Age-norms là gì

X

This site uses cookies. By continuing, you agree to their use. Learn more, including how to control cookies.

Show
Đã hiểu!
Quảng cáo

Cybersecurity and the Concept of Norms

Những yêu cầu về quy tắc để đảm bảo và ổn định không gian mạng đã trở nên phổ biến. Những lời kêu gọi này thường cung cấp kiến thức chi tiết về an ninh mạng nhưng hiếm khi nói nhiều khái niệm về các quy tắc là những quy tắc gì, quy tắc làm việc như thế nào, chuyển đi ra sao và tại sao bất cứ ai cũng thích điều này hơn so với các chính sách công vụ khác. Kết quả là, các cuộc thảo luận chính sách và báo chí truyền thông thường áp dụng thuật ngữ cho các công cụ chính sách thực tế không phải là quy tắc. Việc gộp chung lại như vậy có thể hiểu được, nhưng chúng có thể tạo ra nhầm lẫn không cần thiết và làm giảm giá trị quá trình xây dựng quy tắc. Các tài liệu học thuật liên quan mô tả các điểm cơ bản của khái niệm quy tắc và cách chúng hoạt động như thế nào, trong khi rút ra những bài học từ những phạm vi lĩnh vực chính sách khác mà các quy tắc đã hoặc chưa được sử dụng thành công.

QUY TẮC LÀ GÌ (VÀ KHÔNG LÀ GÌ)?

Theo định nghĩa tiêu chuẩn hiện nay, quy tắc là một tập hợp mong muốn đối với thái độ phù hợp của những người tham gia có đặc tính nhất định. Một số điểm của định nghĩa này đáng đem ra thảo luận.

Thứ nhất, quy tắc là niềm tin chung của một cộng đồng. Một điều không thể là quy tắc chỉ bởi ai đó nói như vậy; một quy tắc chỉ tồn tại khi một số nhóm có liên quan đồng ý và giữ niềm tin nhất định về thái độ được mong muốn. Do đó, một cách đơn giản mảng còn thiếu về chỉ dẫn quy tắc cơ bản có thể giải quyết vấn đề không gian mạng nêu ra, và việc công bố mô tả này với thế giới không tạo ra một quy tắc. Người tham gia cần chấp nhận và thừa nhận rằng các chỉ dẫn hành vi của quy tắc áp dụng cho họ (hoặc cho các chủ thể khác có thể chịu trách nhiệm). Chính phủ Hoa Kỳ tuyên bố rằng gián điệp thương mại là xấu, nhưng tuyên bố này không tạo ra quy tắc chống lại gián điệp mạng. Chỉ khi Trung Quốc, Anh Quốc, và các nước G20 khác ký vào hành động thì một quy tắc mới bắt đầu hình thành. Các cá nhân không cần yêu thích một quy tắc để thừa nhận rằng những kỳ vọng của họ được chia sẻ rộng rãi, và mọi người không cần phải yêu thích một quy tắc để cảm thấy sự ảnh hưởng của các chỉ dẫn hành vi. Hầu hết mọi người sẽ không chọn thắt cà vạt hoặc mang giày cao gót, nhưng hãy làm như vậy khi có nhu cầu. Tương tự, các nước, các cơ quan quản lý, các công ty và các bên khác có thể cảm thấy khó chịu về các quy định hành vi của một quy tắc nhưng vẫn tuân thủ vì họ muốn duy trì vị trí trong nhóm và / hoặc vì họ coi trọng mục tiêu của nhóm.

