Vì sao ngôn ngữ là một hiện tượng xã hội đặc biệt
Đề cương dẫn luận ngôn ngữBạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (228.09 KB, 30 trang ) Đề cương dẫn luận ngôn ngữ không gian địa lí. • Chức năng giao tiếp của ngôn ngữ bao hàm nhiều chức năng bộ phận: chức năng truyền thông tin đến người khác, chức năng yêu cầu một người khác hành động, chức năng bộc lộ cảm xúc người nói, chức năng xác lập,v.v.. Ngôn ngữ không chỉ là phương tiện giao tiếp giữa các thành viên trong cùng một thế hệ, cùng sống một thời kì mà còn là phương tiện giao tiếp giữa các thế hệ, là phương tiện để con người truyền đi những thông điệp cho các thế hệ tương lai. Chính vì vậy. ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp quan trọng nhất của con người. Câu 2: Hãy chứng minh ngôn ngữ là một hệ thống Hệ thống là một chỉnh thể, một sự vật sự việc tồn tại biệt lập, bao gồm các yếu tố khác nhau nhưng có mối liên hệ mật thiết chặt chẽ với nhau để cùng thực hiện một chức năng nào đó - Tính gián đoạn, tính cấu trúc, tính chỉnh thể - Ngôn ngữ gồm nhiều yếu tố (ngữ âm, từ vựng, ngữ nghĩa, ngữ pháp …) và các yếu tố này có quan hệ mật thiết với nhau (đẳng lập, chính phụ, tôn ti …) và tất cả các yếu tố này tạo nên một chỉnh thể (ví dụ: từ là một chỉnh thể bao gồm ngữ âm, ngữ nghĩa và ngữ pháp) => ngôn ngữ là một hệ thống Câu 3: Bản chất tín hiệu của ngôn ngữ được thể hiện ở những điểm nào? Phân tích đặc trưng cơ bản của ngôn ngữ so với các tín hiệu khác. 1. Bản chất tín hiệu của hệ thống ngôn ngữ Ngôn ngữ là một hệ thống tín hiệu, nó khác với những hệ thống vật chất khác không phải là tín hiệu, chẳng hạn, kết cấu của một cái cây, một vật thể nước, đá, kết cấu của một cơ thể sống v.v… Bản chất tín hiệu của ngôn ngữ thể hiện ở những điểm sau: Các yếu tố của những hệ thống vật chất không phải là tín hiệu có giá trị đối với hệ thống vì có những thuộc tính vật thể tự nhiên của chúng. Hệ thống tín hiệu cũng là hệ thống vật chất nhưng các yếu tố của nó có giá trị đối với hệ thống không phải do những thuộc tính vật thể tự nhiên của chúng mà do những thuộc tính được người ta trao cho để chỉ ra những khái niệm hay tư tưởng nào đó. Tính hai mặt của tín hiệu. Mỗi tín hiệu là cái tổng thể do sự kết hợp giữa cái biểu hiện và cái được biểu hiện mà thành. Cái biểu hiện trong ngôn ngữ là hình thức ngữ âm, còn cái được biểu hiện là khái niệm hay đối tượng biểu thị. Tính võ đoán của tín hiệu. Mối quan hệ giữa cái biểu hiện và cái được biểu hiện là có tính võ đoán, tức là giữa hình thức âm và khái niệm không có mối tương quan bên trong nào. Vì thế, khái niệm "người đàn ông cùng mẹ sinh ra và sinh ra trước mình" trong tiếng Việt dược biểu thị bằng âm [anh], nhưng trong tiếng Nga, lại được biểu thị bằng âm [brat]. Khái niệm ấy được biểu thị bằng [anh] hay [brat] hoàn toàn là do sự quy ước, hay do thói quen của tập thể quy định chứ không thể giải thích lí do. Giá trị khu biệt của tín hiệu. Trong một hệ thống tín hiệu, cái quan trọng là sự khu biệt. Thuộc tính vật chất của mỗi tín hiệu ngôn ngữ thể hiện ở những đặc trưng có khả năng phân biệt của nó. So sánh một vết mực trên giấy và một chữ cái chúng ta sẽ thấy rõ điều đó. Cả vết mực lẫn chữ cái đều có bản chất vật chất như nhau, đều có thể tác động vào thị giác như nhau. Nhưng muốn nêu đặc trưng của vết mực phải dùng tất cả các thuộc tính vật chất của nó: độ lớn, hình thức, màu sắc, độc đậm nhạt v.v…, tất cả đều quan trọng như nhau. Trong khi đó, cái quan trọng đối với một chữ cái chỉ là cái làm cho nó khác với chữ cái khác: Chữ A có thể lớn hơn hay nhỏ hơn, đậm nét hơn hay thanh nét hơn, có thể có màu sắc khác nhau, nhưng đó vẫn chỉ là chữ A mà thôi. Sở dĩ như vậy là vì chữ A nằm trong hệ thống tín hiệu, còn vết mực không phải là tín hiệu. Những đặc điểm của ngôn ngữ với tư cách là hệ thống tín hiệu vừa trình bày ở trên có thể tìm thấy ở cả những hệ thống tín hiệu khác như hệ thống tín hiệu đèn giao thông, trống hoặc kẻng báo hiệu, biển chỉ đường, v.v… Trong hệ thống đèn giao thông có ba yếu tố: màu đỏ chỉ sự cấm đi, màu vàng – chuẩn bị, màu xanh – có thể đi. Thực ra, màu đó, màu vàng, màu xanh tự nó không có nghĩa gì cả. Sở dĩ mỗi màu mang một nội dung như vậy hoàn toàn là do sự quy ước. Nói cách khác, mối quan hệ giữa cái biểu hiện (màu sắc) và cái được biểu hiện ở đây cũng có tính võ đoán. Và tất nhiên, chỉ đặc trọng hệ thống đèn giao thông các màu mới có những ý nghĩa như thế. Người ta có thể dùng các sắc độ khác nhau của màu đỏ để chỉ "sự cấm đi", các sắc độ khác nhau của màu vàng để chỉ "sự chuẩn bị", các sắc độ khác nhau của màu xanh để chỉ "có thể đi", miễn sao ba màu đó phải giữ được sự phân biệt lẫn nhau. Như vậy, ở đây nét khu biệt của các thuộc tính vật lí của các màu cũng là quan trọng. 2. Ngôn ngữ là một hệ thống tín hiệu đặc biệt Cùng là hệ thống tín hiệu, ngôn ngữ khác với các hệ thống tín hiệu khác ở những đặc điểm sau: Ngôn ngữ là một hệ thống tín hiệu phức tạp bao gồm các yếu tố đồng loại và không đồng loại, với số lượng không xác định. Những hệ thống tín hiệu nhân tạo như hệ thống đèn giao thông, biển chỉ đường, quân hiệu, quân hàm v.v… chỉ bao gồm một số tương đối hạn chế các yếu tố đồng loại. Chẳng hạn, hệ thống đèn giao thông chỉ gồm ba yếu tố là đèn đỏ, đèn xanh và đèn vàng và tính chất của chúng là hoàn toàn như nhau. Ngôn ngữ có nhiều loại đơn vị khác nhau: âm vị khác với hình vị, hình vị khác với từ, từ khác với câu. Số lượng từ và câu trong một ngôn ngữ là vô số. Không ai có thể biết tất cả các từ của ngay tiếng mẹ đẻ của mình, bởi vì nó quá nhiều, lại thường xuyên được phát triển, bổ sung thêm. Vì ngôn ngữ bao gồm các yếu tố không đồng loại cho nên nó tạo ra nhiều hệ thống và hệ thống con khác nhau. Mỗi hệ thống con như vậy bao gồm những yếu tố tương đối đồng loại. Chẳng hạn, hệ thống âm vị bao gồm tất cả các âm vị, hệ thống từ vựng bao gồm tất cả các từ và đơn vị tương đương với từ, hệ thống hình vị bao gồm tất cả các hình vị v.v… Hệ thống âm vị lại có thể chia ra hệ thống nguyên âm và hệ thống phụ âm, hệ thống hình vị có thể chia ra hệ thống hình vị thực và hệ thống hình vị hư, hệ thống từ vựng có thể chia ra hệ thống từ đơn và hệ thống từ ghép v.v… Các đơn vị ngôn ngữ làm thành những cấp độ khác nhau. Khi nghiên cứu, người ta thường chia các yếu tố của ngôn ngữ vào các cấp độ khác nhau. Cấp độ là một trong những giai đoạn