúc đẩyquá trình chuyển dịch kinh tế và đời sống xã hộiCác nước đều có cơ hội phát triển. Tuy nhiên, do ưu thế công nghệ và thị trường thuộc về cácnước phát triển khiến cho các nước chậm phát triển đứng trước một thách thức to lớn. Nguy cơtụt hậu ngày càng cao, mà điểm xuất phát của nước ta quá thấp, lại phải đi lên từ thị trườngcạnh tranh quyết liệtTrước tình hình đó, với xu thế phát triển của thời đại, Đảng và nhà nước cần tiếp tục tiến hành

đẩy mạnh công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, trong đó đổi mới kinh tế đóng vai trò then

chốt, giữ vai trò chủ đạo. Đồng thời đổi mới kinh tế là một vấn đề cấp bách, bởi giữa đổi mớikinh tế và đổi mới chính trị có mối quan hệ giữa vật chất và ý thức sẽ cho phép chúng ta tậndụng vào mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị, giúp cho công cuộc đổi mới của đất nước ngàycàng giàu mạnhVới ý nghĩa đó, nhóm chúng em đã chọn đề tài “Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ýthức, liên hệ với việc học tập của sinh viên hiện nay”. Với đề tài nghiên cứu này, nhóm chúng emhi vọng sẽ giúp các bạn sinh viên có được sự vận dụng tốt hơn những kiến thức của triết học

trong việc tìm kiếm tri thức

1

CHƯƠNG I. CƠ SỞ LÝ THUYẾT1. Vật chấta. Phạm trù vật chấtVật chất, theo Lênin “ là một phạm trù triết học được dùng để chỉ thực tại khách quan đượcđem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phảnánh, và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”Định nghĩa về vật chất của V.I.Lênin cho thấy:Thứ nhất, cần phân biệt khái niệm “vật chất” với tư cách là phạm trù triết học [phạm trùkhái quát thuộc tính cơ bản nhất, phổ biến nhất của mọi tồn tại vật chất và được xác định từgóc độ giải quyết vấn đề cơ bản của triết học] với khái niệm “vật chất” được sử dụng trongcác kho học chuyên nghành

Thứ hai, thuộc tính cơ bản nhất, phổ biến nhất của mọi dạng vật chất là thuộc tính tồn tại

khách quan, tức là tồn tại ngoài ý thưc, độc lập, không phụ thuộc vào ý thức con người, chodù con người có nhận thức được hay không nhận thức được nóThứ ba, vật chất, dưới những dạng cụ thể của nó là cái có thể gây nên cảm giác ở con ngườikhi nó trực tiếp hay gián tiếp tác động đến giác quan của con người; ý thức của con người làsự phản ánh đối với vật chất; vật chất là cái được ý thức phản ánhĐịnh nghĩa về vật chất của Lênin có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển của chủ nghĩaduy vật và nhận thức khoa học :Một là, bằng việc tìm ra thuộc tính cơ bản nhất, phổ biến nhất của vật chất là thuộc tính tồntại khách quan, Lênin đã phân biệt sự khác nhau cơ bản giữa khái niệm vật chất với tư cáchlà phạm trù triết học với khái niệm vật chất với tư cách là phạm trù của các khoa học chuyênnghành, từ đó khắc phục được hạn chế trong quan niệm về vật chất; tạo lập cơ sở lý luận

cho việc xây dựng quan điểm duy vật về lịch sử, khắc phục được những hạn chế duy tâm

trong quan niệm xã hộiHai là, khi khẳng định vật chất là “thực tại khác quan”, “được đem lại cho con người trongcảm giác” và “được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh”, Lênin không những

2

khẳng định tính thứ nhất của vật chất, tính thứ hai của ý thức theo quan điểm duy vật màcòn khẳng định khả năng của con người có thể nhận thức được thực tại khách quan thôngqua sự “chép lại, chụp lại, phản ánh” của con người đối với thực tại khách quanb. Phương thức và hình thức tồn tại của vật chấtTheo quan điểm của Ph.Anngghen, vận động không chỉ thuần túy là sự thay đổi vị trí mà là

“mọi sự thay đổi và mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ”; vật chất luôn gắn liền với vận động

và chỉ thông qua vận động mà các dạng cụ thể của vật chất mới biểu hiện được sự tồn tạicủa mình. Vận động trở thành phương thức tồn tại của vật chất. Vật chất tồn tại khách quannên vận động cũng tồn tại khách quan và vận động của vật chất là tự thân vận độngDựa trên thành tựu khoa học ở thời đại của mình, Ph. Ăngghen đã phân chia vận độngthành 5 hình thức cơ bản: vận động cơ học, vận động vật lý, vận động hóa học, vận độngsinh học, vận động xã hội. Các hình thức vận động cơ bản nói trên được sắp xếp theo thứ tựtrình độ thấp đến trình độ cao, tương ứng với trình độ kết cấu của vật chất. Các hình thứcvận động khác nhau về chất song chúng không tồn tại biệt lập mà có mối quan hệ mật thiếtvới nhau, trong đó: hình thức vận động cao xuất hiện trên cơ sở các hình thức vận độngthấp và bao hàm trong nó những hình thức vận động thấp hơnKhi khẳng định vận động là phương thức tồn tại của vật chất, là thuộc tính cố hữu của vật

chất; chủ nghĩa duy vật biện chứng cũng khẳng định vận động là tuyệt đối, là vĩnh viễn. Điều