Thứ hai, sự thúc đẩy tuân thủ một quy tắc phát sinh từ việc chia sẻ trong một nhóm mà ở đó các bên liên quan xác định. Ví dụ, các quốc gia có thể không hào hứng về các khía cạnh của kết quả đầu ra được đưa ra bởi Nhóm chuyên gia Liên hợp quốc, nhưng nhiều nước, đặc biệt là phương Tây cảm thấy áp lực hơn trong việc tuân thủ các quy tắc này so với các quy tắc được công bố bởi Tổ chức Hợp tác Thượng Hải, bởi vì họ ủng hộ Liên Hợp Quốc và cảm nhận sự ảnh hưởng từ quá trình của các quy tắc. Đặc điểm thành phần của các quy tắc này dẫn đến các chiến lược công bố quy tắc. Các doanh nhân đầy kinh nghiệp có thể chơi theo sự mong muốn của các thành viên tham gia để có được danh tiếng hoặc trở thành thành viên của một nhóm được lựa chọn, lập luận rằng các nước (hay các công ty) được coi là tốt hay có trách nhiệm sẽ tuân theo một quy tắc đã đề ra. Việc áp dụng sớm của các nước (hoặc các công ty) làm tăng thêm sự tin cậy và tuân thủ đối với quy tắc. Bằng cách này, việc áp dụng rộng rãi khuôn khổ an ninh mạng tự nguyện của Viện Quy tắc và Công nghệ Quốc gia, bao gồm một loạt các quy tắc, đã giúp các thành viên tham gia thể hiện dự định của họ và xây dựng sự tin tưởng vào chuỗi cung ứng (và với các chính phủ).

CÁC QUY TẮC LIÊN HỆ VỚI CÁC PHƯƠNG TIỆN CHÍNH SÁCH KHÁC NHƯ THẾ NÀO?

Các quy tắc là khác nhau và chưa được kết nối với các khái niệm liên quan như nguyên tắc hoặc luật pháp. Nói chung, nguyên tắc là điều cơ bản rút ra từ thực tế, nguyên nhân hệ quả hoặc thái độ đạo đức đúng và hướng dẫn hành động bằng nhiều cách khác nhau. Thông thường, nguyên tắc nói rõ mục tiêu hoặc tầm nhìn về những gì một nhóm muốn đạt được. Điều này hữu ích trong thỏa thuận về những gì một nhóm muốn hoàn thành có thể giúp điều phối hoạt động, mặc dù việc nói rõ ràng các nguyên tắc chia sẻ có thể là khó khăn. Ví dụ, khái niệm bảo vệ nhân quyền trực tuyến có thể là một mục tiêu hoặc nguyên tắc hướng dẫn, nhưng việc tạo ra niềm tin chia sẻ trong ý tưởng này có thể là một thách thức, thậm chí giữa các quốc gia đã ký kết vào các công cụ nhân quyền cốt lõi của cộng đồng quốc tế (như hầu hết tất cả các nước đã thực hiện).

Tuy nhiên, ngược lại với các quy tắc, các nguyên tắc thường không nói hoặc không chỉ chính xác về các thành viên nào nên thực hiện các hành vi để đạt được mục tiêu đã đề ra. Các nguyên tắc có thể được thể hiện bằng tiếng nói thụ động hoặc có thể miêu tả các nghĩa vụ một cách mơ hồ. Các quy tắc liên kết một cách rõ ràng các thành viên cụ thể với hành vi mong muốn. Nếu một nguyên tắc phân bổ lao động và phân công trách nhiệm một cách rõ ràng, và nếu những hiểu biết này được các bên liên quan chia sẻ rộng rãi thì nguyên tắc đó là một quy tắc. Nếu không, điều đó chỉ đơn thuần là một nguyên tắc (hoặc mục đích, tầm nhìn, hoặc điều gì khác). Ví dụ, tuyên bố rằng thông tin nên được tự do có thể là một nguyên tắc, nhưng không phải là một quy tắc.

Việc theo đuổi thỏa thuận về các nguyên tắc, trái ngược với các quy tắc, có thể thu hút về chính trị một cách chính xác bởi điều này cho phép không cần tuân thủ nghĩa vụ hành vi. Giải thích một cách rõ ràng các nghĩa vụ cụ thể đối với các bên cụ thể (nghĩa là các quy tắc rõ ràng, cụ thể) kêu gọi sự kiểm tra và tuyên bố về trách nhiệm mà những nguyên tắc không đề cập. Vì lý do đó, xây dựng các quy tắc có thể gây tranh cãi nhiều hơn. Tất nhiên, đây cũng là lý do tại sao các quy tắc có thể có giá trị hơn như là các công cụ chính sách. Bằng cách làm rõ trách nhiệm và ai nên làm gì thì các quy tắc tạo ra nghĩa vụ cho các bên cụ thể và khuyến khích trách nhiệm giải trình tích cực hơn các nguyên tắc.

Luật pháp là một công cụ chính sách nổi bật khác đang hiện hành trong không gian mạng. Giống như các nguyên tắc, luật pháp thường hoạt động đồng thời cùng quy tắc để đạt được các mục tiêu chính sách, nhưng luật khác biệt với quy tắc ở một số cách quan trọng. Đối với một điều, quy tắc rộng hơn luật lệ. Những quan niệm về hành vi đúng đắn có thể có nhiều nguồn, nhất là văn hóa, và một loạt các nền văn hoá giao thoa trong không gian ảo. Ví dụ, các nền văn hóa của các công ty công nghệ ở Thung lũng Silicon khác biệt rõ nét với các văn phòng của Bộ Tư lệnh Hoa Kỳ hoặc Cơ quan An ninh Quốc gia Hoa Kỳ; điều này có thể tạo ra quy tắc và các va chạm về giá trị, cũng như tranh chấp pháp lý xung quanh các vấn đề như cửa trước và cửa sau trong phần mềm. Cần lưu ý rằng nhiều quy tắc xã hội mạnh mẽ-ví dụ như các quy tắc cho thấy những gì tạo thành phần mềm tốt-có ít hoặc không có vị trí pháp luật.

Đồng thời, luật pháp không hoàn toàn độc lập với quy tắc; hầu hết các hình thức của pháp luật được củng cố bởi một yếu tố mạnh mẽ của tính quy tắc. Thật vậy, nhiều đạo luật nhằm tạo ra các quy tắc bằng cách sử dụng tính hợp pháp của luật để xác định mong muốn được chia sẻ. Nhiều mong muốn tập thể ở hầu hết các nước phải tuân theo luật, thường thực hiện chức năng quan trọng trong việc nêu rõ người nào nên làm gì, một đặc tính của các quy tắc. Không phải mọi luật đều có được sự ủng hộ rộng rãi về mặt quy tắc vì các luật sư về sở hữu trí tuệ, những người chống lại các quy tắc xã hội về chia sẻ file hiểu rõ -nhưng hầu hết luật pháp đều làm. Vì lý do đó, một mục tiêu chung của các nhà xúc tiến quy tắc là xây dựng mối quan hệ chặt chẽ với luật nhằm củng cố và tinh lọc các kỳ vọng về hành vi của một quy tắc nhất định.

Ví dụ, nhiều quy tắc chuyên nghiệp trong không gian ảo bắt đầu là những thực tiễn tốt nhất (hoặc các quy tắc) nhưng theo thời gian, đã được viết thành luật bằng nhiều cách khác nhau. Tuy nhiên, không phải tất cả các quy tắc đã được hợp pháp hóa. Các quy tắc chuyên nghiệp thường được lan truyền thông qua các nỗ lực đào tạo và xã hội hóa. Viện Đào tạo Viễn thông Hoa Kỳ và các nỗ lực xây dựng năng lực đào tạo một cách rộng rãi hơn các quan chức chính phủ và các quan chức từ khắp nơi trên thế giới về cách để quản lý những thách thức trên mạng và khi làm như vậy, đã mở rộng các quy tắc. Họ nhằm mục đích tạo ra kỳ vọng và hành vi không phải thông qua luật hoặc thực thi và ép buộc, nhưng bằng cách khai thác sự chuyên nghiệp và định hướng của những người tham gia để chia sẻ những mong muốn về hoạt động phù hợp trong những tuyên bố của họ.