nghiên cứu của ngôn ngữ được quy định bởi những thuộc tính của những đơn vị được phân xuất trọng khi phân tách chuỗi lời nói một cách liên tục từ những đơn vị bậc cao đến những đơn vị bậc thấp. Các đơn vị thuộc cấp độ khác nhau có quan hệ tôn ti, tức là các đơn vị bậc thấp "nằm trong" các đơn vị bậc cao và các đơn vị bậc cao "bao gồm" các đơn vị bậc thấp. Thí dụ: câu bao gồm các từ, từ bao gồm các hình vị, hình vị bao gồm các âm vị. Ngược lại, âm vị nằm trong hình vị, hình vị nằm trong từ, từ nằm trong câu. Vì vậy, âm vị, hình vị, từ và câu là những cấp độ khác nhau. Khái niệm cấp độ gắn liền với tổng thể các yếu tố đồng loại, nhưng không phải bất cứ tập hợp các yếu tố đồng loại nào cũng tạo thành một cấp độ. Chẳng hạn, hình vị thực và hình vị hư, từ đơn và từ ghép không tạo thành những cấp độ khác nhau, bởi vì ở đấy không tìm thấy quan hệ "nằm trong" và "bao gồm". Có khi sự khác nhau bên ngoài của những đơn vị thuộc các cấp độ khác nhau giảm tới zero, nhưng chúng vẫn khác nhau về chất, bởi vì chức năng của chúng không đồng nhất. Ví dụ: Một đứa trẻ thấy mẹ về reo lên: - U! Có thể coi đây là một câu, nhưng câu này chỉ gồm một từ, từ này lại chỉ gồm một hình vị, và cuối cùng, hình vị U cũng là một âm vị. Trong ngôn ngữ học, có khi người ta gọi ngữ âm, từ vựng và ngữ pháp hoặc ngữ âm và ngữ nghĩa là các cấp độ. Thực ra, đây chỉ là những mặt, những lĩnh vực nghiên cứu của ngôn ngữ mà thôi. Tính đa trị của tín hiệu ngôn ngữ. Trong các hệ thống tín hiệu khác, mối quan hệ giữa cái biểu hiện và cái được biểu hiện có tính chất đơn trị, nghĩa là mỗi cái biểu hiện chỉ tương ứng với một cái được biểu hiện. Ở ngôn ngữ không hoàn toàn như vậy. Trong ngôn ngữ, có khi một cái biểu hiện tương ứng với nhiều cái được biểu hiện khác nhau, chẳng hạn, các từ đa nghĩa và đồng âm, có khi nhiều cái biểu hiện khác nhau chỉ tương ứng với một cái được biểu hiện, chẳng hạn, các từ đồng nghĩa. Mặt khác, vì ngôn ngữ không chỉ là phương tiện giao tiếp và phương tiện tư duy mà còn là phương tiện biểu hiện tình cảm, cho nên mỗi tín hiệu ngôn ngữ, ngoài nội dung khái niệm còn có thể biểu hiện cả các sắc thái tình cảm của con người nữa. Tính độc lập tương đối của ngôn ngữ. Các hệ thống tín hiệu nhân tạo khác thường được sáng tạo ra theo sự thoả thuận của một số người, do đó hoàn toàn có thể thay đổi theo ý muốn của con người. Ngược lại, ngôn ngữ có tính chất xã hội, có quy luật phát triển nội tại của mình, không lệ thuộc vào ý muốn của cá nhân. Tuy nhiên, bằng những chính sách ngôn ngữ cụ thể, con người vẫn có thể tạo điều kiện cho ngôn ngữ phát triển theo những hướng nhất định. Chính vì vậy, người ta nói ngôn ngữ có tính độc lập tương đối. Giá trị đồng đại và giá trị lịch đại của ngôn ngữ. Các hệ thống tín hiệu nhân tạo chỉ có giá trị đồng đại, tức là được sáng tạo ra để phục vụ nhu cầu nào đó của con người trong một giai đoạn nhất định. Ngôn ngữ vừa có giá trị đồng đại vừa có giá trị lịch đại. Bất cứ ngôn ngữ nào cũng là sản phẩm của quá khứ để lại. Ngôn ngữ không chỉ là phương tiện giao tiếp và tư duy của những người cũng thời mà còn là phương tiện giao tiếp và tư duy của những người thuộc các thời đại khác nhau, các giai đoạn lịch sử khác nhau. Câu 4: Hãy giải thích nhận định sau: Ngôn ngữ là một hiện tượng xã hội đặc biệt • Bản chất xa hội của ngôn ngữ: • Ngôn ngữ là của loài người, của một cộng đồng người. • Ngôn ngữ phục vụ xã hội với tư cách là phương tiện giao tiếp. • Sự tồn tại và phát triển của ngôn ngữ gắn liền với sự tồn tại và phát triển của xã hội. • Ý thức của con người trong việc sáng tạo, học tập, sử dụng và phát triển ngôn ngữ để phục vụ cho cuộc sống của mình. • Ngôn ngữ là một bộ phận cấu thành của văn hóa. Mỗi hệ thống ngôn ngữ đều mang đậm dấu ấn văn hóa của cộng đồng người bản ngữ. • Ngôn ngữ là một hiện tượng xã hội đặc biệt • Trong các hiện tượng xã hội, chủ nghĩa Mác phân biệt cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng • CSHT là toàn bộ quan hệ sản xuất của một xã hội ở một giai đoạn phát triển nào đó. • KTTT là toàn bộ những quan điểm về chính trị, luật pháp, tôn giáo, nghệ thuật và thiết chế tương ứng với chúng. • Ngôn ngữ là một hiện tượng xã hội đặc biệt vì nó không được xếp vào một trong hai phạm trù xã hội CSHT & KTTT • Ngôn ngữ không thuộc CSHT vì: + Ngôn ngữ không phải là các quan hệ sản xuất của xã hội + Ngôn ngữ không phải là công cụ sản xuất, không tạo ra của cải vật chất cho xã hội • Ngôn ngữ không thuộc KTTT vì: + Mỗi KTTT là một sản phẩm của CSHT, ngôn ngữ không do một CSHT nào sinh ra mà là phương tiện giao tiếp của tập thể xã hội được hình thành và bảo vệ qua các thời đại. Khi CSHT cũ bị thủ tiêu thì KTTT của nó cũng sụp đổ theo và thay thế vào đó là một KTTT mới ứng với CSHT mới. Ngôn ngữ biến đổi lien tục, nhưng nó không tạo ra ngôn ngữ mới mà chỉ hoàn thiện cái đã có mà thôi. + KTTT phục vụ cho một giai cấp nào đó, còn ngôn ngữ thì không có tính giai cấp + KTTT không trực tiếp liên hệ với sản xuất mà chỉ gián tiếp thông qua CSHT. Cho nên KTTT không phản ánh tức thì và trực tiếp những trình độ phát triển của các lực lượng sản xuất. Ngôn ngữ liên hệ trực tiếp với hoạt động sản xuất và mọi hoạt động khác của con người trên tất cả mọi lĩnh vực từ CSHT đến KTTT. Cho nên, ngôn ngữ phản ánh tức thì và trực tiếp những thay đổi trong sản xuất, trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. • Đặc thù riêng biệt của ngôn ngữ là ngôn ngữ phục vụ xã hội với tư cách là phương tiện giao tiếp giữa mọi người, làm phương tiện trao đổi ý kiến trong xã hội, là phương tiện giúp cho con người hiểu biết lẫn nhau và cùng nhau tổ chức các công tác chung trên mọi lĩnh vực hoạt động. Câu 5: Chỉ ra sự khác biệt giữ ngôn ngữ nói & ngôn ngữ viết Người nói Được sinh sản nhanh chóng tức thời, không có sự gọt giũa,suy ngẫm hay lựa chọn Biểu hiện qua ngữ điệu, nét mặt, ánh mắt, cử chỉ, điệu bộ,,.. để bộc lộ, bổ sung thông tin Sử dụng đa dạng lớp từ mang trính khẩu ngữ, từ ngữ địa phương, tiếng lóng, các biệt ngữ, trợ từ, từ ngữ đưa đẩy, những câu tỉnh lược hay rườm rà lặp đi lặp lại để nhấn mạnh và làm người nghe hiểu thấu đáo hơn nội dung giao tiếp Người viết Được sản sinh ra một cách có chọn lọc, được suy nghĩ nghiền ngẫm, gọt giũa kĩ càng Cần có sự hỗ trợ của hệ thống dấu câu, của các kí hiệu và văn tự, của các hình ảnh minh họa, bảng biểu,… để biểu hiện rõ thêm nội dung giao tiếp Tránh dùng các từ mang tính chất khẩu ngữ, các từ địa phương, tiếng lóng. Trong câu thường dùng các câu dài, chặt chẽ, tổ chức mạch lạc nhờ các quan hệ từ và sự sản xuất các thành phần phù hợp Câu 6: Phân tích các đặc trưng cơ bản của âm thanh ngôn ngữ. Phân biệt ngữ âm học (theo nghĩa hẹp) và âm vị học Câu 7: Mô tả bộ máy phát âm của con người. Chỉ rõ cấu tạo và chức năng của từng bộ phận. a. Bộ máy phát âm gồm: khoang hầu, khoang miêng, khoang mũi, môi , răng , lợi, ngạc cứng,mạc hay ngạc mềm,lưỡi con, đầu lưỡi, mặt lưỡi, gốc lưỡi, nắp họng, thực quản, thanh, hầu khí quản Chức năng: Các cơ quan tạo năng lượng cho hoạt động phát âm là phổi, khí quản. 2. Các cơ quan tạo lập, khuếch đại và phát ra âm thanh là các bộ phận trong thanh hầu, trong khoang hầu, khoang miệng và khoang mũi. Thanh hầu và các khoang nói trên là các cộng minh trường (hộp cộng hưởng) chứa nhiều bộ phận mà sự vận động của chúng có tác dụng tạo nên các âm thanh với các âm sắc khác nhau. Thanh hầu giống như một cái hộp nằm phía trên của khí quản do bốn miếng sụn hợp lại, có tác dụng khuếch đại âm thanh được phát ra do sự dao động của dây thanh. Dây thanh là hai cơ thịt mỏng dài chừng 2 cm sóng nhau theo chiều dọc trong thanh hầu. Dưới sự chỉ huy của hệ thần kinh, dây thanh có thể mở ra, khép vào, căng lên, chùng xuống và dao động. Dây thanh của nam giới thường dày hơn của nữ giới và dầy dần lên theo lứa tuổi, đặc biệt nhanh ở lứa tuổi dậy thì (nguyên nhân của hiện tượng vỡ tiếng). Câu 8: Giải thích tại sao âm thanh là chất liệu tất yếu của ngôn ngữ • Âm thanh và âm thanh trong ngôn ngữ • Xét về mặt âm học, âm thanh của ngôn ngữ cũng giống như tất cả các âm thanh khác trong tự nhiên, vốn là những sự chấn động của các phần tử không khí bắt nguồn từ sự chấn động của một vật thể đàn hồi nào đấy hoặc từ sự chấn động của luồng không khí chứa đựng trong một cái khoang rỗng. Nhưng khác với các âm thanh khác, âm thanh ngôn ngữ chỉ có thể là những sự chấn động mà bộ máy thính giác của con người có thể cảm thụ được. • Ngôn ngữ ngay từ đầu đã là ngôn ngữ thành tiếng, ngôn ngữ âm thanh. Các nhà khoa học gọi mặt âm thanh của ngôn ngữ là ngữ âm. • Âm thanh là chất liệu tất yếu của ngôn ngữ • Vai trò của âm thanh trong ngôn ngữ • Mặt âm thanh làm nên tính chất hiện thực của ngôn ngữ, nhờ có nó ngôn ngữ mới được xác lập, tồn tại và phát triển, mới có thể được lưu giữ và truyền đạt từ thế hệ này sang thế hệ khác. • Nhờ có cái vỏ vật chất là âm thanh nên trẻ em mới hấp thụ được ngôn ngữ. Cái gọi là quá trình học nói ở trẻ em là sự nhấn mạnh một cách chính đáng tính chất âm thanh của ngôn ngữ. • Mặt âm thanh là một thuộc tính không thể tách rời của tất cả các sinh ngữ hiện đang tồn tại. Lí luận của chủ nghĩa Mác khẳng định sự phát sinh của ngôn ngữ phụ thuộc vào sự phát triển của bộ máy phát âm của người nguyên thủy. Chính sự chuyển động của các khí quan phát âm khi cấu tạo các âm thanh là điều kiện thiết yếu để cho ngôn ngữ được xác lập, tồn tại và phát triển. Do đó, không thể có một ngôn ngữ nào đó mà không dùng âm thanh, không lấy âm thanh làm hình thức thể hiện. • Về mặt lí thuết, tất cả các giác quan của con người đều có thể dùng để phát tin. Nhưng thính giác có những ưu thế riêng, có thể khắc phục các hạn chế của các giác quan khác. Vì thế, bộ máy phát âm của con người được lựa chọn để tạo ra âm thanh ngôn ngữ, giao tiếp bằng âm thanh dễ dàng hơn. • Âm thanh do bộ máy phát âm của con người tạo ra nên hết sức tiện lợi, không gây cản trở gì hết, luôn luôn đi theo người sử dụng, khi cần là sử dụng được ngay. • Nếu coi ngôn ngữ bao gồm hai mặt: mặt biểu hiện và mặt được biểu hiện thì cũng có thể các ngữ âm là mặt biểu hiện còn từ vựng và ngữ pháp là mặt được biểu hiện của ngôn ngữ. Bởi vậy, nghiên cứu ngữ âm là công việc đầu tiên và tất yếu đối với việc nghiên cứu bất cứ ngôn ngữ nào. Câu 9: Trình bày khái niệm âm tố, âm vị. Phân biệt âm vị và âm tố, nguyên âm và phụ âm. Chỉ ra các tiêu chí miêu tả nguyên âm và phụ âm a.Khái niệm âm tố, âm vị: -Âm tố là đơn vị ngữ âm nhỏ nhất, chiếm một đoạn trong lời nói.Để ghi âm tố người ta theo quy ước chung, đặt ký hiệu ngữ âm trong dấu ngoặc vuông: [a], [t],... -Âm vị là đơn vị tối thiểu của hệ thống ngữ âm của một ngôn ngữ dùng để cấu tạo và phân biệt vỏ âm thanh của các đơn vị có nghĩa. VD: Trong tiếng Việt: ‘cơm’ khu biệt với ‘cam’ bởi nguyên âm khác nhau. b.Phân biệt âm tố và âm vị: Âm tố - Là hình thức thể hiên vật chất của âm vị, là đơn vị cụ thể, thuộc lời nói. - Gồm cả những đặc trưng khu biệt và không khu biệt. - Nói đến âm tố là nói đến mặt tự nhiên của ngữ âm. - Chung cho mọi ngôn ngữ. - Được ghi giữa ngoặc vuông [k]. - Được cảm nhận bằng thính giác. - Phải chú ý hoặc trước những cách phát âm đặc biệt mới nhận ra được. - Số lượng vô hạn. Âm vị - Nằm trong âm tố và được thể hiện qua âm tố, là đơn vị trừu tượng, thuộc ngôn ngữ. - Chỉ gồm những đặc trưng khu biệt. - Nói đến âm vị là nói đến mặt xã hội. - Chỉ bó hẹp trong một ngôn ngữ nhất định - Được ghi giữa 2 gạch xiên /k/. - Được cảm nhận bằng tri giác. - Được nhận biết một cách dễ dàng. - Số lượng hữu hạn. c.Phân biệt phụ âm và nguyên âm: • • • • Nguyên âm Luồng hơi tự do Luồng hơi yếu Đặc trưng âm học là tiếng thanh Bộ máy cấu âm căng toàn thể khi phát ra nguyên âm Phụ âm · Luồng hơi bị cản · Luồng hơi mạnh · Đặc trưng âm học là tiếng động · Bộ máy cấu âm căng tại một điểm được gọi là tiêu điểm (điểm cấu âm) d.Các tiêu chí miêu tả nguyên âm: - Theo vị trí của lưỡi. Có thể chia nguyên âm thành ba dòng: trước – giữa – sau. - Theo độ mở của miệng. Các nguyên âm được phân thành các nguyên âm có độ mở rộng – hẹp. - Theo hình dáng của đôi môi. Các nguyên âm được chia thành nguyên âm tròn môi – không tròn môi. Ngoài ra còn có các tiêu chuẩn về trường độ, tính mũi hoá. Chúng ta có thể nhận diện các nguyên âm qua hình thang nguyên âm. e.Các tiêu chí miêu tả phụ âm: Về phương thức cấu âm. Có thể chia các phụ âm thành: âm tắc – âm xát – âm rung – âm vang – âm ồn. - Về vị trí cấu âm. Có thể chia các phụ âm thành: âm môi – âm đầu lưỡi – âm mặt lưỡi – âm cuối/gốc lưỡi – âm thanh hầu. Câu 10: So sánh các đặc điểm loại hình của âm tiết tiếng Việt và tiếng Anh • Cấu trúc âm tiết Tiếng Việt: – Âm tiết là một tổ hợp các âm tố được cấu tạo bởi một hạt nhân (nguyên âm) và các âm khác bao quanh (phụ âm) Âm