này không có nghĩa là chủ nghĩa duy vật biện chứng cũng đã khẳng định vận động là tuyệtđối, là vĩnh viễn. Điều này không có nghĩa là chủ nghĩa duy vật biện chứng phủ nhận đứngim; song, theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, đứng im là trạng thái đặc biệtcủa vận động, đó là vận động trong thế cân bằng và đứng im là hiện tượng tương đối, tạmthời. Đứng im là hiện tượng tương đối vì đứng im chỉ xảy ra đối với một số hình thức vậnđộng và trong một số quan hệ nhất định chứ không xảy ra với tất cả các hình thức vận độngvà với tất cả quan hệ. Đứng im là hiện tượng tạm thời vì đứng im chỉ tồn tại trong một thờigian nhất định chứ không tồn tại vĩnh viễnKhông gian, thời gian là những hình thức tồn tại của vật chất. Vật chất, không gian, thời giankhông tách rời nhau; không có vật chất tồn tại ngoài không gian và thời gian; cũng không cóthời gian, thời gian tồn tại ở ngoài vật chất vận động. Trong đó, không gian có ba chiều:

chiều cao, chiều rộng, chiều dài; thời gian có một chiều: chiều từ quá khứ đến tương lai

c. Tính thống nhất vật chất của thế giớiChủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định: bản chất của thế giới là vật chất, thế giới thốngnhất ở

tính vật chất của nó. Điều đó được thể hiện ở những điểm cơ bản sau:

3

Một là, chỉ có một thế giới duy nhất là thế giới vật chất; thế giới vật chất là cái có trước, tồntại khách quan, độc lập với ý thức con ngườiHai là, thế giới vật chất tồn tại vĩnh viễn, vô tận, vô hạn, không được sinh ra và không bị mất

đi

Ba là, mọi tồn tại của thế giới vật chất đều có mối liên hệ khách quan, thống nhất với nhau,biểu hiện ở chỗ chúng đều là những dạng cụ thể của vật chất, là những kết cấu vật chất,hoặc có nguồn gốc vật chất, do vật chất sinh ra và cùng chịu sự chi phối của những quy luậtkhách quan phổ biến của thế giới vật chất2. Ý thứca. Nguồn gốc của ý thứcTheo quan điểm duy vật biện chứng, ý thức có nguồn gốc tự nhiên và nguồn gốc xã hộiNguồn gốc tự nhiên của ý thứcCó nhiều yếu tố cấu thành nguồn gốc tự nhiên của ý thức, trong đó, hai yếu tố cơ bản nhấtlà bộ óc con người và mối quan hệ giữa con người với thế giới khách quan tạo nên hiệntương phản ánh năng động, sáng tạo

Về bộ óc con người: ý thức là thuộc tính của một dạng vật chất có tổ chức cao là bộ óc con

người, là chức năng của bộ óc, là kết quả hoạt động sinh thần kinh của bộ óc. Bộ óc cànghoàn thiện, hoạt động sinh lý thần kinh của bộ óc càng có hiệu quả, ý thức của con ngườicàng phong phú và sâu sắc. Điều này lý giải tại sao quá trình tiến hóa của loài người là quátrình phát triển năng lực của nhận thức, của tư duy và tại sao đời sống tinh thần của conngười bị rối loạn sinh lý thần kinh của con người không bình thường do bị tổn thương về bộócVề mối quan hệ giữa con người với thế giới khách quan tạo ra quá trình phản ánh năngđộng, sáng tạo: Quan hệ giữa con người với thế giới khách quan là quan hệ tất yếu ngay từkhi con người xuất hiện. Trong mối quan hệ này, thế giới khách quan được phản ánh thôngqua bộ óc người, hình thành nên ý thức. Phản ánh là thuộc tính của tất cả các dạng vật chất,song phản ánh được thể hiện dưới nhiều hình thức, trình độ: phản ánh vật lý, hóa học; phản

ánh sinh học; phản ánh tâm lý và phản ánh năng động, sáng tạo. Những hình thức này

tương ứng với quá trình tiến hóa của các dạng vật chất tự nhiênNguồn gốc xã hội của ý thứcCó nhiều yếu tố cấu thành nguồn gốc xã hội của ý thức; trong đó, cơ bản nhất và trực tiếpnhất là lao động và ngôn ngữ

4

Lao động là quá trình con người tác động vào giới tự nhiên nhằm tạo ra sản phẩm phục vụcho nhu cầu tồn tại và phát triển của mình. Lao động cũng là quá trình vừa làm thay đổi cấutrúc cơ thể con người, vừa làm giới tự nhiên bộc lộ những thuộc tính, những kết cấu, nhữngquy luật vận động,. . .

Ngôn ngữ là hệ thống tín hiệu vật chất chứa đựng thông tin mang nội dung ý thức. Không có

ngôn ngữ, ý thức không thể tồn tại và thể hiện. Nhờ ngôn ngữ, con người đã không chỉ giaotiếp, trao đổi mà còn khái quát, tổng kết, đúc kết thực tiễn, truyền đạt kinh nghiệm, truyềnđạt tư tưởng từ thế hệ này qua thế hệ khácb. Bản chất và kết cấu của ý thứcBản chất của ý thứcÝ thức là sự phản ánh năng động, sáng tạo thế giới khách quan vào bộ óc con người; là hìnhảnh chủ quan của thế giới khách quanÝ thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Điều đó thể hiện ở chỗ: Ý thức là hìnhảnh về thế giới khách quan, bị thế giới khách quan quy định cả về nội dung và về hình thứcbiểu hiện, nhưng nó không còn y nguyên như thế giới khách quan mà nó cải biến thông qualăng kính chủ quan của con người