Việc thu hút viết các quy tắc thành luật chính thức, đặc biệt là luật pháp trong nước, là sức mạnh cưỡng chế của nhà nước có thể cản trở sự mong đợi và tuân thủ bắt buộc. Thực tế, điều này có thể là một chiến thuật mạnh mẽ một cách cụ thể khi những cơ chế tốt tồn tại để đáp ứng và buộc thực thi. Luật về trách nhiệm pháp lý là một ví dụ điển hình. Tuy nhiên, quyền lực của luật để tạo ra hành vi phù hợp với quy tắc phụ thuộc rất nhiều vào tính chất của hệ thống chính trị và pháp luật trong nước được đề cập. Chính thức hóa các quy tắc trong luật bảo đảm tuân thủ và thực thi tốt hơn trong một số hệ thống hơn các quy tắc khác.

Ràng buộc các quy tắc với pháp luật không phải là một giải pháp hiệu quả cho một vấn đề cần tuân thủ, đặc biệt là đối với các quy tắc giữa các quốc gia. Các nhà vận động nhân quyền đã và đang cố gắng nhiều thập kỷ để gây áp lực lên các nước làm và thực thi một loạt các nghĩa vụ quốc tế về nhân quyền mà các chính phủ đã chính thức đồng ý nhưng từ chối thực hiện. (Nhớ lại rằng Saudi Arabia là nước ký kết Công ước về Xoá bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử đối với phụ nữ). Hoa Kỳ sử dụng sự bảo lưu với hiệp ước một cách chiến lược để tạo sự phòng ngừa, sự mơ hồ, và trách nhiệm giải trình vờ vịt với các luật. Về mặt lý thuyết, sự bảo lưu điều không tương thích với đối tượng và mục đích của hiệp ước- là bất hợp pháp, nhưng những nỗ lực để chỉ ra điều này với Saudis không thành công. Việc chỉ đơn giản viết những niềm tin chung thành luật không phải lúc nào cũng cho thấy niềm tin thực sự được chia sẻ hoặc nối các bộ phận mà sự đồng thuận về quy tắc có vẻ như là đạt được.

Một phần của sự nhiệt tình hiện nay đối với các quy tắc tự nguyện như một công cụ chính sách dường như bắt nguồn từ những nghi ngờ phổ biến về hiệu quả của các hiệp ước chính thức trong lĩnh vực không gian mạng. Nhiều chính phủ, doanh nghiệp và các tổ chức xã hội dân sự, đặc biệt ở phương Tây, xem việc đưa ra các hiệp định quá chậm và phức tạp đối với không gian chính sách đang di chuyển nhanh này và lo ngại đưa ra một kết quả nội dung hoặc thủ tục không mong muốn đang phổ biến ở chính phủ Hoa Kỳ. Các quy tắc có thể đưa ra một giải pháp thay thế tốt hơn, vì chúng có thể được tạo ra qua nhiều kênh, bao gồm các thỏa thuận chính trị (không yêu cầu phê chuẩn của Thượng viện) và có thể được thúc đẩy bởi các thành viên tham gia bao gồm các công ty, các nhóm xã hội dân sự và các bang. Các quy tắc giữa các cơ quan quản lý và kỹ thuật có thể đặc biệt quan trọng trong việc quản lý các mối đe dọa chung. Do đó, Hoa Kỳ và các bên khác xem quy tắc như là một cách nhanh hơn,linh hoạt hơn để quản lý các mối đe dọa không gian mạng gia tăng.

QUY TẮC BẮT NGUỒN TỪ ĐÂU? CHÚNG PHỔ BIẾN NHƯ THẾ NÀO?

Các quy tắc có thể phát triển theo nhiều cách khác nhau, đặc biệt thông qua thói quen và khả năng kinh doanh. Một số quy tắc xuất hiện tự phát mà không có một thành viên tham gia đặc biệt nào có mục đích cụ thể và sau đó trở nên khó thay đổi thông qua thói quen. Trong bất kỳ nhóm nào tương tác thường xuyên, các quy tắc phát triển một cách đơn giản thông qua những mong đợi được hình thành bởi hành vi lặp lại. Phần lớn các kỹ thuật cơ bản của internet liên quan đến loại hình phát triển quy tắc phụ thuộc vào đường dẫn. Ví dụ, sự ưa thích phổ biến với việc sử dụng một Giao thức Quản lý Mạng đơn giản để quản lý các thiết bị trên một mạng đã xuất hiện từ việc sử dụng lặp đi lặp lại. Các nhà hoạch định chính sách hiểu được sức mạnh của sự lặp đi lặp lại không có trở ngại và thường tìm cách định hình điều đó. Chẳng hạn, bản cáo trạng của Hoa Kỳ về năm tin tặc Trung Quốc vào tháng 5 năm 2014 mục đích một phần để xua tan những kỳ vọng rằng gián điệp qua mạng do các nước bảo trợ nhằm đạt được lợi ích thương mại là chấp nhận được.