đầu Thanh điệu Phần vần Âm đệm Âm chính Âm cuối + Thanh điệu: gồm 1 trong 6 thanh là không-không dấu, huyền (`), sắc (´), hỏi (ˀ), ngã (~), nặng (.) + Âm đầu: do các âm vị phụ âm đảm nhiệm. một số âm tiết như “anh, im ắng” thì có phụ âm đầu là âm tắc thanh hầu /ʔ/ biểu thị. + Âm đệm: do âm vị bán nguyên âm môi /u/ hoặc âm đệm zero đảm nhiệm + Âm chính: do các nguyên âm đảm nhiệm. + Âm cuối: do các phụ âm, bán nguyên âm hoặc âm vị zêrô đảm nhiệm VD: “toàn” Thanh điệu: huyền (`) Âm đầu Phần vần Âm đệm /ṷ/ Âm chính /a/ Âm cuối /n/ Trong 5 thành phần trên có 3 thành phần luôn luôn có mặt trong âm tiết với nội dụng tích cực là: thanh điệu, âm đầu và âm chính, chỉ có 2 thành phần của vần có thể do âm vị zero đảm nhiệm là âm đệm và âm cuối. • Cấu trúc âm tiết tiếng Anh Trước phụ âm đầu (preintial) Phụ âm đầu (intial) Sau phụ âm đầu (post initail) Nguyên âm (vowel) Trước phụ âm cuối (prefinal) Phụ âm cuối (final) Sau phụ âm cuối 1 Sau phụ âm cuối 2 – Cấu trúc âm tiết tiếng Anh gồm 3 phần: Phần đầu, phần trung tâm và phần cuối. Phần đầu có thể gọi chung là tiền âm tiết, phần cuối là hậu âm tiết. Cấu trúc âm vị học tối đa của âm tiết tiếng Anh: Phần đầu (onset) Trung tâm Phần cuối (termination) Phần đầu (onset) Trung tâm Phần cuối (termination) /t/ /i:/ /n/ Ví dụ: teen /ti:n/ • So sánh • Giống nhau: • – Có nguyên âm làm trung tâm • • • Ví dụ: tam, đôi (Tiếng Việt) shore, sing (Tiếng Anh) – Phần đầu âm tiết Việt – Anh đều là phụ âm • • • Ví dụ: tam giác (Tiếng Việt) love, miracle (Tiếng Anh) – Phần cuối âm tiết Việt – Anh đều là phụ âm • Ví dụ: tình bạn (Tiếng Việt) Sau phụ âm cuối 3 • • dream, nice /nais/ (Tiếng Anh) – Phần cuối âm tiết Việt – Anh đều là nguyên âm • • • Ví dụ: ta, nha sĩ (Tiếng Việt) sea, bee (Tiếng Anh) – Có thể mở đầu bằng nguyên âm • • • VD: ong óc, anh ách (tiếng Việt) Our, ear (tiếng Anh) Khác nhau: Tiếng Anh Tiếng Việt Cấu trúc âm tiết có 3 phần (p đầu, trung tâm, p cuối) Cấu trúc âm tiết có 5 phần (âm đầu, thanh điệu, âm đệm, âm chính, âm cuối) Có loại âm tiết cấu tạo chỉ bằng phụ âm gọi là âm tiết phụ âm VD: Table /teibl/ K có hiện tượng đó, nhất thiết p có nguyên âm mới cấu tạo thành âm tiết Tiếng Anh có trọng âm TV có thanh điệu để khu biệt nghĩa VD: ca, cá, cà, cả, cạ,... Không có âm đệm Có âm đệm Có thể kết thúc tối đa bằng 4 phụ âm VD: texts /teksts/ Chỉ có thể kết thúc âm tiết bằng 1 phụ âm VD: nghiêng /nien/ Có thể bắt đầu âm tiết nhiều nhất với 3 phụ Âm tiết TV chỉ có thể bắt đầu nhiều nhất với 1 phụ âm. VD: scream /scri:m/ âm đầu hoặc âm tiết thanh hầu. VD: nghiêng Câu 11: So sánh hệ thống nguyên âm tiếng Việt và nguyên âm tiếng Anh ỐI CHIẾU NGUYÊN ÂM TRONG TIẾNG VIỆT VÀ TIẾNG ANH BƯỚC 1: MIÊU TẢ • Nguyên âm là một âm thanh trong ngôn ngữ nói, được phát âm với thanh quản mở, âm thoát ra một cách tự do không có chướng ngại, âm hưởng êm ái dễ nghe mà đặc trưng âm học của nó có tần số xác định có đường cong biểu diễn tuần hoàn được gọi là tiếng thanh. NGUYÊN ÂM TRONG TIẾNG VIỆT - Tiếng việt có 16 nguyên âm. Gồm: 13 nguyên âm đơn, bao gồm 10 nguyên âm dài và 3 nguyên âm ngắn. Nguyên âm dài bao gồm: i (Y), e (Ê), ɛ(E), A, A, ɔ(O), too), ɤ(Ơ), u(U), ɯ(Ư). VD: /-i- / thúy, /-e-/ tên, /-ɛ-/ bé, kẻng… Nguyên âm ngắn bao gồm ɛ ̌ (A), ɔ ̌ (O), ɤ ̌ (Â). VD: /-ɛ ̌-/ anh ách, /-ɔ ̌ / ong óc, /-ɤ ̌ -/ tân, thân.. Bên cạnh các nguyên âm đơn, tiếng Việt còn có ba nguyên âm đôi: ə ɯ và uo Về vị trí của các nguyên âm đôi, trong tiếng Việt chúng thường ở phần giữa của từ. VD: /ie/ - iê, yê, ia, ya (hiền, miền, tiên) / ɯɤ / - ươ, ưa (hươu, thưa, thương) /uo/ - uô, ua (uống thuốc, lúa úa) NGUYÊN ÂM TRONG TIẾNG ANH Tiếng anh có 24 nguyên âm Dựa vào độ dài của nguyên âm, sự nâng cao lưỡi, phần lưỡi sử dụng và độ tròn của môi. Trong tiếng Anh có tất cả 11 nguyên âm đơn, bao gồm 5 nguyên âm dài và 6 nguyên âm ngắn. Độ dài của nguyên âm: Nguyên âm được chia ra làm hai loại là - Nguyên âm dài bao gồm / ɑ: /, / ɔ: /, / ɜ: /, / u: /, / i: / - Nguyên âm ngắn gồm / i /, / e /, / æ /, / ʌ /, / ɒ /. Sự nâng cao lưỡi: Nguyên âm trong tiếng Anh có thể chia ra làm ba loại: - Các nguyên âm cao: / i: /, / i /, / u: /, / ʊ / - Các nguyên âm vừa: / e /, / ə /, / ɜ : /, / ʌ /, / ɔ: / - Các nguyên âm thấp: / æ /, / ɑ: /, / ɒ / Phần lưỡi sử dụng: Nguyên âm cũng được chia ra làm ba phần: - Nguyên âm trước: / i: /, / i /, / e /, / æ / - Nguyên âm giữa: / ə /, / ɜ: /, / ʌ / - Nguyên âm sau: / ɑ: /, / ɔ: /, / ɒ /, / u: /, / ʊ / Độ tròn của môi: - Không tròn: / i: /, / i /, / e /, / æ / - Trung bình: / ə /, / ɜ: /, / ʌ / - Tròn: / ɑ: /, / ɔ: /, / ɒ /, / u: /, / ʊ / Bên cạnh đó tiếng Anh cũng có nguyên âm đôi và nguyên âm ba VD: Nguyên âm ba: ei + ə = eiə : major, player ai + ə = aiə : liar, fire ɔi + ə = ɔiə : loyal, royal əʊ + ə = əʊə : lower, mower aʊ + ə = aʊə : power, hour BƯỚC 2: ĐỐI TƯỢNG ĐỐI CHIẾU - Số lượng -Âm sắc: + Độ trầm bổng + Biến thể + Sự phân bố. BƯỚC 3: ĐỐI CHIẾU XL1: Tiếng Việt XL2: Tiếng Anh XL1 = XL2 - Tiêu chí phân loại tương đương nhau: Nguyên âm đơn, nguyên âm đôi. Cả tiếng Anh và tiếng Việt đều có 3 nguyên âm đơn /-i-/, /-e-/ và /-u-/. - Cả tiếng Anh và tiếng Việt đều có những âm cố định âm sắc và một số khác biến đổi âm sắc (trong nguyên âm đôi). VD: Trong tiếng Việt: ie (Việt, siêng, phiên...) , uo (buôn, muốn), ɯɤ (trường, thường). Trong tiếng Anh: ai (kind, find, guy), ɔi (boy,toy). VD Tiếng Việt Tiếng Anh /-e-/ tên, khế. lênh men, dead, sell /-u-/ xu, cúng pool, fool, you, too /-i-/ Thúy, Qúy, Huy, y eat, see, tea, three XL1 KHÁC XL2 • Số lượng: Tiếng Anh có tổng cộng 24 nguyên âm còn tiếng Việt chỉ có 16 nguyên âm. XL1≠ XL2 Trong tiếng Việt và trong tiếng Anh cả 2 âm / u /, / ʊ / đều là nguyên âm (xét theo vị trí của lưỡi) và là nguyên âm tròn (theo hình dạng của lưỡi). Song nguyên âm / ʊ / trong tiếng anh là nguyên âm ngắn còn /u/ trong tiếng Việt là nguyên âm dài. VD: Tiếng Việt: /u/: thu, mù, cung ... Tiếng Anh: /ʊ/: cook, book, full,… / ɔ / trong tiếng Việt là âm trung tròn. / ɒ / trong tiếng Anh là âm thấp tròn. Khi phát âm / ɒ / miệng tròn hơn âm / ɔ /. VD: / ɔ /: or… / ɒ /: hop, box, lot, rob, stop, odd, … Khi phát âm âm / a:/ môi của ta tròn hơn, lưỡi ở vị trí thấp hơn và âm kéo dài hơn so với âm / a / VD: Tiếng Việt: / a /: bát, cát, gan, tan… Tiếng Anh: / a:/: bar,car, march, carts, start… - Trong tiếng Anh, âm /i/ ngắn hơn và phần lưỡi phát âm