Ý thức là một hiện tượng xã hội và mang bản chất xã hội. Sự ra đời và tồn tại của ý thức gắn

liền với hoạt động thực tiễn, chịu sự chi phối không chỉ của các quy luật tự nhiên mà còn củaquy luật xã hội; được quy định bởi nhu cầu giao tiếp xã hội và các điều kiện sinh hoạt hiệnthực của đời sống xã hội. Với tính năng động, ý thức đã sáng tạo lại hiện thực theo nhu cầucủa thực tiễn xã hộiKết cấu của ý thứcÝ thức có kết cấu rất phức tạp, bao gồm nhiều yếu tố có quan hệ mật thiết với nhau; trongđó cơ bản nhất là tri thức, tình cảm và ý chíTri thức là toàn bộ những hiểu biết của con người, là kết quả của quá trình nhận thức, là sựtái tạo hình ảnh của đối tượng được nhận thức dưới dạng các loại ngoại ngữ. Tri thức làphương thức tồn tại của ý thức và là điều kiện để ý thức phát triểnTình cảm là những rung động biểu hiện thái độ của con người trong các quan hệ. Tình cảm

là một hình thái đặc biệt của sự phản ánh hiện thực, được hình thành từ sự khái quát những

cảm xúc cụ thể của con người khi nhận sự tác động của ngoại cảnhÝ chí là sự biểu hiện sức mạnh của bản thân mỗi con người nhằm vượt qua những cản trởtrong quá trình thực hiện mục đích. Ý chí được coi là mặt năng động của ý thức, một biểu

5

hiện của ý thức trong thực tiễn mà ở đó con người tự ý thức được mục đích của hành độngnên tự đấu tranh với mình và ngoại cảnh để thực hiện đến cùng mục đích đã lựa chọn3. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thứcMối quan hệ giữa vật chất và ý thức là mối quan hệ biện chứng. Trong mối quan hệ này, vậtchất có trước, ý thức có sau, vật chất là nguồn gốc của ý thức, quyết định ý thức, song ý

thức không hoàn toàn thụ động mà nó có thể tác động ngược trở lại vật chất thông qua

hoạt động thực tiễn của con người
a.

Vai trò của vật chất đối với ý thức

Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định: vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất là nguồngốc của ý thức, quyết định ý thức vì:Ý thức là sản phẩm của một dạng vật chất có tổ chức cao là bộ óc người nên chỉ khi có conngười mới có ý thức. Trong mối quan hệ giữa con người với thế giới vật chất thì con người làkết quả quá trình phát triển lâu dài của thế giới vật chất, là sản phẩm của thế giới vật chấtÝ thức là sự phản ánh thế giới vật chất, là hình ảnh chủ quan về thế giới vật chất nên nội

dung của ý thức được quyết định bởi vật chất. Sự vận động và phát triển của ý thức, hình

thức biểu hiện của ý thức bị các quy luật sinh học, các quy luật xã hội và sự tác động của môitrường sống quyết định

b.

Vai trò của ý thức đối với vật chất

Trong mối quan hệ với vật chất, ý thức có thể tác động trở lại vật chất thông qua hoạt độngthực tiễn của con ngườiVì ý thức là ý thức của con người nên khi nói đến vai trò của ý thức là nói đến vai trò của conngười. Bản thân ý thức tự nó không trực tiếp thay đổi được gì trong hiện thực. Muốn thayđổi hiện thực, con người phải tiến đến những hoạt động vật chất

Sự tác động ngược trở lại của ý thức đối với vật chất diễn ra theo hai hướng: tích cực hoặc

tiêu cực. Nếu con người nhận thức đúng, có tri thức khoa học, có tình cảm cách mạng, cónghị lực, có ý chí thì hành động của con người phù hợp với những quy luật khách quan, conngười có năng lực vượt qua những thách thức trong quá trình thực hiện mục đích của mình,thế giới được cải tạo – đó là sự tác động tích cực của ý thức. Còn nếu ý thức của con ngườiphản ánh không đúng hiện thực khách quan, bản chất, quy luật khách quan thì ngay từ đầu,hướng hành động của con người đã đi ngược lại các quy luật khách quan, hành động ấy sẽ

có tác dụng tiêu cực đối với hoạt động thực tiễn, đối với hiện thực khách quan

6

Như vậy, bằng việc định hướng cho hoạt động của con người, ý thức có thể quyết định hành

động của con người, hoạt động thực tiễn của con người đúng hay sai, thành công hay thấtbại, hiệu quả hay không hiệu quả4. Ý nghĩa phương pháp luậnTrên cơ sở quan điểm về bản chất của thế giới, bản chất năng động, sáng tạo của ý thức vàmối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức, chủ nghĩa duy vật biện chứng xây dựng nênnguyên tắc phương pháp luận cơ bản, chung nhất đối với hoạt động nhận thức và thực tiễncủa con người. Nguyên tắc đó là: Trong hoạt động nhận thức và thực tiễn phải xuất phát từthực tế khách quan, tôn trọng khách quan, đồng thời phát huy tính năng động chủ quanXuất phát từ thực tế khách quan, tôn trọng khách quan là xuất phát từ tính khách quan củavật chất, có thái độ tôn trọng đối với hiện thực khách quan, mà căn bản là tôn trọng quyluật, nhận thức và hành động theo quy luật; tôn trọng vai trò và quyết định của đời sống vật

chất đối với đời sống tinh thần của con người, của xã hội. Điều đó đòi hỏi trong nhận thức