Tuy nhiên, phần lớn các quy tắc chính sách là kết quả của làm việc chăm chỉ của các bên liên quan, những người trong các tài liệu học thuật được gọi là các nhà kinh doanh quy tắc. Có thể là những cá nhân, như Henry Dunant, người sáng lập Ủy ban Chữ thập đỏ Quốc tế, người năm 1863 đã đề xuất các quy tắc hiện đang là trọng tâm của Công ước Geneva. Họ cũng có thể là các tổ chức phi chính phủ như Tổ chức Minh bạch Quốc tế tổ chức công bố và quảng bá các quy tắc chống tham nhũng. Các ví dụ khác bao gồm các công ty công nghệ tích cực tham gia vào việc xác định và thúc đẩy các quy tắc trên mạng, cũng như các tổ chức quốc tế như Liên Hợp Quốc hoặc các nước như Hoa Kỳ đang bận rộn thúc đẩy các quy tắc mong muốn trên nhiều mặt trận.

Hiện nay có nhiều học bổng về cách thức các quy tắc lan truyền (hoặc không lan truyền) trong các lĩnh vực chính sách khác nhau. Không có công thức kỳ diệu để thành công, nhưng có một số lựa chọn chiến lược rõ ràng mà các nhà xúc tiến quy tắc cần xem xét.

MỘT QUY TẮC ĐƯA RA ÁP DỤNG CHO NHỮNG AI?

Một đặc điểm nổi bật của quản trị số là sự đa dạng của các bên tham gia và các bên liên quan. Đây không chỉ đơn giản là một vấn đề được giải quyết bởi các chính phủ. Trái ngược với trường hợp vũ khí hạt nhân, việc sản xuất và sử dụng công nghệ không gian mạng phải không được sở hữu hoặc độc quyền bởi các chính phủ. Điều này tạo ra cơ hội để suy nghĩ một cách sáng tạo về nơi, chính xác, các quy tắc trên mạng có thể được nuôi dưỡng để có hiệu quả tốt nhất và chính xác ai là đối tượng của các quy tắc này. Có rất nhiều dự án thúc đẩy các quy tắc trên mạng nhằm mục đích điều khiển hành vi của nhà nước, nhưng ngay cả trong những trường hợp này cũng có những sự đánh đổi.

Một sự lựa chọn như vậy là giữa chiều rộng và chiều sâu của một quy tắc nhất định. Có thể dễ dàng hơn để phát triển những mong muốn được lựa chọn trong một nhóm nhỏ hơn, có quan điểm tương đồng nhau (như NATO). Người ta cũng có thể phát triển những mong muốn sâu sắc hơn để có sự phối hợp sâu rộng hơn trong một nhóm như vậy. Rủi ro có thể là một bên kết thúc với một công cụ quy tắc lưu trữ cô lập trên toàn cảnh quan kỹ thuật số. Các nhóm không có cùng quan điểm có thể tạo ra các bộ quy tắc cạnh tranh khác nhau. Ví dụ như, so sánh giữa sự hỗ trợ Liên minh tự do trực tuyến (Freedom Online Coalition) cho quyền tự do thể hiện ý kiến trực tuyến với các quy tắc của Tổ chức Hợp tác Thượng Hải (Shanghai Cooperation Organization) về việc hạn chế phát biểu chính trị mang tính lật đổ. Tuân thủ quy tắc là linh động, và có thể bắt đầu từ bước nhỏ và xây dựng một cách tập hợp để có cùng một quy tắc. Đây có thể là một phần logic nằm trong hiệp định song phương 2015 giữa Hoa Kỳ-Trung Quốc về gián điệp qua mạng vì lợi ích thương mại. Khi các thành viên quyền lực hoặc có ảnh hưởng công khai chấp nhận một quy tắc, điều này có thể có những ảnh hưởng lan tràn và khiến người khác phải tuân theo (các quốc gia thuộc nhóm G20, trong ví dụ gián điệp), tăng cường sức mạnh quy tắc các quy tắc mà các nhà hoạt động nổi bật ủng hộ.