ở trước hơn âm /i/ trong tiếng Việt VD: Tiếng Anh: bin, win, It, him, chik… Tiếng Việt: mít, bít, lít…. - Cả 2 âm /e/ trong tiếng Việt là âm trước (xét theo vị trị của lưỡi). Tuy nhiên /e/ trong tiếng Anh là âm trung còn trong tiếng Việt là âm cao (xét theo độ nâng cao lưỡi). Khi phát âm /e/ trong tiếng Anh, lưỡi ở vị trí thấp hơn và đưa ra phía trước nhiều hơn trong tiếng Việt. VD: Tiếng Anh: bet, hen, men, ten, bell, gel… Tiếng Việt: sét, hét, nét... XL1 Φ XL2 - Trong tiếng việt có các nguyên âm: o(ÔÔ), ɤ̌ (Â), ɤ(Ơ), ɯ(Ư), Ê tiếng Anh thì không có. - Trong tiếng Việt có /ie/ - iê, yê, ia, ya (phiền, miền, tiên), / ɯɤ / - ươ, ưa (hươu, xưa, thương), /uo/ - uô, ua (uống thuốc, múa, lúa) tiếng Anh thì không có. XL2 Φ XL1 - Tiếng Anh có nguyên âm ba trong tiếng Việt không có: /eiə/ major, player; /aiə/ liar, fire; /əə/ power, hour Tiếng Anh có nguyên âm đôi: /ai/(find, kind, silent), /ɔi/ (voice, boy) /ʊə/ (tour, cure, poor), /eə/ (where, bear) /aʊ/(how, grow) tiếng việt thì không. Câu 12: So sánh hệ thống phụ âm tiếng Việt và nguyên âm tiếng Anh Phụ âm: Là tiếng động, được cấu tạo do sự cản trở không khí trên lối thoát của chúng. -Đặc điểm phụ âm Khi phát âm chúng được cấu tạo bằng luồng không khí bị cản trở. Chúng diễn ra bằng những cách khác nhau và những bộ phận khác nhau của cơ quan phát âm. 1. Miêu tả TIẾNG VIỆT Theo Đoàn Thiện Thuật, trong Tiếng Việt có tất cả 30 phụ âm được chia thành 22 phụ âm TIẾNG ANH đầu ( t’, b, m, f, v, t, d, n, s, z, l, Theo kết quả xác lập , c, , ŋ, ɲ, , ɤ, ʈ, χ, , k, h ); của giáo trình Peter 8 âm cuối, gồm 6 phụ âm ( m, Roach, có 24 phụ âm: n, p, t, k, ŋ) , và 2 bán nguyên ( p, b, m, f, v, t, d, k, g, l, âm( giống nguyên âm về mặt cấu tạo nhưng giống phụ âm s, z, h, n, j, r, w, ŋ, ϴ,ʧ, về chức năng do đó còn dược ʤ, ʓ, ʂ, δ) gọi là bán phụ âm hay trong trường hợp này có thể gọi là phụ âm) SỐ LƯỢNG a TRÁI PHIẾU CHÍNH PHỦ b PHƯƠNG THỨC CẤU ÂM c VỊ TRÍ ĐỨNG •Giống nhau: Đều sử dụng phương thức cấu âm và vị trí cấu âm với các tiêu chí giống nhau để phân loại các phụ âm. Ví dụ: Về phương thức cấu âm có: tắt, xát, mũi. Phụ âm xát như: / f /, / v / ( famous, furniture, và, vân, vội) Phụ âm tắt như: / t /, / d /, / b / ( testily, box, tấn, dương, biến ) Vị trí cấu âm : môi, lưỡi Số lượng phụ âm tương đối giống nhau. Ví dụ: / p /, / b /, / m /, / n /, … Khác nhau -Về số lượng ượng TIẾNG VIỆT TIẾNG ANH -Có 30 phụ âm : 22 Có 24 phụ âm phụ âm đầu và 8 phụ âm cuối Khác nhau -Phương thức cấu âm: Đối với âm tắc TIẾNG VIỆT TIẾNG ANH Phân chia: - Vừa tắc vừa có kết hợp tắc -Tắc ồn bật hơi : / ť / - Tắc : / p /, / b /, / t /, / d /,/ -Tắc ồn, không bật g/ hơi, vô thanh: - Tắc xác : / ʤ /, / ʧ / / t /, / c /, / k / -Tắc ồn, không bật hơi, hữu thanh : / b /, / d / Khác nhau -Phương thức cấu âm: Đ/v phụ âm xát TIẾNG VIỆT TIẾNG ANH Không có 5 âm là - Không có 3 âm : / x /, / / ʤ /, / ʧ /, / ϴ /, / δ /, /, / ʓ / /ɤ/ Khác nhau -Phương thức cấu âm: Đối với phụ âm mũi TIẾNG VIỆT TIẾNG ANH - Phụ âm /k/ trong - Phụ âm / k, g / trong TA là Tiếng Việt là tắc gốc tắc mạt. lưỡi, còn / ɤ / là xác Ví dụ : gardener, given.. gốc lưỡi. Ví dụ : gãy, gắt, ghê, … - Có phụ âm / ɲ / - Có phụ âm / ɲ / - Có phụ âm quặt - Không có lưỡi / tr /, phụ âm mặt lưỡi / nh, kh, ng / - Không có môi – - Có âm gần đúng âm môi:/ w / môi – môi:/ w / Khác nhau - Vị trí của phụ âm trong âm tiết TIẾNG VIỆT TIẾNG ANH -Phụ âm đứng đầu âm tiết - Các phụ âm trong như/: b, th, ph, v, đ, d, g, l, Tiếng Anh có thể đứng qu, k, s, r, kh, h… đầu, giữa hay cuối âm Ví dụ : đi, lê, bò, không, tiết theo, … -Những phụ âm đứng Ví dụ : ( state – last – cuối âm tiết như: -p, -t, -ch, - abacus) c, -m, -n, -nh,-ng ( rose – cry – air ) Ví dụ: ngang, chích, các, làm, nhanh, tát,… Khác nhau - Vị trí của phụ âm trong âm tiết TIẾNG VIỆT TIẾNG ANH -Một số lại không xuất hiện lại trong hệ thống phụ âm cuối như: th, kh, d, … -Tiếng Anh -Tiếng Việt có những tác động không chịu sự tác của giọng nói ở các địa phương động. Ví dụ: . phụ âm đầu : Ở miền Bắc “s – x” ( sang – xang) “ tr – ch” ( tranh – chanh) “tr – gi” ( trời – giời) “ l – n” ( lên – nên) . Phụ âm cuối: Ở miền Nam “ n – ng” ( cơn – cơng ), “t – c” ( tất – tấc) Về số lượng: XL1 ≠ XL2 Về phương thức cấu âm: • XL1 = XL2 : Cấu tạo chung bởi 3 phương thức Tắt, Xát, Mũi • XL1 ≠ XL2 : Cấu tạo ở mỗi phương thức Tắt, Xát, Mũi Về vị trí của phụ âm: XL1 ≠ XL2 : Vị trí đứng XL1 Þ XL2 : Tác động của giọng nói Câu 13:Trình bày khái niệm hình vị. Phân biệt chính tố và phụ tố. Phân loại các loại phụ tố. Cho các VD cụ thể trong tiếng Anh hoặc một loại ngoại ngữ khác Câu 14: Từ là gì? Trình bày các phương thức tạo từ mới. Cho Vd cụ thể trong tiếng Việt hoặc tiếng Anh Phương thức cấu tạo Từ tiếng Việt được cấu tạo hoặc là bằng các dùng một tiếng, hoặc là tổ hợp các tiếng lại theo lối nào đó. 2.1. Phương thức dùng một tiếng làm một từ sẽ cho ta các từ đơn (còn gọi là từ đơn tiết). Vậy từ đơn ở đây được hiểu là những từ cấu tạo bằng một tiếng. Ví dụ: tôi, bác, người, nhà, cây, hoa, trâu, ngựa... đi, chạy, cười, đùa, vui, buồn, hay, đẹp... vì, nếu, đã, đang, à, ư, nhỉ, nhé... 2.2. Phương thức tổ hợp (ghép) các tiếng lại, mà giữa các tiếng (thành tố cấu tạo) đó có quan hệ về nghĩa với nhau, sẽ cho ta những từ gọi là từ ghép. Dựa vào tính chất của mối quan hệ về nghĩa giữa các thành tố cấu tạo, có thể phân loại từ ghép tiếng Việt như sau: Từ ghép đẳng lập. Đây là những từ mà các thành tố cấu tạo có quan hệ bình đẳng với nhau về nghĩa. Ở đây, có thể lưu ý tới hai khả năng. Thứ nhất, các thành tố cấu tạo trong từ đều rõ nghĩa. Khi dùng mỗi thành tố như vậy để cấu tạo từ đơn thì nghĩa của từ đơn và nghĩa của các thành tố này không trùng nhau. So sánh: ăn ≠ ăn ở ≠ ăn nói ≠ ở ≠ nói... Thứ hai, một thành tố rõ nghĩa tổ hợp với thành tố không rõ nghĩa. Trong hầu hết các trường hợp, những yếu tố không rõ nghĩa này vốn rõ nghĩa nhưng bị bào mòn dần đi ở các mức độ khác nhau. Bằng con đường tìm tòi từ nguyên và lịch sử, người ta thường xác định được nghĩa của chúng. Ví dụ: chợ búa, bếp núc, đường sá, tre pheo, cỏ rả, sầu muộn, chó má, gà qué, cá mú, xe cộ, áo xống... Từ ghép đẳng lập biểu thị ý nghĩa khái quát và tổng hợp. Đây là một trong những điểm làm cho nó khác với từ ghép chính phụ. Từ ghép chính phụ. Những từ ghép mà có thành tố cấu tạo này phụ thuộc vào thành tố cấu tạo kia, đều được