về hành động, con người phải xuất phát từ thực tế khách quan làm cơ sở, phương tiện; phảitìm ra những nhân tố vật chất, tổ chức những nhân tố ấy thành lực lượng vật chất để hànhđộngPhát huy tính năng động chủ quan là phát huy vai trò tích cực, năng động, sáng tạo của ýthức và phát huy vai trò nhân tố con người trong việc vật chất hóa tính tích cực, năng động,sáng tạo ấy. Điều này, đòi hỏi con người phải tôn trọng tri thức khoa học; tích cực học tập,nghiên cứu để làm chủ tri thức khoa học và truyền bá vào quần chúng để nó trở thành trithức, niềm tin của quần chúng, hướng dẫn quần chúng hành động. Mặt khác, phải tự tudưỡng, rèn luyện để hình thành, củng cố nhân sinh quan cách mạng, tình cảm, nghị lực cáchmạng để có sự thống nhất hữu cơ giữa tính khoa học và tính nhân văn trong cách định

hướng hành động

CHƯƠNG II: VẬN DỤNG
7

Trong xã hội ngày nay, tầng lớp sinh viên ngày càng trở lên quan trọng với cuộc sống. Họ xuấtthân từ mọi tầng lớp khác nhau trong xã hội và cùng học tập trong môi trường đại học. Đây cóthể coi là bộ phận ưu tú của thanh niên nói chung vì họ đã được sàng lọc qua các kỳ thi tuyểnsinh quốc gia. Trong môi trường đại học lực lượng này được tập hợp có tổ chức, có quản lý chặtchẽ của nhà trường và các tổ chức đoàn thể như hội sinh viên, đoàn thanh niên, do đó dễ dàngthống nhất hành động theo những mục tiêu chung. Hơn nữa sinh viên là lớp người có khả năngtiếp thu những cái mới, nhạy cảm với những biến động của tình hình kinh tế xã hội. Cuộc sống ở

môi trường đại học nảy sinh ở sinh viên những nhu cầu như tìm hiểu, mở rộng kiến thức, nhu

cầu tự học, tự đào tạo,. .. . ngày càng phát triển theo định hướng nghề nghiệp trong quá trìnhhọcVề cơ sở lý thuyết, chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định vai trò quyết định của vật chất với ýthức đồng thời vạch rõ sự tác động ngược trở lại vô cùng quan trọng của ý thức đối với vật chất.Ý thức do vật chất sinh ra và quyết định, song sau khi ra đời, ý thức có tính độc lập tương đốinên tác động ngược trở lại vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của con người. Nói tới vai tròcủa ý thức là nói tới vai trò của con người vì ý thức là ý thức của con người. Bản thân ý thứckhông thể thay đổi được gì trong hiện thực. Ý thức muốn tác động trở lại hiện thực phải bằnglực lượng vật chất, nghĩa là phải được con người hoạt động trong thực tế. Điều này cho thấy ýthức có vai trò quan trọng trong quá trình học tập của sinh viên. Thực tế cho thấy ý thức củasinh viên thường biến đổi theo 2 xu hướng :

Xu hướng tích cực: khi đứng trước những mâu thuẫn hay khó khăn, bằng sự thông minh, sáng

tạo và nghị lực, nhiều sinh viên biết tận dụng mọi cơ hội, mọi khả năng để vượt qua những thửthách của cuộc sống sinh viên. Họ đi từ thành công trong học tập đến những thành công trongnghiên cứu khoa học, trong hoạt động đoàn thể,. . .Xu hướng tiêu cực: những sinh viên này biểu hiện thái độ thờ ơ, chán nản. Họ không có mụctiêu về cuộc sống, chạy theo lợi ích cá nhân, giả dối, gian lận trong thi cử. Họ nhận được kết quảkhông tốt trong học tập, ít có các mối quan hệ xã hội,. . .Hơn bao giờ hết, hiện nay xã hội đang quan tâm đến sự nghiệp giáo dục nói chung và tới giáodục sinh viên nói riêng. Vì vậy, để có thái độ sống tích cực, sinh viên cần có tính tự giác tronghọc tập, tự tìm tòi nghiên cứu, sáng tạo. Sinh viên phải có được những phương pháp để tiếp thutri thức thời đại, rồi vận dụng những tri thức đó vào thực tế góp phần xây dựng xã hội ngày càngphồn vinh, tươi đẹp. Bên cạnh việc học tập, sinh viên cần tích cực tham gia các hoạt động xã

hội, phát triển kỹ năng mềm. Việc phát triển bản thân sẽ giúp sinh viên có năng lực chuyên môn

tốt hơn khi ra trường, đáp ứng những yêu cầu của thị trường về chuyên môn và nghiệp vụ

