Vì sao người hải ngoại phải học tiếng miền bắc
Như mọi người đã biết, tiếng Việt có sự phân hóa khác nhau ở 3 miền Bắc-Trung-Nam tạo nên phương ngữ. Chẳng hạn người Nam gọi là má, người Trung gọi là mạ hay người Hà Nội trước 1975 gọi là mợ, một số vùng đồng bằng sông Hồng gọi là bầm, u (Tham khảo Zing.vn). Show
Theo mọi người, vì sao lại có sự khác biệt như vậy? Những yếu tố nào đã tắc động và ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình phân hóa ngôn ngữ của tiếng Việt?
Ngôn ngữ hình thành từ cuộc sống và phản ánh cuộc sống của từng địa phương khác nhau về kinh tế, văn hóa sẽ khác nhau. Ở Việt Nam, chủ yếu có ba vùng phương ngữ chính: phương ngữ Bắc (Bắc Bộ), phương ngữ Trung (Bắc Trung Bộ), phương ngữ Nam (Nam Trung Bộ và Nam Bộ). Các phương ngữ này khác nhau chủ yếu ở ngữ âm, rồi đến từ vựng, cuối cùng là một chút khác biệt ngữ pháp. Bản đồ phân bố 3 vùng phương ngữ chính của tiếng Việt tại Việt Nam.Sự khác biệt về ngữ âm là nhiều nhất, nhưng có thể đoán được. Sự khác biệt về từ vựng có thể dẫn đến sự hiểu lầm nhiều nhất.[1] Mục lục
Lịch sửSửa đổiCác phương ngữ Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ hiện nay thể hiện sự khác biệt ngữ âm khá rõ gần tương đương với địa giới phân chia hành chính thời Lê sơ:
Các phương ngữ Nam Bộ hiện nay hình thành rõ nét kể từ khi chúa Nguyễn Hoàng vượt qua Đèo Hải Vân vào Quảng Nam cùng với nhiều thay đổi trong ngữ âm và bổ sung nhiều từ vựng từ tiếng Khmer, tiếng Quảng Đông, tiếng Triều Châu... Đặc điểmSửa đổiCó những tổ hợp song âm khi tách ra dùng đơn lẻ thì phương ngữ Nam chọn yếu tố thứ nhất, còn phương ngữ Bắc chọn yếu tố thứ hai: dơ bẩn, đau ốm, lời lãi, bao bọc, mai mối, hư hỏng, dư thừa, kêu gọi, sợ hãi, hình ảnh, la mắng, bồng bế, hăm dọa… Ngược lại có những tổ hợp người miền Bắc chọn yếu tố đầu, người miền Nam chọn yếu tố sau: thóc lúa, giẫm đạp, đón rước (trong phương ngữ Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ, rước mang nghĩa trang trọng), lừa gạt, sắc bén, lau chùi, thứ hạng, chăn mền, chậm trễ, tìm kiếm, vâng dạ, đùa giỡn, thuê mướn, mau lẹ, hung dữ, trêu chọc…[2] Nhiều từ vựng, phương ngữ Bắc quen dùng từ thuần Việt, phương ngữ Nam hay dùng từ Hán Việt như (Bắc/Nam): hát/ca, chè/trà, bèo tây/lục bình, quán/tiệm, mướp đắng/khổ qua, đỗ/đậu... Ở chiều ngược lại, phương ngữ Bắc thông dụng từ Hán Việt thì phương ngữ Nam hay dùng từ đã Việt hóa như: hoa quả/trái cây...[cần dẫn nguồn] Nhiều từ vựng phương ngữ miền Nam có nguồn gốc từ bối cảnh sông nước, đặc điểm tự nhiên của miền Tây Nam Bộ, như: có giang, quá giang, anh em cọc chèo (phân biệt chèo lái, chèo kế, chèo mũi) chỉ anh em đồng hao ở ngoài Bắc, khẳm (chỉ thứ gì nhiều quá ví dụ khẳm tiền), chìm xuồng (chỉ vụ việc bị lãng quên), tới bến, xuống nước...