gọi là từ ghép chính phụ. Thành tố phụ có vai trò phân loại, chuyên biệt hoá và sắc thái hoá cho thành tố chính. Ví dụ: tàu hoả, đường sắt, sân bay, hàng không, nông sản, cà chua, máy cái, dưa hấu, cỏ gà... xấu bụng, tốt mã, lão hoá... xanh lè, đỏ rực, ngay đơ, thằng tắp, sưng vù... 2.3. Phương thức tổ hợp các tiếng trên cơ sở hoà phối ngữ âm cho ta các từ láy (còn gọi là từ lấp láy, từ láy âm). Từ láy tiếng Việt có độ dài tối thiểu là hai tiếng, tối đa là bốn tiếng và còn có loại ba tiếng. Tuy nhiên, loại đầu tiên là loại tiêu biểu nhất cho từ láy và phương thức láy của tiếng Việt. Một từ sẽ được coi là từ láy khi các yếu tố cấu tạo nên chúng có thành phần ngữ âm được lặp lại; nhưng vừa có lặp (còn gọi là điệp) vừa có biến đổi (còn gọi là đối). Ví dụ: đỏ đắn: điệp ở âm đầu, đối ở phần vần. Vì thế, nếu chỉ có điệp mà không có đối (chẳng hạn như: người người, nhà nhà, ngành ngành... thì ta có dạng láy của từ chứ không phải là từ láy. Kết hợp tiêu chí về số lượng tiếng với cách láy, có thể phân loại từ láy như sau: Từ láy gồm hai tiếng (cũng gọi là từ láy đôi) có các dạng cấu tạo sau: Láy hoàn toàn. Gọi là láy hoàn toàn nhưng thực ra bộ mặt ngữ âm của hai thành tố (hai tiếng) không hoàn toàn trùng khít nhau, chỉ có điều là phần đối của chúng rất nhỏ khiến người ta vẫn nhận ra được hình dạng của yếu tố gốc trong yếu tố được gọi là yếu tố láy. Có thể chia các từ láy hoàn toàn thành ba lớp nhỏ hơn: a. Lớp những từ láy hoàn toàn, chỉ đối nhau ở trọng âm (một trong hai yếu tố được nói nhấn mạnh hoặc kéo dài). Ví dụ: cào cào, ba ba, rề rề, lăm lăm, khăng khăng, kìn kìn, lù lù, lâng lâng, đùng đùng, hây hây, gườm gườm, đăm đăm... b. Lớp từ láy hoàn toàn đối nhau ở thanh điệu. Nguyên tắc đối thanh điệu ở đây là: thanh bằng đối với thanh trắc trong mỗi nhóm cùng âm vực; và bằng đứng trước, trắc đứng sau. BẰNG TRẮC Ngang (1) Hỏi (4) Sắc (5) Huyền (2) Ngã (3) Nặng (6) Ví dụ: đo đỏ, ra rả, hây hẩy, hau háu, hơ hớ, ngay ngáy, phơi phới, sừng sững, chồm chỗm, vành vạnh, lừng lững, hơn hớn, càu cạu, thoang thoảng... Tuy nhiên, ở đây vẫn còn một số ngoại lệ như: cỏn con, dửng dưng, mảy may, cuống cuồng... c. Lớp từ láy hoàn toàn, đối ở phần vần nhờ sự chuyển đổi âm cuối theo quy luật dị hoá: m–p ng – c n–t nh – ch Ví dụ: ăm ắp, chiêm chiếp, cầm cập, lôm lốp, hèm hẹp... chan chát, khin khít, sồn sột, thon thót, ngùn ngụt... khang khác, vằng vặc, rừng rực, phưng phức, phăng phắc... anh ách, chênh chếch, đành đạch, phành phạch, rinh rích... Thanh điệu của các yếu tố trong mỗi từ vẫn tuân theo quy luật của lớp b. Láy bộ phận. Những từ láy nào chỉ có điệp ở phần âm đầu, hoặc điệp ở phần vần thì được gọi là láy bộ phận. Căn cứ vào đó, có thể chia từ láy bộ phận thành hai lớp. a. Lớp từ láy (điệp) âm đầu, đối ở phần vần. Ví dụ như:bập bềnh, cò kè, ho he, thơ thẩn, đẹp đẽ, làm lụng, ngơ ngác, say sưa, xoắn xuýt, vồ vập, hấp háy... Trong lớp này, có những từ xét về mặt lịch sử vốn không phải là từ láy, nhưng vì quan hệ về nghĩa giữa các yếu tố của chúng mất dần đi, làm cho quan hệ ngữ âm ngẫu nhiên giữa các yếu tố đó nổi lên hàng đầu, và hiện giờ người Việt nhất loạt coi chúng là từ láy. Ví dụ: chùa chiền, tuổi tác, giữ gìn, sân sướng... Nghĩa của những từ như vậy được tổ chức theo kiểu của các từ tre pheo, chó má, đường sá, xe cộ, áo xống... Trong khi xét sự đối vần ở đây, cũng cần lưu ý tới hiện tượng đối ứng ở âm chính. Hiện tượng này không phải là quy luật toàn thể, nhưng đều đặn ở một số nhóm từ. u đối với i: cũ kĩ, hú hí, xù xì, tủm tỉm, mũm mĩm... ô – ê: ngô nghê, xồ xề, hổn hển, thỗn thện... o – e: ho he, vo ve, khò khè, võ vẽ, nhỏ nhẻ... i – a: hỉ hả, rỉ rả, xí xoá, hí hoáy... u – ă: tung tăng, hung hăng, vùng vằng, thủng thẳng... u – ơ: ngu ngơ, rù rờ, khù khờ, cũn cỡn... ô – a: bỗ bã, hốc hác, mộc mạc, ngột ngạt... ê – a: nghê nga, khề khà, rề rà, xuề xoà, hể hả... b. Lớp từ láy (điệp) phần vần, đối ở âm đầu. Ví dụ như: bâng khuâng, bơ vơ, lừng chừng, lù đù, lã chã, càu nhàu, lỗ mỗ, thao láo, hấp tấp, tủn mủn, lụp xụp, lảng vảng, lúng túng, co ro, lan man, làng nhàng... Gần nửa số lượng từ láy vần có âm đầu của tiếng thứ nhất là âm /l-/ và phần lớn chúng có chứa một tiếng còn rõ nghĩa. Tuy vậy, vẫn có không ít từ mà cả hai tiếng đều không rõ nghĩa, ví dụ: bải hoải, hấp tấp, lập cập, bầy hầy, thình lình, liểng xiểng, xớ rớ, lấc cấc... Từ láy ba và bốn tiếng được cấu tạo thông qua cơ chế cấu tạo từ láy hai tiếng. Tuy vậy, từ láy ba tiếng dựa trên cơ chế láy hoàn toàn, còn từ láy bốn lại dựa trên cơ chế láy bộ phận là chủ yếu. Ví dụ: khít khìn khịt, sát sàn sạt, dửng dừng dưng, trơ trờ trờ... đủng đà đủng đỉnh, lếch tha lếch thếch, linh tinh lang tang, vội vội vàng vàng... Trên thực tế, số lượng từ láy ba tiếng và bốn tiếng không nhiều. Mặt khác, có thể coi chúng chỉ là hệ quả, là bước "tiếp theo" trên cơ chế láy của từ láy hai tiếng mà thôi. Từ láy ba là láy toàn bộ kèm theo sự biến thanh và biến vần (ví dụ: nhũn – nhũn nhùn nhùn; xốp – xốp xồm xộp...). Nhiều khi ta gặp những "cặp bài trùng" giữa từ láy hai tiếng và ba tiếng như: sát sạt – sát sàn sạt; trụi lủi – trụi thui lủi; nhũn nhùn – nhũn nhùn nhùn; khét lẹt – khét lèn lẹt... Từ láy bốn tiếng thì tình hình cấu tạo có đa tạp hơn. Có thể là: - "Nhân đôi" từ láy hai tiếng nhưng biến vần của tiếng thứ hai thành e, a, ơ, à cho phù hợp, hài hoà về âm vực giữa các vần, các thanh: vớ vẩn → vớ va vớ vẩn lề mề → lề mà lề mề... - "Nhân đôi" từ láy hai tiếng nhưng biến đổi sao cho hai tiếng đầu có thanh điệu thuộc âm vực cao, hai tiếng sau mang thanh điệu âm vực thấp: bồi hồi – bổi hổi bồi hồi. - "Nhân đôi" từng tiếng của từ láy hai tiếng: hùng hổ → hùng hùng hổ hổ vội vàng → vội vội vàng vàng... - Thực hiện cách thứ ba vừa nêu, nhưng biến âm đầu của tiếng thứ nhất và thứ ba thành /l-/: nhồm nhoàm → lồm nhồm loàm nhoàm thơ thẩn → lơ thơ lẩn thẩn... Ngoài ra, còn có một số từ khác không cấu tạo theo các cách nêu trên; hoặc từ một từ gốc có thể cấu tạo hai từ láy bốn tiếng chứ không phải chỉ có một. Chẳng hạn: bù lu bù loa; bông lông ba la... hoặc bắng nhắng – bắng nha bắng nhắng; bắng nhắng bặng bặng nhặng... Sự biểu đạt ý nghĩa của từ láy rất phức tạp và rất thú vị, nhất là ở nhiều nhóm từ cùng có khuôn cấu tạo lại có thể có những điểm giống nhau nào đó về nghĩa. Điều này cần được khảo sát riêng tỉ mỉ hơn. 2.4. Từ các kiểu từ đã trình