8

9

chốt, giữ vai trò chủ yếu. Đồng thời thay đổi kinh tế tài chính là một yếu tố cấp bách, bởi giữa đổi mớikinh tế và thay đổi chính trị có mối quan hệ giữa vật chất và ý thức sẽ được cho phép tất cả chúng ta tậndụng vào mối quan hệ giữa kinh tế tài chính và chính trị, giúp cho công cuộc thay đổi của quốc gia ngàycàng giàu mạnhVới ý nghĩa đó, nhóm chúng em đã chọn đề tài “ Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ýthức, liên hệ với việc học tập của sinh viên hiện nay ”. Với đề tài nghiên cứu và điều tra này, nhóm chúng emhi vọng sẽ giúp những bạn sinh viên có được sự vận dụng tốt hơn những kiến thức và kỹ năng của triết họctrong việc tìm kiếm tri thứcCHƯƠNG I. CƠ SỞ LÝ THUYẾT1. Vật chấta. Phạm trù vật chấtVật chất, theo Lênin “ là một phạm trù triết học được dùng để chỉ thực tại khách quan đượcđem lại cho con người trong cảm xúc, được cảm xúc của tất cả chúng ta chép lại, chụp lại, phảnánh, và sống sót không phụ thuộc vào cảm xúc ” Định nghĩa về vật chất của V.I.Lênin cho thấy : Thứ nhất, cần phân biệt khái niệm “ vật chất ” với tư cách là phạm trù triết học [ phạm trùkhái quát thuộc tính cơ bản nhất, phổ cập nhất của mọi sống sót vật chất và được xác lập từgóc độ xử lý yếu tố cơ bản của triết học ] với khái niệm “ vật chất ” được sử dụng trongcác kho học chuyên nghànhThứ hai, thuộc tính cơ bản nhất, phổ cập nhất của mọi dạng vật chất là thuộc tính tồn tạikhách quan, tức là sống sót ngoài ý thưc, độc lập, không nhờ vào vào ý thức con người, chodù con người có nhận thức được hay không nhận thức được nóThứ ba, vật chất, dưới những dạng đơn cử của nó là cái hoàn toàn có thể gây nên cảm xúc ở con ngườikhi nó trực tiếp hay gián tiếp ảnh hưởng tác động đến giác quan của con người ; ý thức của con người làsự phản ánh so với vật chất ; vật chất là cái được ý thức phản ánhĐịnh nghĩa về vật chất của Lênin có ý nghĩa quan trọng so với sự tăng trưởng của chủ nghĩaduy vật và nhận thức khoa học : Một là, bằng việc tìm ra thuộc tính cơ bản nhất, thông dụng nhất của vật chất là thuộc tính tồntại khách quan, Lênin đã phân biệt sự khác nhau cơ bản giữa khái niệm vật chất với tư cáchlà phạm trù triết học với khái niệm vật chất với tư cách là phạm trù của những khoa học chuyênnghành, từ đó khắc phục được hạn chế trong ý niệm về vật chất ; tạo lập cơ sở lý luậncho việc kiến thiết xây dựng quan điểm duy vật về lịch sử dân tộc, khắc phục được những hạn chế duy tâmtrong ý niệm xã hộiHai là, khi chứng minh và khẳng định vật chất là “ thực tại khác quan ”, “ được đem lại cho con người trongcảm giác ” và “ được cảm xúc của tất cả chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh ”, Lênin không nhữngkhẳng định tính thứ nhất của vật chất, tính thứ hai của ý thức theo quan điểm duy vật màcòn khẳng định chắc chắn năng lực của con người hoàn toàn có thể nhận thức được thực tại khách quan thôngqua sự “ chép lại, chụp lại, phản ánh ” của con người so với thực tại khách quanb. Phương thức và hình thức sống sót của vật chấtTheo quan điểm của Ph. Anngghen, hoạt động không chỉ thuần túy là sự biến hóa vị trí mà là “ mọi sự biến hóa và mọi quy trình diễn ra trong ngoài hành tinh ” ; vật chất luôn gắn liền với vận độngvà chỉ trải qua hoạt động mà những dạng đơn cử của vật chất mới bộc lộ được sự tồn tạicủa mình. Vận động trở thành phương pháp sống sót của vật chất. Vật chất sống sót khách quannên hoạt động cũng sống sót khách quan và hoạt động của vật chất là tự thân vận độngDựa trên thành tựu khoa học ở thời đại của mình, Ph. Ăngghen đã phân loại vận độngthành 5 hình thức cơ bản : hoạt động cơ học, hoạt động vật lý, vận động hóa học, vận độngsinh học, hoạt động xã hội. Các hình thức hoạt động cơ bản nói trên được sắp xếp theo thứ tựtrình độ thấp đến trình độ cao, tương ứng với trình độ cấu trúc của vật chất. Các hình thứcvận động khác nhau về chất tuy nhiên chúng không sống sót khác biệt mà có mối quan hệ mật thiếtvới nhau, trong đó : hình thức hoạt động cao Open trên cơ sở những hình thức vận độngthấp và bao hàm trong nó những hình thức hoạt động thấp hơnKhi chứng minh và khẳng định hoạt động là phương pháp sống sót của vật chất, là thuộc tính cố hữu của vậtchất ; chủ nghĩa duy vật biện chứng cũng khẳng định chắc chắn hoạt động là tuyệt đối, là vĩnh viễn. Điềunày không có nghĩa là chủ nghĩa duy vật biện chứng cũng đã khẳng định chắc chắn hoạt động là tuyệtđối, là vĩnh viễn. Điều này không có nghĩa là chủ nghĩa duy vật biện chứng phủ nhận đứngim ; tuy nhiên, theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, đứng im là trạng thái đặc biệtcủa