[3] Sử dụngSửa đổiPhương ngữ vùng nào tất nhiên sẽ được người dân vùng đó dùng để giao tiếp. Tuy nhiên ngoài ra còn có một số đặc điểm sau. Phương ngữ miền Bắc được dùng nhiều trong các kênh thông tin đại chúng của quốc gia như Đài Truyền hình Việt Nam. Tuy ngày càng có xu hướng nhiều chương trình bắt đầu có người dẫn chương trình dùng phương ngữ miền Nam nhưng vẫn chiếm tỉ lệ khá thấp trong khi phương ngữ miền Trung dường như vắng bóng. Chẳng hạn như trong chương trình thời sự lúc 19 giờ hằng ngày, chương trình được xem là quan trọng và được hầu hết các đài truyền hình địa phương tiếp sóng, chỉ có 2 biên tập viên dùng phương ngữ miền Nam. Tuy vậy, lời dẫn chương trình của các bản tin được gửi về từ địa phương có thể là phương ngữ của vùng đó, ví dụ bản tin từ Quảng Bình được nói bằng giọng Quảng Bình. Trong khi hát, các ca sĩ dẫu trong Nam hay ngoài Bắc, kể cả hải ngoại đều dùng phương ngữ miền Bắc[cần dẫn nguồn]. Có một số trường hợp dùng phương ngữ địa phương do tính chất bài hát (chẳng hạn ca sĩ Cẩm Ly) hoặc dân ca địa phương hoặc vọng cổ (phương ngữ miền Nam). Tuy nhiên, trong nhiều bài tân cổ giao duyên, thì phần tân cũng được hát bằng phương ngữ miền Bắc trong khi phần cổ được hát bằng phương ngữ miền Nam. Xu hướngSửa đổiGần đây khi giao thông vận tải, truyền hình, phim ảnh và internet phát triển, nhìn chung người ngoài Bắc và trong Nam có xu hướng dễ hiểu nhau hơn, ở một mức độ nào đó có ảnh hưởng lẫn nhau, ví dụ ngoài Bắc dùng từ nhậu, dzô hoặc trong Nam dùng từ vào trong bóng đá hoặc từ bác xưng hô trên internet nhiều hơn. Trong xu hướng này, các từ của tiếng Nam Bộ nhập vào tiếng Việt chung là biểu hiện rõ nhất: bột giặt, kem giặt (thay cho xà phòng bột, xà phòng kem), gạch bông, bông tai (gạch hoa, hoa tai), máy lạnh (điều hòa nhiệt độ), tiêu chảy (ỉa chảy, ỉa lỏng), bà bầu (bà chửa), chỉ, cây (vàng) (đồng cân, lạng (vàng)), quậy (phá), nhậu nhẹt (ăn uống, bia rượu), lì xì (mừng tuổi), nước tương (xì dầu), nhà thuốc/ nhà sách (cửa hàng thuốc/ cửa hàng sách), v.v.[2] Ngoài ra trên các mạng xã hội, các thanh thiếu niên đôi khi cố tình viết sai chính tả để ký âm phương ngữ miền Nam hay miền Trung với mục đích vui vẻ. Phương ngữ tiếng Việt giữa các vùngSửa đổiSo sánh ngữ âm trong phương ngữ ba vùng lãnh thổ Việt Nam:Sửa đổi
Hệ thống phụ âm các vùng phương ngữ tiếng ViệtSửa đổi
Bảng vần các vùng phương ngữ tiếng ViệtSửa đổi
Vùng phương ngữ BắcSửa đổiVùng phương ngữ TrungSửa đổiVùng phương ngữ NamSửa đổi
^ Notes:
^ Notes:
Bảng so sánh các đại từ được sử dụng tại các vùng phương ngữ tiếng ViệtSửa đổi
Bảng so sánh các từ thông dụng tại các vùng trong phương ngữ tiếng ViệtSửa đổi
Ngoài Việt NamSửa đổiXem thêm: Tiếng Kinh tại Trung Quốc Chú thíchSửa đổi
Tham khảoSửa đổi
Liên kết ngoàiSửa đổi
|