bày trên đây, tiếng Việt còn có một lớp từ mà người bản ngữ hiện nay không thấy giữa các thành tố cấu tạo (các tiếng) của chúng có quan hệ gì về ngữ âm hoặc ngữ nghĩa. Vì vậy, từ góc độ phân loại, cần tách chúng ra và gọi là các từ ngẫu hợp với ngụ ý: các tiếng tổ hợp với nhau ở đây một cách ngẫu nhiên. Lớp từ này có thể bao gồm: - Những từ gốc thuần Việt: bồ câu, bồ hòn, bồ nông, mồ hóng, mồ hôi, kì nhông, cà nhắc, mặc cả... - Những từ vay mượn gốc Hán (hoặc phiên âm qua âm Hán Việt) thông qua con đường sách vở hoặc khẩu ngữ (trong số này có những từ mà từng thành tố của chúng trước đây vốn rõ nghĩa, nhưng nay không được người Việt nhận thức nữa). Ví dụ: mâu thuẫn, hi sinh, trường hợp, kinh tế, kinh tế, câu lạc bộ, mì chính, tài xế, vằn thắn, lục tàu xá... - Những từ vay mượn gốc Ấn-Âu qua con đường sách vở hoặc khẩu ngữ như: a-xít, mit tinh, sơ mi, tùng bê, mùi xoa, xà phòng, cao su, ca cao, hắc ín, sô-cô-la... Bộ phận từ này trong những năm gần đây có xu hướng gia tăng do các mối quan hệ quốc tế mở rộng, tạo điều kiện cho sự tiếp xúc, vay mượn và du nhập từ ngữ, nhất là trong lĩnh vực thông tin, khoa học và kĩ thuật. Câu 15: Phân tích mối quan hệ giữa 3 khái niệm: ý nghĩa phương pháp, phương thữc ngữ pháp và phạm trù ngữ pháp Câu 16: Trình bày các quan hệ ngữ pháp cơ bản. Minh họa bằng các VD trong tiếng Việt hoặc tiếng Anh Câu 17: Trình bày các kiểu quan hệ ngữ nghĩa giữa các từ. Minh họa bằng các VD trong tiếng Việt hoặc tiếng Anh I Ðồng nghĩa là một hiện tượng xảy ra phổ biến trong các ngôn ngữ, nói chung, và trong tiếng Việt, nói riêng. Tuy nhiên cho đến nay quan niệm về hiện tượng này chưa phải đã thống nhất. 1.1.Theo quan niệm truyền thống. Từ đồng nghĩa là những từ có nghĩa gần nhau hay giống nhau. Nhìn chung quan điểm này đúng nhưng chưa đủ vì còn quá chung chung bởi các lý do sau: - Không phân biệt nghĩa biểu vật và nghĩa biểu niệm nên không xác định được từ đồng nghĩa giống nhau về nghĩa biểu vật hay nghĩa biểu niệm. - Không tính tới một cách nghiêm túc hiện tượng nhiều nghĩa. 1.2. Theo quan niệm hiện đại. Có các khuynh hướng: - Dựa vào tương quan ngữ cảnh, một số tác giả cho rằng từ đồng là từ có thể thay thế được cho nhau trong những ngữ cảnh giống nhau mà ý nghĩa chung của câu không thay đổi về cơ bản . Quan niệm này quá rộng bởi 2 lý do sau: + Có trường hợp từ vốn được xem là đồng nghĩa nhưng không thay thế được cho nhau trong những ngữ cảnh giống nhau. + Có trường hợp từ thay thế được cho nhau trong ngữ cảnh này mà không thay thế được cho nhau trong ngữ cảnh khác. - Dựa vào nghĩa biểu vật và sự vật, hiện tượng được gọi tên, Nguyễn Văn Tu cho rằng từ đồng nghĩa là những từ có nghĩa giống nhau. Ðó là những từ khác nhau cùng chỉ một sự vật, một đặc tính, một hành động nào đó. Ðó là những tên khác nhau của một hiện tượng - Dựa vào nghĩa biểu niệm và khái niệm, Ðỗ Hữu Châu cho rằng hiện tượng đồng nghĩa là hiện tượng xảy ra có tính rộng khắp trong hàng loạt từ, nó xuất hiện khi giữa các từ chỉ cần có một nét nghĩa chung và không có nét nghĩa đối lậpTuy rằng cuối cùng tác giả có phân ra chia nhiều mức độ đồng nghĩa, nhưng nói chung quan niệm này nhìn nhận về hiện tượng đồng nghĩa vẫn quá rộng. - Cùng dựa vào nghĩa biểu niệm và khái niệm, Nguyễn Thiện Giáp viết: Trong hệ thống ngôn ngữ, nói đến hiện tượng đồng nghĩa là phải nói đến sự giống nhau của các nghĩa sở biểu. Vì vậy, chúng tôi tán thành quan niệm cho từ đồng nghĩa là những từ gần nhau về nghĩa, nhưng khác nhau về âm thanh, biểu thị các sắc thái của một khái niệm -quan niệm về từ đồng nghĩa như sau: từ đồng nghĩa là những từ có hình thức ngữ âm khác nhau nhưng có quan hệ tương đồng về nghĩa biểu niệm. 2.Phân loại từ đồng nghĩa: Dựa vào mức độ giống nhau về nét nghĩa giữa các từ đồng nghĩa, có thể chia từ đồng nghĩa thành các loại: 2.1.Từ dồng nghĩa tuyệt đối: Là những từ đồng nghĩa đồng nhất về ý nghĩa biểu niệm và cả nghĩa biểu thái cũng như phạm vi sử dụng của chúng.Ðấy là hiện tượng đồng nghĩa giữa các từ do sự song tồn giữa : - Từ cũ và từ mới. Thí dụ:Trăng - nguyệt - chị hằng - gương nga ; trực thăng - máy bay lên thẳng; xe lửa - tàu hỏa - hoả xa; phi cơ - máy bay;... -Từ địa phương và từ toàn dân. Thí dụ: Cha - bố - tiá; mẹ - me - má - vú; thấy - chộ; xa - ngái; cô - ả - o;... -Từ thuần Việt và từ vay mượn. Thí dụ: Bệnh nhân - người bệnh; sử dụng - dùng; mô bi lết - xe máy. -Thuật ngữ và từ thường. Thí dụ: Trần bì - vỏ quýt; lưu huỳnh - diêm sinh , lân- phốt pho... 2.2. Ðồng nghĩa tương đối. Bao gồm những trường hợp đồng nghĩa khác nhau nhiều hay ít trong các thành phần ý nghĩa hoặc khác nhau ở một hoặc vài nét nghĩa nào đó trong ý nghĩa biểu niệm của các từ. Cụ thể chúng có thể khác nhau ở các điểm sau đây: - Khác nhau về nghĩa biểu thái. Thí dụ: Ăn - xơi - tọng - hốt; trẻ em - con nít; phụ nữ - đàn bà. - Khác nhau về phạm vi biểu vật. Thí dụ: Chết - qua đời - mất; lạnh - lạnh lẽo; lạnh - lạnh lùng; diệt - tiêu diệt xoá sổ - loại khỏi vòng chiến;... - Khác nhau ở các nét nghĩa trong cấu trúc biểu niệm của các từ. Thí dụ: Nhà - lâu đài; ngại - sợ - kinh; đẹp - mỹ lệ; mổ - bổ - cắt - ngắt -xé,... *Nhận xét: - Do từ thể có nhiều nghĩa nên một từ có thể đồng nghĩa với nhiều từ khác nghĩa nhau. -Từ đồng nghĩa có thể xảy ra giữa các từ có các yếu tố cấu tạo và phương thức cấu tạo khác nhau. Thí dụ: To- lớn- bự- đồ sộ- khổng lồ; nhỏ- tí hon,... - Từ đồng nghĩa cũng có thể xảy ra giữa các từ có cùng yếu tố cấu tạo . Thí dụ: máu- máu me; chim- chim chóc; xấu- xấu xí; khoẻ- khỏe khoắn. Ngoài ra do thành ngữ cũng là một loại đơn vị từ vựng nên bàn đến hiện tượng đồng nghĩa từ vựng cũng có thể tập hợp các thành ngữ có nghĩa giống nhau. Thí dụ: khoe khoang- múa rìu qua mắt thợ; may mắn- buồn ngủ gặp chiếu manh- chết đuối vớ được cọc-chuột sa hủ nếp- mèo mù vớ cá rán;... Tóm lại, hiện tượng từ đồng nghĩa chứng tỏ sự nhận thức chính xác, tinh tế của dân tộc về hiện thực khách quan. Sau dây là một số phương pháp tìm và chỉ ra sự khác biệt ý nghĩa giữa các từ đồng nghĩa . 