hoạt động, đó là hoạt động trong thế cân đối và đứng im là hiện tượng kỳ lạ tương đối, tạmthời. Đứng im là hiện tượng kỳ lạ tương đối vì đứng im chỉ xảy ra so với 1 số ít hình thức vậnđộng và trong 1 số ít quan hệ nhất định chứ không xảy ra với tổng thể những hình thức vận độngvà với toàn bộ quan hệ. Đứng im là hiện tượng kỳ lạ trong thời điểm tạm thời vì đứng im chỉ sống sót trong một thờigian nhất định chứ không sống sót vĩnh viễnKhông gian, thời hạn là những hình thức sống sót của vật chất. Vật chất, khoảng trống, thời giankhông tách rời nhau ; không có vật chất sống sót ngoài khoảng trống và thời hạn ; cũng không cóthời gian, thời hạn sống sót ở ngoài vật chất hoạt động. Trong đó, khoảng trống có ba chiều : chiều cao, chiều rộng, chiều dài ; thời hạn có một chiều : chiều từ quá khứ đến tương laic. Tính thống nhất vật chất của thế giớiChủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định chắc chắn : thực chất của quốc tế là vật chất, quốc tế thốngnhất ởtính vật chất của nó. Điều đó được bộc lộ ở những điểm cơ bản sau : Một là, chỉ có một quốc tế duy nhất là quốc tế vật chất ; quốc tế vật chất là cái có trước, tồntại khách quan, độc lập với ý thức con ngườiHai là, quốc tế vật chất sống sót vĩnh viễn, vô tận, vô hạn, không được sinh ra và không bị mấtđiBa là, mọi sống sót của quốc tế vật chất đều có mối liên hệ khách quan, thống nhất với nhau, bộc lộ ở chỗ chúng đều là những dạng đơn cử của vật chất, là những cấu trúc vật chất, hoặc có nguồn gốc vật chất, do vật chất sinh ra và cùng chịu sự chi phối của những quy luậtkhách quan thông dụng của quốc tế vật chất2. Ý thứca. Nguồn gốc của ý thứcTheo quan điểm duy vật biện chứng, ý thức có nguồn gốc tự nhiên và nguồn gốc xã hộiNguồn gốc tự nhiên của ý thứcCó nhiều yếu tố cấu thành nguồn gốc tự nhiên của ý thức, trong đó, hai yếu tố cơ bản nhấtlà bộ óc con người và mối quan hệ giữa con người với quốc tế khách quan tạo nên hiệntương phản ánh năng động, sáng tạoVề bộ óc con người : ý thức là thuộc tính của một dạng vật chất có tổ chức triển khai cao là bộ óc conngười, là tính năng của bộ óc, là hiệu quả hoạt động giải trí sinh thần kinh của bộ óc. Bộ óc cànghoàn thiện, hoạt động giải trí sinh lý thần kinh của bộ óc càng có hiệu suất cao, ý thức của con ngườicàng phong phú và đa dạng và thâm thúy. Điều này lý giải tại sao quy trình tiến hóa của loài người là quátrình tăng trưởng năng lượng của nhận thức, của tư duy và tại sao đời sống niềm tin của conngười bị rối loạn sinh lý thần kinh của con người không thông thường do bị tổn thương về bộócVề mối quan hệ giữa con người với quốc tế khách quan tạo ra quy trình phản ánh năngđộng, phát minh sáng tạo : Quan hệ giữa con người với quốc tế khách quan là quan hệ tất yếu ngay từkhi con người Open. Trong mối quan hệ này, quốc tế khách quan được phản ánh thôngqua bộ óc người, hình thành nên ý thức. Phản ánh là thuộc tính của toàn bộ những dạng vật chất, tuy nhiên phản ánh được biểu lộ dưới nhiều hình thức, trình độ : phản ánh vật lý, hóa học ; phảnánh sinh học ; phản ánh tâm ý và phản ánh năng động, phát minh sáng tạo. Những hình thức nàytương ứng với quy trình tiến hóa của những dạng vật chất tự nhiênNguồn gốc xã hội của ý thứcCó nhiều yếu tố cấu thành nguồn gốc xã hội của ý thức ; trong đó, cơ bản nhất và trực tiếpnhất là lao động và ngôn ngữLao động là quy trình con người tác động ảnh hưởng vào giới tự nhiên nhằm mục đích tạo ra sản phẩm phục vụcho nhu yếu sống sót và tăng trưởng của mình. Lao động cũng là quy trình vừa làm biến hóa cấutrúc khung hình con người, vừa làm giới tự nhiên thể hiện những thuộc tính, những cấu trúc, nhữngquy luật hoạt động ,. .. Ngôn ngữ là mạng lưới hệ thống tín hiệu vật chất tiềm ẩn thông tin mang nội dung ý thức. Không cóngôn ngữ, ý thức không hề sống sót và bộc lộ. Nhờ ngôn từ, con người đã không chỉ giaotiếp, trao đổi mà còn khái quát, tổng kết, đúc rút thực tiễn, truyền đạt kinh nghiệm tay nghề, truyềnđạt tư tưởng từ thế hệ này qua thế hệ khácb. Bản chất và cấu trúc của ý thứcBản chất của ý thứcÝ thức là sự phản ánh năng động, phát minh sáng tạo quốc tế khách quan vào bộ óc con người ; là hìnhảnh chủ quan của quốc tế khách quanÝ thức là hình ảnh chủ quan của quốc tế khách quan. Điều đó bộc lộ ở chỗ : Ý thức là hìnhảnh về quốc tế khách quan, bị quốc tế khách quan lao lý cả về nội dung và về hình thứcbiểu hiện, nhưng nó không còn y nguyên như quốc tế khách quan mà nó cải biến thông qualăng kính chủ quan của con ngườiÝ thức là một hiện tượng kỳ lạ xã hội và mang thực chất xã hội. Sự sinh ra và sống sót của ý thức