CÁC QUY TẮC ĐƯỢC ĐỊNH HÌNH NHƯ THẾ NÀO VÀ CÁC QUY TẮC NÓI GÌ?

Kết cấu của bất kỳ vấn đề nào có thể có tác động lớn đến sự thành công nó. Nhiều khi thúc đẩy cho quy tắc là về sự thuyết phục, và điều thuyết phục của các khiếu nại để thông qua các quy tắc khác nhau phụ thuộc vào cách chúng được trình bày như thế nào với người tiếp nhận tiềm năng. Ai đang thúc đẩy quy tắc là một phần của kết cấu và sự hấp dẫn của quy tắc (hoặc thiếu điều ấy). Quyền lực lớn có thể không phải lúc nào cũng là những nhà lãnh đạo tốt nhất cho mọi nỗ lực. Nạn nhân của các cuộc tấn công trên mạng (như Estonia năm 2007) có thể có tính hợp pháp đặc biệt và tầm vóc trong việc thúc đẩy một số quy tắc.

Nơi mà một quy tắc được đề xuất đặt theo thể chế cũng có ý nghĩa đối với triển vọng tương lai của nó. Đưa các quy tắc mới vào các thể chế hiện hành có có lợi thế trong việc tránh được chi phí khởi sự quan liêu, nhưng điều đó cũng gắn kết các quy tắc mới với các quy tắc hiện có, điều này có thể định hình sự phát triển tương lai của các quy tắc mới theo những cách mạnh mẽ. Ví dụ, nhiều người lập luận rằng khi các bang chọn Thoả thuận Wassenaar một điều được sinh ra từ chính trị an ninh của Chiến tranh Lạnh là địa điểm phát triển các quy tắc (và luật pháp) cho các hệ thống giám sát dựa trên internet, các quy tắc mạng mới xuất hiện ủng hộ mối quan tâm về bảo mật qua nhu cầu của các nhà nghiên cứu và các chuyên gia có nhiệm vụ đối phó với các cuộc tấn công trên mạng. Lựa chọn thay thế là để thúc đẩy một thể chế mới hoặc một quá trình độc lập. Liên minh Trực tuyến Tự Do, Quy trình London The Freedom Online Coalition, the London Process, và Sáng kiến ​​NETmundial là những ví dụ của cách tiếp cận này. Điều này cho phép các nhà thúc đẩy tập trung hơn vào những nhu cầu đặc biệt trong không gian mạng, nhưng những nỗ lực đó sau đó không tận dụng được các nguồn lực hoặc lợi thế liên quan đến tính hợp pháp điều có thể đến từ sự gắn bó với các tổ chức hiện có.

TẠI SAO MỘT SỐ QUY TẮC THÀNH CÔNG TRONG KHI MỘT SỐ KHÁC THẤT BẠI?