1/- Xác định từ trung tâm trong dãy đồng nghĩa, giải nghĩa cặn kẽ từ trung tâm, dựa vào từ trung để giải thích ý nghĩa cho những từ còn lại đồng thời chỉ ra sự khác biệt về nghĩa giữa chúng. Ví dụ: Phân biệt nghĩa của các từ mẹ, má, u, bầm,... Mẹ : người đàn bà đẻ ra mình ( có thể dùng để xưng gọi, được sử dụng trong ngôn ngữ toàn dân) Má : mẹ ( chỉ dùng dể xưng gọi , thường dùng ở Nam Bộ) Bầm : mẹ ( chỉ dùng để xưng gọi, thường dùng ở trung du Bắc Bộ) U : mẹ ( chỉ dùng để xưng gọi, thường dùng ở nông thôn Bắc Bộ) 2/- Phân tích tìm nghĩa chung của các từ trong nhóm từ đồng nghĩa, sau đó kết hợp chỉ ra những nét riêng về nghĩa của từng từ để chỉ ra sự khác biệt về nghĩa giữa chúng. Ví dụ: Phân biệt nghĩa giữa các từ cho, tặng, biếu. Phần nghĩa chung giữa ba từ là: ( trao cái gì đó cho ai ) ( được quyền sử dụng riêng vĩnh viễn ) ( mà không đòi hay đổi lại cái gì ). Phần nghĩa riêng của mỗi từ: Cho : ( Người trao có ngôi thứ cao hơn hoặc ngang với người nhận ) ( vật được trao là tiền của hoặc có giá trị sử dụng ) Biếu : ( Người trao có ngôi thứ thấp hơn hoặc bằng người nhận) (vật được trao là tiền của ) ( bằng thái độ kính trọng ) Tặng: ( Người trao có ngôi thứ cao hơn, thấp hơn, hoặc ngang với người nhận ) ( vật được trao mang ý nghĩa tinh thần- để khen ngợi, khuyến khích, hay tỏ lòng quý mến ) Tuy nhiên làm thế nào để phát hiện và chỉ ra được sự khác biệt về nghĩa giữa các từ đồng nghĩa, đặc biệt là giữa các từ đồng nghĩa tương đối là vấn đề không đơn giản. Ðể làm được điều này, ngoài cách tiếp tục so sánh, đối chiếu nghĩa giữa các từ đồng nghĩa trên trục dọc, ta còn có thể áp dụng phương pháp xác lập ngữ cảnh trống hay xác lập ngữ cảnh nói năng khu biệt. Nghĩa là tìm những câu mà hai từ đồng nghĩa không thay thế cho nhau được. Hai từ không thể thay thế cho nhau được trong cùng ngữ cảnh thì đó là dấu hiệu của sự khác biệt. Qua những ngữ cảnh không thay thế cho nhau được ấy sẽ giúp ta chỉ ra được sự khác nhau về nghĩa giữa chúng. Ví dụ, để tìm sự khác biệt giữa chỗ và nơi, ta có thể dựa vào các ngữ cảnh trống sau: Trên xe cần nhường ... cho người già. Trong nhà hát còn trống hai chục ... ngồi. Hàng cồng kềnh chiếm nhiều .... Tìm khắp ... không thấy. Anh đi ... đâu tôi cũng quyết tìm cho bằng được. Qua việc có khả năng hay không có khả năng điền vào ngữ cảnh trống trên ta có thể chỉ ra điểm khác biệt giữa chỗ và nơi. Chỗ: Nhỏ hẹp, cụ thể hơn nơi, có thể nhìn thấy toàn bộ trong cùng một lúc và xác định được giới hạn chính xác. Nơi rộng hơn chỗ, không xác định được chính xác giới hạn. Giữa các từ đồng nghĩa có thể khác nhau ở các nét nghĩa phổ biến sau: - Phong cách ( khẩu ngữ/ văn chương/ khoa học,...) - Sắc thái biểu cảm ( dương tính / trung tính / âm tính; khẳng định / phủ định...) - Phạm vi sử dụng ( toàn dân/ địa phương/ một tầng lớp xã hội/ một giới nghề nghiệp; thường dùng/ ít dùng; ...) - Phạm vi biểu vật ( cụ thể / khái quát; cụ thể / trừu tượng; rộng hẹp,...) - Các nét nghĩa trong ý nghĩa biểu niệm. + Ðối với các danh từ, tính từ chỉ các sự vật, hiện tượng, tính chất,... có thể có quy mô, kích thước, mức độ khác nhau ( to / nhỏ; cao / thấp, nhiều / ít,...) + Ðối với động từ có thể khác nhau ở chủ thể hành động, đối tượng hành động ( trên / dưới / ngang hàng,...); cách thức hành động ( dụng cụ / bằng tay; chiều ngang / chiều dọc,...); muc đích, nguyên nhân của hành động,... 3/- Dựa vào các yếu tố cấu tạo từ. Nếu hai từ đồng nghĩa có chung một thành tố cấu tạo thì sự khác biệt về nghĩa của chúng thường nằm ở thành tố khác nhau ấy. Ví dụ: ám sát và mưu sát. Hai từ này khác nhau ở các yếu tố ám và mưu . ám có nghĩa là lén lút, tối tăm, kín. Mưu có nghĩa là sắp đặt, kế hoạch. Do đó, ám sát là giết lén; còn mưu sát là giết người có mưu kế, có sắp đặt kế hoạch từ trước. II. HIỆN TƯỢNG TRÁI NGHĨA 1. Quan niệm về từ trái nghĩa: Cũng như quan niệm về hiện tượng đồng nghĩa, về hiện tượng trái nghĩa cũng có nhiều ý kiến khác nhau . Có tác giả cho rằng từ trái nghĩa là những từ khác nhau về ngữ âm, đối lập đối lập về ý nghĩa biểu hiện khái niệm tương phản về lôgíc, nhưng tương liên lẫn nhau. Cần phải nhận thấy rằng các từ được xem là trái nghĩa điển hình trước hết phải có các nét nghĩa khái quát trong cấu trúc biểu niệm giống nhau. Chẳng hạn, các cặp từ trái nghĩa to- nhỏ; dài-ngắn...giống nhau ở nét nghĩa phạm trù và nét nghĩa loại. Nét nghĩa này có thể thay thế cho tiêu chí tương liên đã nói ở trên .Từ đó có thể đi đến một cách hiểu về từ trái nghĩa như sau: Từ trái nghĩa là những từ có một số nét nghĩa khái quát trong cấu trúc biểu niệm giống nhau, bên cạnh đó, nổi bật lên ít nhất một nét nghĩa đối lập. 2. Phân loại từ trái nghĩa: Từ sự khảo sát trên,có thể thấy hiện tượng trái nghĩa xảy ra ở hai mức độ khác nhau: trái nghĩa tuyệt đối và trái nghĩa tương đối. 2.1. Trái nghĩa tuyệt đối : Ðây là trường hợp trái nghĩa giữa các từ thoả mãn các tiêu chí sau: 1) Bên cạnh những nét nghĩa khái quát giống nhau, giữa các từ có xuất hiện nét nghĩa đối lập; 2) Chúng nằm ở vùng liên tưởng nhanh nhất, mạnh nhất, có tần số xuất hiện cao nhất. Nói nôm na, hễ có A là người ta liên tưởng đối lập ngay tới B. Thí dụ: Dài / ngắn sớm / muộn rộng / hẹp to / nhỏ cứng / mềm cao /thấp quen /lạ yêu /ghét 2.2. Trái nghĩa tương đối: Là trường hợp trái nghĩa giữa các từ chỉ thỏa mãn tiêu chí 1) mà không thỏa mãn tiêu chí 2). Tức đấy là các trường hợp trái nghĩa nằm ở vùng liên tưởng yếu, nghĩa là nói tới A người ta không liên tưởng đối lập ngay tới B. Thí dụ: Nhỏ / khổng lồ thấp / lêu nghêu cao / lùn tịt Trái nghĩa và đồng nghĩa là hai hiện tượng phổ biến trong các ngôn ngữ, nói chung, và trong tiếng Việt, nói riêng; tuy nhiên những nghiên cứu và giải đáp về nó vẫn còn chừng mực. III. HIỆN TƯỢNG ĐỒNG ÂM 1. Quan niệm về hiện tượng đồng âm. - Phân biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa: Cả hai cùng có đặc điểm là sử dụng vỏ ngữ âm giống nhau để biểu thị những ý nghĩa khác nhau, nhưng ở hiện tượng đồng âm giữa các nghĩa của từ không có quan hệ; còn ở hiện tượng nhiều nghĩa, giữa các nghĩa có quan hệ, xảy ra do hiện tượng nhiều nghĩa và sự chuyển biến ý nghĩa của từ. Như vậy có thể nói hai đơn vị được xem là đồng âm khi giữa chúng có hình thức ngữ âm giống nhau và không có quan hệ với nhau về mặt ý nghĩa. Chú ý: - Hiện tượng đồng âm có thể xảy ra ở nhiều cấp độ ( giữa các cụm từ tự do với nhau, giữa những từ đa âm tiết, giữa những từ đơn âm tiết, giữa từ đơn âm tiết và các yếu tố cấu tạo từ…) - Những trường hợp chệch chuẩn không được xem là những hiện tượng đồng âm. -Với những trường hợp chuyển nghĩa quá xa, không xác định được cơ chế chuyển nghĩa, có thể xem chúng là những trường hợp đồng âm. 2.Phân loại: |