gắnliền với hoạt động giải trí thực tiễn, chịu sự chi phối không riêng gì của những quy luật tự nhiên mà còn củaquy luật xã hội ; được lao lý bởi nhu yếu tiếp xúc xã hội và những điều kiện kèm theo hoạt động và sinh hoạt hiệnthực của đời sống xã hội. Với tính năng động, ý thức đã phát minh sáng tạo lại hiện thực theo nhu cầucủa thực tiễn xã hộiKết cấu của ý thứcÝ thức có cấu trúc rất phức tạp, gồm có nhiều yếu tố có quan hệ mật thiết với nhau ; trongđó cơ bản nhất là tri thức, tình cảm và ý chíTri thức là hàng loạt những hiểu biết của con người, là tác dụng của quy trình nhận thức, là sựtái tạo hình ảnh của đối tượng người tiêu dùng được nhận thức dưới dạng những loại ngoại ngữ. Tri thức làphương thức sống sót của ý thức và là điều kiện kèm theo để ý thức phát triểnTình cảm là những rung động biểu lộ thái độ của con người trong những quan hệ. Tình cảmlà một hình thái đặc biệt quan trọng của sự phản ánh hiện thực, được hình thành từ sự khái quát nhữngcảm xúc đơn cử của con người khi nhận sự tác động ảnh hưởng của ngoại cảnhÝ chí là sự bộc lộ sức mạnh của bản thân mỗi con người nhằm mục đích vượt qua những cản trởtrong quy trình triển khai mục tiêu. Ý chí được coi là mặt năng động của ý thức, một biểuhiện của ý thức trong thực tiễn mà ở đó con người tự ý thức được mục tiêu của hành độngnên tự đấu tranh với mình và ngoại cảnh để thực thi đến cùng mục tiêu đã lựa chọn3. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thứcMối quan hệ giữa vật chất và ý thức là mối quan hệ biện chứng. Trong mối quan hệ này, vậtchất có trước, ý thức có sau, vật chất là nguồn gốc của ý thức, quyết định hành động ý thức, tuy nhiên ýthức không trọn vẹn thụ động mà nó hoàn toàn có thể tác động ảnh hưởng ngược trở lại vật chất thông quahoạt động thực tiễn của con ngườia. Vai trò của vật chất so với ý thứcChủ nghĩa duy vật biện chứng chứng minh và khẳng định : vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất là nguồngốc của ý thức, quyết định hành động ý thức vì : Ý thức là loại sản phẩm của một dạng vật chất có tổ chức triển khai cao là bộ óc người nên chỉ khi có conngười mới có ý thức. Trong mối quan hệ giữa con người với quốc tế vật chất thì con người làkết quả quy trình tăng trưởng vĩnh viễn của quốc tế vật chất, là loại sản phẩm của quốc tế vật chấtÝ thức là sự phản ánh quốc tế vật chất, là hình ảnh chủ quan về quốc tế vật chất nên nộidung của ý thức được quyết định hành động bởi vật chất. Sự hoạt động và tăng trưởng của ý thức, hìnhthức bộc lộ của ý thức bị những quy luật sinh học, những quy luật xã hội và sự tác động ảnh hưởng của môitrường sống quyết địnhb. Vai trò của ý thức so với vật chấtTrong mối quan hệ với vật chất, ý thức hoàn toàn có thể tác động ảnh hưởng trở lại vật chất trải qua hoạt độngthực tiễn của con ngườiVì ý thức là ý thức của con người nên khi nói đến vai trò của ý thức là nói đến vai trò của conngười. Bản thân ý thức tự nó không trực tiếp biến hóa được gì trong hiện thực. Muốn thayđổi hiện thực, con người phải tiến đến những hoạt động vật chấtSự tác động ảnh hưởng ngược trở lại của ý thức so với vật chất diễn ra theo hai hướng : tích cực hoặctiêu cực. Nếu con người nhận thức đúng, có tri thức khoa học, có tình cảm cách mạng, cónghị lực, có ý chí thì hành vi của con người tương thích với những quy luật khách quan, conngười có năng lượng vượt qua những thử thách trong quy trình triển khai mục tiêu của mình, quốc tế được tái tạo – đó là sự tác động ảnh hưởng tích cực của ý thức. Còn nếu ý thức của con ngườiphản ánh không đúng hiện thực khách quan, thực chất, quy luật khách quan thì ngay từ đầu, hướng hành vi của con người đã đi ngược lại những quy luật khách quan, hành vi ấy sẽcó tính năng xấu đi so với hoạt động giải trí thực tiễn, so với hiện thực khách quanNhư vậy, bằng việc khuynh hướng cho hoạt động giải trí của con người, ý thức hoàn toàn có thể quyết định hành động hànhđộng của con người, hoạt động giải trí thực tiễn của con người đúng hay sai, thành công xuất sắc hay thấtbại, hiệu suất cao hay không hiệu quả4. Ý nghĩa giải pháp luậnTrên cơ sở quan điểm về thực chất của quốc tế, thực chất năng động, phát minh sáng tạo của ý thức vàmối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức, chủ nghĩa duy vật biện chứng kiến thiết xây dựng nênnguyên tắc phương pháp luận cơ bản, chung nhất so với hoạt động giải trí nhận thức và thực tiễncủa con người. Nguyên tắc đó là : Trong hoạt động giải trí nhận thức và thực tiễn phải xuất phát từthực tế khách quan, tôn trọng khách quan, đồng thời phát huy tính năng động chủ quanXuất