Xây dựng quy tắc mới là khó và thất bại luôn có thể xảy ra. (Thậm chí có thể là kết quả rõ thấy.) Những người canh giữ các loại quy tắc khác nhau có thể được đặt chiến lược để không phát sinh các cuộc thảo luận về các quy tắc mới hoặc giữ cho các quy tắc tránh khỏi chương trình nghị sự. Về cơ bản hơn, niềm tin được chia sẻ thường biến động; chúng thay đổi theo bối cảnh, bởi những vấn đề mới nảy sinh, và bởi niềm tin nhóm và thành viên nhóm thay đổi. Một quy tắc lịch sử lâu đời trong chiến tranh là ý tưởng rằng người chiến thắng sẽ được cả. Trong thế kỷ XX, việc thừa nhận quy tắc này đã suy yếu trong một số các quốc gia- các quốc gia đã ngừng công nhận được những lợi ích lãnh thổ được thực hiện bằng vũ lực. Niềm tin chung hiếm khi được thực hiện trong suốt một thời gian, nhưng thay đổi liên tục; các sự kiện gần đây ở Crimea cho thấy rằng ngay cả quy tắc tồn tại trong thời gian dài chống lại các lợi ích lãnh thổ bằng bạo lực có thể ở trạng thái thay đổi.

Điều đó cho thấy rằng một số đặc điểm có thể đóng góp sự thành công của một quy tắc. Lãnh đạo có tầm ảnh hưởng và được tôn trọng rộng rãi trong việc thúc đẩy một quy tắc có thể đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng niềm tin chia sẻ và khuyến khích sự tuân thủ các quy định hành vi. Những nhà lãnh đạo (hoặc các doanh nhân) không nhất thiết phải là những thành viên có quyền lực nhất. Các nỗ lực để ngăn chặn mìn vào những năm 90 được dẫn dắt bởi các nhà hoạt động xã hội dân sự và được phối hợp bởi Canada trong việc chống lại các quốc gia có quyền lực mạnh hơn. Phong trào này đã thành công một phần bởi vì các thành viên tham gia không được nhận thức để theo đuổi một chương trình nghị sự địa chính trị. Các kết nối được xây dựng giữa một quy tắc mới và các quy tắc đang tồn tại được chấp nhận rộng rãi có thể làm tăng tính thu hút của các tuyên bố về một quy tắc mới và khả năng áp dụng.

NỀN TẢNG LINH ĐỘNG CỦA CÁC QUY TẮC: THÁCH THỨC VÀ CƠ HỘI

Các quy tắc không phải là sản phẩm cố định trong các thỏa thuận thương lượng điều đưa ra ý tưởng cố định. Một phần tiện ích, và thách thức của các quy tắc là ý nghĩa của chúng dịch chuyển. Mỗi ứng dụng mới của một quy tắc cho một tình huống mới sẽ cải thiện những hiểu biết một chính xác về những gì quy tắc đòi hỏi. Những tích lũy về hiểu biết được chia sẻ có thể đưa ra chiều sâu của quy tắc và làm cho chúng trở nên mạnh mẽ, nhưng những quy trình này cũng có thể bị tranh cãi và khó giải quyết. Sự kỳ vọng về các quy tắc trên mạng sẽ được mong đợi, đặc biệt là vì việc thay đổi công nghệ liên tục tạo ra những tình huống mới. Xây dựng các thể chế và quy trình vững chắc thông qua những cuộc tranh luận là một cách để quản lý những thách thức này.

Bản thảo ban đầu của bài viết này đã được chuẩn bị cho cuộc họp Ủy ban Toàn cầu về An ninh Không gian mạng ở Munich, Đức, vào ngày 17-19 tháng 2 năm 2017. Một giải pháp đầy đủ hơn về tất cả các vấn đề này có thể được tìm thấy trong bài viết đồng tác giả dưới đây. Tác giả cảm ơn Duncan B. Hollis vì những nhận xét hữu ích của ông về bản dự thảo này nhưng vẫn duy trì trách nhiệm về bất kỳ sai sót nào.

https://papers.ssrn.com/sol3/papers.cfm?abstract_id=2843913

Quảng cáo

Chia sẻ:

Liên quan

  • An ninh mạng hay an toàn dữ liệu cho Việt Nam?
  • 04.01.2022
  • Trong "Cybersecurity"
  • Cơ chế Quỹ: Vì sao khó thực hiện?
  • 05.01.2022
  • Trong "Economics - Kinh tế"
  • Chính thức có Bộ Quy tắc ứng xử của nghệ sĩ
  • 13.12.2021
  • Trong "Business ethics"