phát từ trong thực tiễn khách quan, tôn trọng khách quan là xuất phát từ tính khách quan củavật chất, có thái độ tôn trọng so với hiện thực khách quan, mà cơ bản là tôn trọng quyluật, nhận thức và hành vi theo quy luật ; tôn trọng vai trò và quyết định hành động của đời sống vậtchất so với đời sống ý thức của con người, của xã hội. Điều đó yên cầu trong nhận thứcvề hành vi, con người phải xuất phát từ thực tiễn khách quan làm cơ sở, phương tiện đi lại ; phảitìm ra những tác nhân vật chất, tổ chức triển khai những tác nhân ấy thành lực lượng vật chất để hànhđộngPhát huy tính năng động chủ quan là phát huy vai trò tích cực, năng động, phát minh sáng tạo của ýthức và phát huy vai trò tác nhân con người trong việc vật chất hóa tính tích cực, năng động, phát minh sáng tạo ấy. Điều này, yên cầu con người phải tôn trọng tri thức khoa học ; tích cực học tập, nghiên cứu và điều tra để làm chủ tri thức khoa học và truyền bá vào quần chúng để nó trở thành trithức, niềm tin của quần chúng, hướng dẫn quần chúng hành vi. Mặt khác, phải tự tudưỡng, rèn luyện để hình thành, củng cố nhân sinh quan cách mạng, tình cảm, nghị lực cáchmạng để có sự thống nhất hữu cơ giữa tính khoa học và tính nhân văn trong cách địnhhướng hành độngCHƯƠNG II : VẬN DỤNGTrong xã hội thời nay, những tầng lớp sinh viên ngày càng trở lên quan trọng với cuộc sống. Họ xuấtthân từ mọi những tầng lớp khác nhau trong xã hội và cùng học tập trong thiên nhiên và môi trường ĐH. Đây cóthể coi là bộ phận xuất sắc ưu tú của người trẻ tuổi nói chung vì họ đã được sàng lọc qua những kỳ thi tuyểnsinh vương quốc. Trong thiên nhiên và môi trường ĐH lực lượng này được tập hợp có tổ chức triển khai, có quản trị chặtchẽ của nhà trường và những tổ chức triển khai đoàn thể như hội sinh viên, đoàn người trẻ tuổi, do đó dễ dàngthống nhất hành vi theo những tiềm năng chung. Hơn nữa sinh viên là lớp người có khả năngtiếp thu những cái mới, nhạy cảm với những dịch chuyển của tình hình kinh tế tài chính xã hội. Cuộc sống ởmôi trường ĐH phát sinh ở sinh viên những nhu yếu như tìm hiểu và khám phá, lan rộng ra kỹ năng và kiến thức, nhucầu tự học, tự huấn luyện và đào tạo ,. .. . ngày càng tăng trưởng theo xu thế nghề nghiệp trong quá trìnhhọcVề cơ sở kim chỉ nan, chủ nghĩa duy vật biện chứng chứng minh và khẳng định vai trò quyết định hành động của vật chất với ýthức đồng thời vạch rõ sự ảnh hưởng tác động ngược trở lại vô cùng quan trọng của ý thức so với vật chất. Ý thức do vật chất sinh ra và quyết định hành động, tuy nhiên sau khi sinh ra, ý thức có tính độc lập tương đốinên ảnh hưởng tác động ngược trở lại vật chất trải qua hoạt động giải trí thực tiễn của con người. Nói tới vai tròcủa ý thức là nói tới vai trò của con người vì ý thức là ý thức của con người. Bản thân ý thứckhông thể đổi khác được gì trong hiện thực. Ý thức muốn ảnh hưởng tác động trở lại hiện thực phải bằnglực lượng vật chất, nghĩa là phải được con người hoạt động giải trí trong trong thực tiễn. Điều này cho thấy ýthức có vai trò quan trọng trong quy trình học tập của sinh viên. Thực tế cho thấy ý thức củasinh viên thường biến đổi theo 2 khuynh hướng : Xu hướng tích cực : khi đứng trước những xích míc hay khó khăn vất vả, bằng sự mưu trí, sángtạo và nghị lực, nhiều sinh viên biết tận dụng mọi thời cơ, mọi năng lực để vượt qua những thửthách của cuộc sống sinh viên. Họ đi từ thành công xuất sắc trong học tập đến những thành công xuất sắc trongnghiên cứu khoa học, trong hoạt động giải trí đoàn thể ,. .. Xu hướng xấu đi : những sinh viên này bộc lộ thái độ lãnh đạm, chán nản. Họ không có mụctiêu về cuộc sống, chạy theo quyền lợi cá thể, giả dối, gian lận trong thi tuyển. Họ nhận được kết quảkhông tốt trong học tập, ít có những mối quan hệ xã hội ,. .. Hơn khi nào hết, hiện nay xã hội đang chăm sóc đến sự nghiệp giáo dục nói chung và tới giáodục sinh viên nói riêng. Vì vậy, để có thái độ sống tích cực, sinh viên cần có tính tự giác tronghọc tập, tự tìm tòi điều tra và nghiên cứu, phát minh sáng tạo. Sinh viên phải có được những chiêu thức để tiếp thutri thức thời đại, rồi vận dụng những tri thức đó vào trong thực tiễn góp thêm phần kiến thiết xây dựng xã hội ngày càngphồn vinh, tươi đẹp. Bên cạnh việc học tập, sinh viên cần tích cực tham gia những hoạt động giải trí xãhội, tăng trưởng kiến thức và kỹ năng mềm. Việc tăng trưởng bản thân sẽ giúp sinh viên có năng lượng chuyên môntốt hơn khi ra trường, cung ứng những nhu yếu của thị trường về trình độ và nhiệm vụ

Source: //sangtaotrongtamtay.vn
Category: Khoa học

Video liên quan

Chủ Đề